Thờ:
- Độc Cước sơn tiên (thiên thần)
- Lê Khôi (nhân thần)
- Bảo vệ Chương Hoà (thổ thần)
Địa điểm: Xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm
Thời gian: Mồng 9 đến 11 tháng Hai, Chính hội: mồng 10 tháng Hai
|
Đình Vẽ - Ảnh: Vũ Hưng |
Đặc điểm: Thi thả thơ, hát ca trù
Cây đa giếng nước quê nhà
Mái đình còn đó người xa chưa về
Người ơi người có nhớ quê
Giò Chèm, nem Vẽ, quạt lá đề như xưa
(ca dao)
Đầu xuân vào dịp mồng 10 tháng Hai, chúng ta về thăm làng Vẽ (Đông Ngạc) về phía tây bắc Hà Nội dự hội. Qua làng hoa Quảng Bá, Nhật Tân, Phú Thượng, vượt cầu Thăng Long độ 100m là tới. “Đất làng Giàn quan làng Vẽ”. Đất Vẽ, Đông Ngạc từ khoa thi đời Trần 11396 đến khoa thi 1915 có 25 vị đỗ tiến sĩ, 86 vị đỗ bảng nhãn, cử nhân. Người khai khoa nổi danh là Phan Phu Tiên, nhà sử học và nhà thơ nổi tiếng. Bài thơ “Làm người nên học” ông khuyên thế hệ trẻ:
Trẻ học lớn lên làm đạo lớn
Sinh khôn sớm biết, biết nhân tình
Tiến sĩ Lê Đức Mạo (1505) có bài ca trù “Bát giáp thưởng đào văn” để hát trước cửa đình – bài có 9 đoạn gồm 128 câu. Tiến sĩ Phan Lê Phiên (1757) có bốn tập thơ chữ Hán. Tiến sĩ Phan Văn Trường (1919) là người giúp Bác Hồ học tiếng Pháp và trợ lý cho Người khi làm bản yêu sách tám điểm gửi Hội nghị Véc – xây.
Đình làng có kiến trúc hình chữ “quốc”, cổng vào qua hai tam quan đồ sộ. Tam quan ngoại làm nền cao ngang bờ đê, qua cửa vào tam quan nội có ba cửa thông suốt, một đường gạch thẳng vào sân đình rộng gần một sào, hai bên nhà hành lang mỗi dãy bảy gian. Đại đình có hai bái đường nội và ngoại mỗi lớp chín gian, trung cung ba gian và hậu cung ba gian.
Nơi đây thờ ba bị thành hoàng: thiên thần là Độc Cước sơn tiên đại thánh, nhân thần là Lê Khôi cháu của Lê Thái Tổ, được người làng là đô đốc Đồng Tri Đông Xuyên hầu khi đi đánh Chiêm Thành qua Cửa Trào (Rào?) (Nghệ An) rước về thờ và thổ thần là Bảo vệ Chương Hoà. Ngoài bái đường nội có phụ thờ Phạm Quang Dung (còn có tên là Khách) đỗ tiến sĩ khoa Bính Tuất (1706) làm quan tới chức Công bộ thượng thư đã có công xây dựng lại ngôi đình vào năm Vĩnh Thịnh thứ 16 (1718) được như ngày nay; và Mạc quận công, vị tướng từ thời Hùng vương. Ngoài ra ở nhà tả vu còn thờ Phạm Thọ Lý là người đã cung tiến mấy sào đất để làm đình lần đầu, năm 1635.
Ở bái đường có hai đôi hạc: đôi hạc bằng đồng cao hai mét cùng bộ ngũ sự cũng bằng đồng như đỉnh, nến, bình hương. Phía ngoài có đôi hạc gỗ cao ba mét mới được sơn lại trông uy nghi lộng lẫy. Đồ gỗ trạm khắc tinh xảo còn có ba bộ kiệu bát cống, một bộ đòn rồng, một long đình. Tất cả đều sơn son thếp vàng rực rỡ.
Một bình gốm nền đỏ vẽ tranh sơn thuỷ nhiều màu, dùng đựng nước sông Hồng rước về lễ thánh.
Những di vật có giá trị khác là các bức tranh cổ đời Lê treo ở đại đình. Đó là 16 bức tranh minh họa cho 16 chữ Hán liên hoàn như: bách, cốc, phong, đăng, vạn, niên, ký, phúc, chúc, thọ, thánh, hoàng, tư, dân, an, thái.
Dưới đất có tám bức tranh đặt trên giá treo theo tám chủ đề: ngư, tiều, canh, mục, sĩ, nông, công, cổ. Dưới mỗi tranh đề một bài thơ thất ngôn bát cú. Bên ngoài đại đình, nhà hữu vu bảy gian có nhà bia và nhà đọc sách. Nhà bia lưu giữ bảy tấm bia đá, có tấm cao 1,8m, rộng 1m trụ trên rùa uy nghi như bia ở Văn Miếu, Hà nội. Tấm bia cổ nhất dựng năm Dương Hoà (1635) với tiêu đề “Thuỷ toạ thần từ” ghi việc lần đầu xây dựng ngôi đình này thay thế ngôi đình nhỏ ở ngõ Vẽ, do Phạm Thọ Lý cúng đất. Tấm bia lớn nhất “Trùng tu thần từ” dựng năm Vĩnh Thịnh (1718) ghi việc tiến sĩ Phạm Quang Dung tu sửa lớn ngôi đình.
Hội đình làng Vẽ tổ chức trọng thể trang nghiêm, ngày mồng 9 tháng Hai diễn tập duyệt đội ngũ, tối làm lễ nhập tịch. Ngày mồng 10 tháng Hai, rước chính thức. Có bốn cỗ kiệu nối tiếp nhau rước nước, rước hương án, rước long đình. Chân kiệu gồm 120 thanh niên nam nữ, áo màu rực rỡ đi đứng nhịp nhàng theo hiệu trống, chiêng, tù và. Đồ tế kễ là thủ lợn, xôi gà, hoa quả bốn mùa. Đặc biệt có tục dâng lễ vật bằng những cây mía tím, lá xanh nguyên. Đám rước đi từ đình qua đê rẽ chùa Tư Khánh rồi quay về, ước chừng 1km. Người trên đê từ làng Chèm, làng Bạc, làng Gạ, làng Bỏi…về dự đông vui nhộn nhịp. Ngoài những trò chơi như cờ bỏi, chọi gà, bịt mắt bắt dê…còn trò thả thơ, một nét đặc sắc của làng Vẽ văn hiến.
…Kể từ lập xã tới nay
Đất làng văn hiến liệng bày một phương…
Chủ trò xướng một đề thơ, một câu thơ bất kỳ (có thể từ Truyện Kiều, từ thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Lý Bạch, Đỗ Phủ…). Tao nhân mặc khách ngồi vòng tròn trên chiếu hoa nhận một đề thơ từ giấy hương gấp tư rồi chuẩn bị. Sau hồi trống từng người đứng lên giảng thơ nói điển tích hoặc hoạ lại toàn bài thơ. Hứng lên có thi nhân hát ca trù với bài của mình về cảnh đẹp của non sông gấm vóc và chí khí của cha ông. Có khi họ lại sửng sốt vì chính bài thơ là bức hoành của hành tham tụng Bùi Huy Bích:
Đầu bến cửa Trào thu nước trong
Cội đa bóng rợp đón bay vòng
Ông già sùng kính nghìn năm miếu
Dòng đến thần minh một thửa hùng.
Dân ấp ca mừng khen chính tích
Quân thù sụp lạy khiến oai phong
…
“Bình Chương” chính là thành hoàng Lê Khôi.
Hội làng Vẽ là sinh hoạt văn hoá đặc sắc của đất Thăng Long nên hàng năm dân thập phương kéo về dự hội rất đông.
Theo Lễ hội Thăng Long, Lê Trung Vũ (cb), NXB Hà Nội, 2001