Ngựa trong chiến tranh
Ngựa là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến nhất là chiến tranh thời cổ. Ngựa được sử dụng rộng rãi cho các chiến binh, kỵ binh trong các trận chiến tay đôi hay các trận đánh tập kích, đột phá cũng như sử dụng để do thám, thông tin liên lạc, vận chuyển…. Ngựa gắn với lịch sử chiến tranh một cách lâu dài của loài người, gắn liền với tên tuổi của các binh chủ kỵ binh, kỵ xạ, thám mã… và hình ảnh con ngựa còn gắn liền với các tướng lĩnh nhất là các võ tướng trên chiến địa, gắn liền với hình ảnh của những chàng dũng sĩ trong chiến đấu, săn bắn… Ngựa trong chiến tranh được gọi là Ngựa chiến hay chiến mã.
Mục lục
Tổng quan[sửa | sửa mã nguồn]
Loài ngựa sống trong thời đại đồ đá thì ngựa chỉ là con mồi để săn bắn làm thức ăn. Sau khi được loài người thuần dưỡng, với những ưu thế đặc dụng của mình, ngựa phục vụ rất nhiều cho on người không chỉ là sức kéo chủ lực của người lao động (chủ yếu là ở châu Âu) mà còn là vật cưỡi của những tướng lĩnh, quan viên, những chàng kị sĩ, Hiệp sĩ, công tử, những sĩ tử đỗ đạt cao được vinh quy bái tổ (ở Phương Đông)... Đặc biệt, ngựa đóng một vai trò rất lớn trong lịch sử chiến tranh.
Con người thuần hóa ngựa sớm nhất cách đây 5.500 năm ở Kazakhstan và sự phổ biến của ngựa trên khắp lục địa Á - Âu đã sớm dẫn đến việc sử dụng chúng trong chiến tranh quy mô lớn. vào thời đại đồ đồng (khoảng 3000 năm trước Công nguyên), nhiều bộ lạc châu Á rồi sau đó là Bắc Âu và Tây Âu đã bắt đầu thuần hoá ngựa hoang. Họ buộc chúng vào xe và cưỡi trên lưng chúng. Những ai có ngựa nuôi thường đi được xa hơn, buôn bán với các bộ lạc khác thuận lợi hơn, săn bắn được xa hơn và bắt đầu tiến hành chiến tranh để cướp đất đai.
Người Ai Cập và Trung Quốc cổ đại đã sử dụng xe ngựa kéo như một dạng chiến đấu cơ ổn định, trước khi sáng chế ra một yên cương và bàn đạp giúp tăng hiệu quả chiến đấu của chiến mã và giữa cho người cưỡi giữ thăng bằng, ổn định và không bị ngã ngựa. Các hiệp sĩ mặc áo giáp trên lưng ngựa với một thanh kiếm hoặc giáo, thương, đại đao hoặc các vũ khí đánh xa khác có thể gây nguy hiểm và chống lại hầu hết các loại lính chạy bộ.
Việc sử dụng chiến thuật ổn định từ ngựa chiến được đóng yên cương và bàn đạp chân đã cho phép người Mông Cổ có thể tấn công và bắn tên hiệu quả từ trên lưng ngựa (nhất là các kỵ xạ), đồng thời đem đến cho họ sự linh động để chinh phục phần lớn các vùng đất đã biết đến trên thế giới. Sự xuất hiện của ngựa trên các chiến trường thường báo hiệu sự khởi đầu của kết thúc đối với các nền văn minh thiếu phương tiện hỗ trợ quân lính tương tự. Vai trò chính của ngựa trên chiến trường vẫn không giảm sút cho tới kỷ nguyên chiến tranh hiện đại, khi xe tăng và súng máy nhập cuộc.
Trong lịch sử có nhiều con ngựa vang danh lịch sử như con ngựa Bucephalas của Alexandros Đại đế, ngựa Xích Thố (hay Xích Thố mã) của Lã Bố và Quan Vân Trường, ngựa Đích Lư của Lưu Bị, con ngựa trắng của Julius Caesar con ngựa ô (Ô Truy) của Hạng Vũ, của Nguyễn Hữu Cầu, lãnh tụ nông dân khởi nghĩa chống chúa Trịnh, ngoài ra có thể kể đến con ngựa sắt của Phù Đổng Thiên Vương trong truyền thuyết Việt Nam và con ngựa thành Troia của người Hy Lạp.
Chiến thuật[sửa | sửa mã nguồn]
Bằng chứng khảo cổ học đầu tiên về sử dụng loài ngựa trong chiến tranh có từ 4000-3000 năm TCN tại các vùng thảo nguyên của lục địa Á Âu (ngày nay là Ukraine, Hungary, and Romania). Không lâu sau khi thuần hóa ngựa, người dân ở các địa điểm này đã bắt đầu sống với nhau trong thị trấn tăng cường lớn để bảo vệ khỏi sự đe dọa của cướp cưỡi ngựa[1], những kẻ có thể tấn công và tẩu thoát nhanh hơn những cư dân có lối sống định canh định cư[2][3] Người du mục và loài ngựa gắn bó với nhau trên các thảo nguyên và sự lan rộng ngôn ngữ Ấn-Âu ở Đông Âu ngày nay là kết quả của sự chinh phục các bộ lạc và các nhóm người khác.[4] Việc sử dụng ngựa trong tổ chức chiến tranh cũng đã được lịch sử ghi nhận từ sớm. Một trong những mô tả đầu tiên là tấm minh họa chiến tranh về trận Standard of Ur, đế chế Sumer, 2500 năm TCN, cho thấy ngựa đang kéo cỗ xe bốn bánh.[5]
Xe ngựa kéo[sửa | sửa mã nguồn]
Trong số các bằng chứng sớm nhất của việc sử dụng xe ngựa là những ngôi mộ của con ngựa và xe ngựa còn sót lại của nền văn minh Andronovo (Sintashta - Petrovka, hiện tại thuộc Nga hiện đại và Kazakhstan) vào khoảng 2000 năm TCN.[6] Bằng chứng tài liệu chữ viết cổ xưa nhất về việc sử dụng xe ngựa kéo là vùng Cận Đông cổ đại là văn bản của Anitta (con trai của Pithana vua người Hittite cổ đại, vào thế kỷ 18 TCN, trong đó đề cập đến sự kiện 40 đội ngựa tại cuộc bao vây thành phố Salatiwara[7]. Người Hittite trở nên nổi tiếng khắp thế giới cổ đại bởi sức mạnh của họ trên chiếc xe ngựa kéo. Chiếc xe ngựa được sử dụng rộng khắp trong chiến tranh tại lục địa Á-Âu gần như trùng với sự phát triển của cây cung tổng hợp (Composite bow) (làm từ sừng, gỗ, gân dát mỏng), vào khoảng 1600 năm TCN. Cải thiện hơn nữa trong bánh xe và trục xe, cũng như đổi mới các loại vũ khí, dẫn đến thúc đẩy sửa dụng xe ngựa trong các trận chiến thời đại đồ đồng từ Trung Quốc đến Ai Cập[8]
Những kẻ xâm lược Hyksos mang xe ngựa kéo đến Ai Cập cổ đại năm 1600 TCN và người Ai Cập đã bắt đầu sử dụng nó tiếp sau đó.[9][10][11] Văn bản cổ nhất được bảo quản liên quan đến việc điều khiển những con ngựa chiến trong thế giới cổ đại là hướng dẫn của bậc thầy huấn luyện ngựa Kikkuli người Hittite, khoảng năm 1350 TCN, và mô tả tình trạng của các con ngựa kéo.[12][13]
Xe ngựa kéo cũng tồn tại trong nền văn minh Minoan, khi họ kiểm kê danh sách lưu trữ tại thành phố Knossos đảo Crete[14], khoảng năm 1450 TCN[15]. Xe ngựa kéo cũng được sử dụng ở Trung Quốc vào thời triều đại nhà Thương (1600-1050 TCN), chúng xuất hiện trong ngôi mộ. Cao điểm của việc sử dụng xe ngựa vào ở Trung Quốc là vào thời Xuân Thu (770-476 TCN), và vẫn tiếp tục sử dụng cho đến thế kỷ thứ 2 TCN.[16]
Các mô tả về vai trò chiến thuật của xe ngựa kéo tại Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại là rất hiếm. Sử thi Iliad có thể mô tả đến việc rèn luyện tại Mycenae, sử dụng xe ngựa kéo cho việc vận chuyển các chiến binh đi đến các trận chiến chứ không phải dùng cho chiến đấu thực sự.[17] Sau đó, Julius Caesar đã xâm lược đảo Anh trong năm 55-54 TCN, có ghi chép các chiến binh cưỡi xe ngựa kéo người Anh ném lao, sau đó rời xe ngựa của mình để chiến đấu trên mặt đất.[18][19]
Kỵ binh[sửa | sửa mã nguồn]
1 trong những ví dụ sớm nhất của việc cưỡi ngựa trong chiến tranh là những Kỵ xạ hay Kỵ phi giáo bắt đầu từ triều Assyria, cai trị bởi Ashurnasirpal II và Shalmaneser III[20]. Tuy nhiên, họ lại ngồi xa đằng sau lưng của ngựa, điều này cản trở họ điều khiển ngựa di chuyển nhanh, và mỗi con ngựa lại có 1 người giữ ngựa đứng trên mặt đất để tạo cho cung thủ được tự do khi sử dụng cung.
Người Assyria phát triển kỵ binh để phục vụ cho phòng thủ trước các cuộc xâm lược của người du mục từ phương Bắc, như người Cimmeri (đã xâm nhập bán đảo Tiểu Á TK 8 TCN và dần chiếm lãnh thổ Urartu trong suốt triều đại Sargon II khoảng 721 TCN[21]).
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Ngựa được sử dụng trong chiến tranh xảy ra hơn 5000 năm trước. Bằng chứng sớm nhất của việc dùng ngựa trong chiến tranh có từ Lục địa Á-Âu (Eurasia) (4000- 3000 TCN). Tranh minh họa của người Summerian từ 2500 TCN mô tả một số loại xe ngựa kéo. Khoảng 1600 TCN, những cải thiện về thiết kế yên cương ngựa và xe ngựa kéo đã dẫn đến xe ngựa kéo được sử dụng phổ biến trong suốt Cận đông cổ đại (Tây Á), và lần đầu tiên những dạng văn bản hướng dẫn huấn luyện ngựa sử dụng cho chiến tranh được viết vào khoảng 1350 TCN.
Chiến thuật sử dụng kỵ binh chính thức thay thế xe ngựa kéo, vì vậy cần có phương pháp huấn luyện mới, và vào khoảng 360 TCN, viên chỉ huy kỵ binh người Hy Lạp Xenophon đã viết một luận thuyết sâu rộng về thuật cưỡi ngựa. Hiệu quả của ngựa trong chiến trận cũng đã được cách mạng hóa bởi những cải tiến công nghệ, gồm phát minh ra yên xe, bàn đạp yên ngựa, và vòng cổ ngựa.
Rất nhiều ngựa với kích cỡ và giống khác nhau đã được sử dụng trong chiến tranh, nó phụ thuộc vào tính chất của cuộc chiến. Các giống ngựa khác nhau cũng được sử dụng cho mục đích khác nhau, chúng được sử dụng để trinh sát, phá kỵ binh, đột kích, thông tin liên lạc, hoặc tiếp tế quân nhu. Trong suốt lịch sử, la và lừa cũng như ngựa, đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp quân nhu cho quân đội trên chiến trường. Ngựa phù hợp với chiến thuật chiến tranh của các nền văn hóa du mục từ thảo nguyên Trung Á. Nhiều nền văn minh Đông Á đã sử dụng phổ kỵ binh và xe ngựa. Các chiến binh Hồi giáo dựa vào khinh kỵ trong các chiến dịch của họ trên khắp Bắc Phi, châu Á và châu Âu bắt đầu từ thế kỷ thứ 7 và thứ 8 sau công nguyên.
Người châu Âu sử dụng một số loại ngựa chiến tranh trong thời Trung Cổ, và các chiến binh thiết kỵ nổi tiếng nhất của thời kỳ này là kỵ sỹ giáp sắt. Với sự suy giảm của các kỵ sỹ và gia tăng của thuốc súng trong chiến tranh, kỵ binh ánh sáng một lần nữa nổi lên, được sử dụng trong cả cuộc chiến tranh châu Âu và trong cuộc xâm lược châu Mỹ. Những trận chiến bằng kỵ binh đã tạo ra vô số các vai trò trong những năm cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 và thường có vai trò quyết định cho chiến thắng trong các cuộc chiến tranh của Napoleon. Ở châu Mỹ, các bộ lạc dân bản địa đã học việc sử dụng ngựa và phát triển các chiến thuật chiến tranh và các trung đoàn ngựa cơ động cao đóng vai trò quan trọng trong cuộc Nội chiến Mỹ. Kỵ binh bắt đầu bị loại bỏ sau Thế chiến thứ nhất do ưu thế của chiến tranh thiết giáp, mặc dù một vài đơn vị kỵ binh ngựa vẫn còn được sử dụng vào chiến tranh thế giới II, đặc biệt là trinh sát. Vào cuối Chiến tranh Thế giới II, ngựa đã được hiếm khi được thấy trong trận chiến, nhưng vẫn còn sử dụng rộng rãi để vận chuyển binh lính và quân nhu.
Ngày nay, trong chiến trận các đơn vị kỵ binh gần như không có, mặc dù ngựa vẫn được nhìn thấy trong tổ chức lực lượng vũ trang của các nước thuộc thế giới thứ ba. Nhiều quốc gia vẫn duy trì các đơn vị nhỏ để dùng cho tuần tra và trinh sát, và các đơn vị ngựa trong quân đội sử dụng cho các mục đích nghi lễ và giáo dục. Ngựa cũng được sử dụng để tái hiện lịch sử (Historical reenactment) của trận chiến, thực thi pháp luật, và trong các cuộc thi cưỡi ngựa bắt nguồn từ kỹ năng cưỡi và đào tạo từng được sử dụng bởi quân đội. Ngựa gắn với lịch sử chiến tranh lâu dài của loài người, gắn liền với các tướng lĩnh nhất là các võ tướng trên chiến địa, gắn liền với những sử thi, truyền thuyết của loài người.
Thời cổ đại[sửa | sửa mã nguồn]
Vùng Trung Cận Đông[sửa | sửa mã nguồn]
Vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất, cả Trung Cận Đông lẫn Hy Lạp, Ai CẬp đều chưa biết đến kỵ binh. Người Assyria đi đầu trong các dân tộc dùng kỵ mã vào chiến tranh. Hình ảnh của những cỗ chiến xa đầu tiên do ngựa kéo được tìm thấy trên các bức chạm Sumer cổ xưa (3000 năm trước Công nguyên). Chúng có bốn bánh được gắn vào các trục không quay. Loại xe kéo của người Ai Cập và Assyrie đã được sử dụng rộng khắp châu Á và các nơi khác vào khoảng 1600 năm trước Công nguyên. Chúng là loại xe một trục và trục được gắn ở phía, do đó ngựa cùng với càng xe nhận về phần mình thêm sức nặng của xe. Trên xe có xà ích với một hoặc hai xạ thủ bắn cung. Ngoài ra còn có những lưỡi dao trông giống như lưỡi hái, nhọn và sắc là một thứ vũ khi nguy hiểm được gắn vào moay – ơ của xe. Người ta thường đưa xa chạy thành một dãy để xông vào phản công kẻ thù, phá tan binh địch. Có thể nói, Ở phương Đông khoảng 2000 năm trước công nguyên, ngựa được dùng để kéo chiến xa và vào khoảng 1000 năm trước công nguyên ngựa đã được dùng làm ngựa chiến và kỵ binh là đơn vị chủ yếu của quân đội.
Hy Lạp Cổ đại[sửa | sửa mã nguồn]
Sau đó đến người Hy Lạp sử dụng ngựa trong chiến trận. Lịch sử Hy Lạp có chuyện ngựa gỗ thành Troia. Khi quân Hy Lạp đến bao vây thành Troie, dân thành này chống cự hăng hái đến nỗi quân Hy Lạp không thể nào vô thành được. Theo mưu mẹo của Odysseus chế ra một con ngựa gỗ rất cao lớn, bên trong rỗng ruột để quân linh chui vào nấp, sau đó giả vờ bỏ con ngựa lại chiến trường rồi ra lệnh tất cả thuyền bè rút ra khơi. Dân thành Troia thấy quân Hy Lạp rút lui, vui mừng kéo nhau ra khỏi thành hì hục đưa con ngựa gỗ vào bên trong thành như là một chiến lợi phẩm quý giá thu được từ Hy Lạp. Nửa đêm hôm nấy, quân mai phục từ bụng con ngựa chui ra chém giết lung tung, mở cửa thành cho quân Hy Lạp tràn vào. Thành Troia thất thủ, vua Priam bị giết, câu chuyện ngựa gỗ phá thành được chép lại như một thiên anh hùng ca trong các tiểu thuyết của nhà thi hào Hómēros.
Ở giai đoạn phát triển của Vương quốc Macedonia, người Hy Lạp-Macedonia đã sử dụng khá rộng rãi ngựa trong chiến trận đặc biệt là việc sử dụng kỵ binh dần ưu thế so với chiến xa vì những địa thế gập ghềnh hiểm trở thì kỵ sỹ tỏ ra có hợi thế hơn là các cỗ xe chiến đâu do có thể xoay trở nhanh và cơ động hơn do đó, xe do ngựa kéo đã tục xuống hàng thứ yếu. Trong khi vận dụng các đội kỵ mã, Macedonia đã đạt được những thành công rất lớn đến vĩ đại, trong việc áp dụng kỵ binh vào chiến trận. Cụ thể là trong trậm Gaugamela đẫm máu (331 trước Công Nguyên), lực lượng của đến quốc Ba Tư chiếm ưu thế so với quân Macedonia. Quân Ba Tư có voi chiến, hàng ngàn cỗ xe chiến, rất nhiều kỵ mã và bộ binh. Dưới sự lãnh đạo và chỉ huy kiêm vị vua trẻ xứ Macedonia, Alexandros Đại đế đã tung 7.000 kỵ mã và 40.000 bộ binh vào trận. Ông này bố trí lực lượng có thể tấn công vào đại binh của vua Ba Tư Darius III vốn chậm chạp và cơ động kém, khiến cho quân Ba Tư hoảng loạn, xe nọ đè lên xe kia, nghiến luôn cả bộ binh. Còn các đạo quân của Macedonia thì thừa thắng tiêu diệt được nhiều kẻ thù. Tạo nên bước ngoặt lớn trong trận chiến này.
Có thể nói, ở giai đoạn này, con ngựa nổi danh thế giới là con Bucephalas của vua Alexandros đại đế. Chuyện kể rằng, một người lái buôn Ba Tư dắt con hắc mã đến bán cho vua Philippos II của Macedonia nhưng tất cả các tay kỵ mã tài giỏi nhất đều không thể nào điều khiểu nổi con ngựa bất kham này. Hoàng tử Alexandros lúc đó hãy còn là cậu bé, đi chậm rãi đến bên con ngựa, dịu dàng đưa tay vỗ nhẹ vào cổ nó và khẽ lái con thần mã hướng về phía Mặt trời để không còn sợ bóng của nó và cuối cùng đã thuần hóa được con vật dữ tợn. Sau đó vị vua trẻ và con chiến mã đã cùng nhau tung hoành chiến địa, chinh phục cả quốc Ba Tư rộng lớn và dựng lên một đế quốc mới bao la ở Châu Á. Sứ giả Plutarchus đã chứng kiến sự kiện trên cũng kể lại rằng, khi con Bucephalas qua đời tại Ấn Độ, Alexandris buồn bã trước cái chết của người bạn thân yêu đã cho lập thành phố Bucephalia để tưởng nhớ nó. Nòi giống của nó được tồn tại mãi đến ngàn năm sau tại các xứ châu Á. Nhà thám hiểm Marco Polo kể rằng, vua Badasan thấy cậu mình có một chuồng ngựa thuộc dòng Bucephalas, xin ông này một con nhưng không được liên ám sát ông cậu để cướp ngựa. Nhưng bà mợ đã sai người di giết hết cả bầy ngựa quý đó để trả thù. Vụ này xảy ra vào năm 1280, và từ đó dòng Bucephalas tuyệt diệt.
La Mã Cổ đại[sửa | sửa mã nguồn]
Thời La Mã Cổ Đại, các loại ngựa chiến chỉ để dùng vào công tác thông tin, liên lạc là chính. Lực lượng chủ chốt của đế quốc La Mã là vô số bộ binh được huấn luyện rất tốt được biên chế thành các Bách nhân đội. Còn để tham chiến trong các trận đánh quy mô thì thuê mướn các đội kỵ binh người tộc German (kỵ binh sông Rhin). Người La Mã thường sử dụng các đội kỵ binh người Bắc Phi đặc biệt là kỵ binh Numidia. Họ chiến đấu trên lưng ngựa loại thấp bé những rất lanh lợi và dai sức. Đây là đạo kỵ bịnh không mặc áo giáp và vũ trang rất tồi nhưng thường xuất hiện đột kích bất ngờ rồi rút lui nhanh, kiến cho đối phương lúng túng và làm hoảng loạn đội hình.
Trong thời La Mã cổ đại, ngoài con ngựa trắng của Caesar thì con ngựa yêu quý Incitatus của Hoàng đế Caligula cũng là một con ngựa nổi tiếng. Người ta nói rằng, Caligula đã cho nó một cái chuồng tuyệt hảo được trang hoàng bằng đá cẩm thạch và ngà voi và một chiếc vòng cổ đẹp được phủ đầy ngọc quý. Có nhiều câu chuyện truyền miệng về Incitatus, có nhẽ là bắt nguồn từ những lời nói nước đôi nực cười của Caligula. Theo nhà sử học Cassius Dio, vị nguyên thủ này đã hứa sẽ phong cho Incitatus làm quan Tổng tài, và Suetonius đã kể lại những tin đồn về kế hoạch ấy[22].
Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]
Ở Trung Quốc, khoảng 2.000 năm trước Công nguyên, ngựa được dùng để kéo chiến xã và khoảng 1.000 năm sau đó, con ngựa được dùng làm ngựa chiến và kỵ binh là đơn vị chủ lực trong quân đội của các triều đại phong kiến. Ngựa tham dự chiến trận suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc. Ở Trung Quốc cũng như các nước phương Đông, hình ảnh "da ngựa bọc thây" xuất phát từ câu nói của Phục Ba Tướng quân Mã Viện đã nói lên hình ảnh bi hùng ở nơi chiến địa, người và ngựa đã thường vào sinh ra tử. Nhiều con tuấn mã đã cùng với chủ tướng lập nên nhiều chiến công hiển hách, lưu danh trong sử sách.
Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Lịch sử Việt Nam cũng nói đến con ngựa sắt thần kỳ của Phù Đổng Thiên Vương con ngựa này được bọc sắt, cao lớn có khẳ năng phi nhanh, khạc lửa và có thể bay lên trời. Theo huyền sử thì vào đời Hùng Vương thứ sáu, có quân đội nhà Ân tràn vào xâm lược nước Văn Lang, gây nhiều tội ác. Hùng Vương rất lo và cho sứ giả đi tìm khắp nơi để tìm người tài ra cứu nước. ở Kẻ Dỏng, thuộc bộ Vũ Ninh có cậu Gióng đã lên ba tuổi mà không biết nói, biết cưới. Nghe sứ giả của nhà vua đi kén người ra giúp nước, thì cậu nói được và mời vị sứ giả đến và bảo: "Ngài về tâu với đức vua đúc cho con ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt và chiếc nón sắt mang đến cho ta để ta đi đánh giặc Ân". Sau cái hôm đó, Gióng lớn nhanh như thổi, ăn uống la liệt. Ngựa sắt, nón sắt và giáp sắt, đã rèn xong. Guóng nhảy lên lưng ngựa, Ngựa hí một tiếng dài, thét ra lửa, lao vút ra trận. Phá xong quân Ân, Gióng phi ngựa đến chân núi Sóc Sơn, ghìm cương, cởi giáp và nón treo lên một cành cây, sau đó cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời. Hùng Vương nhớ ơn Dòng bèn cho lập đền thờ ở Kẻ Dỏng và phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương.
Thời Trung Cổ[sửa | sửa mã nguồn]
ở Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Nỗ lực xây dựng lực lượng kỵ binh được ghi chép sớm nhất trong sử sách Việt Nam là dưới triều nhà Lý. Năm 1170, nhà vua cho xây Xạ đình (trường bắn) ở Nam Hoàng Thành. Ngoài học kinh vở, binh pháp, 1 nội dung bắt buộc trong hệ thống giáo dục cho con em quý tộc thời Lý là luyện tập cưỡi ngựa bắn cung. Tập tục này trở thành chuẩn mực cho các triều đại về sau. Trong các kỳ thi tiến sĩ võ, ban võ nghệ đầu tiên được thao diễn bao giờ cũng là cưỡi ngựa. Thời Lê Thánh Tông, trong 66 Ty ở Kinh đô, có 7 Ty cung nỏ, trong đó có Ty Kỵ Xạ, Ty Du Nỗ, Tráng Nỗ, Kính Nỗ, Thần Tý. Trong 51 Vệ ở kinh đô, có Vệ Kỵ Xạ chia làm 5 sở, lại có 4 vệ Mã Bế.[23] Khi hỏa khí xuất hiện, kỵ xạ cũng dần dần mai một bởi hỏa khí dễ sử dụng, dễ chế tạo và có sức công phá vượt trội. Lê Quý Đôn ghi lại rằng nhà Lê Trung Hưng từ năm 1724 trở về sau vẫn còn có môn cưỡi ngựa bắn cung trong thi Bác Cử.[24] Nhưng trong Thượng Kinh Phong Vật Chí, ông cho biết thời đại ông ngừoi ta đã bãi bỏ cưỡi ngựa bắn cung, và thay bằng nội dung cưỡi ngựa bắn súng trong khoa cử.[25]
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ tục biên ghi nhận thời Nam Bắc triều, quân Trịnh theo phò nhà Lê có lực lượng kỵ binh khá mạnh. Trịnh Tùng từng sử dụng 400 quân thiết kỵ làm trợ chiến để đẩy lùi cuộc xâm lấn của quân Bắc triều. Năm 1592 ông huy động tới 5000 kỵ binh nặng, trang bị giáp sắt cho cả ngựa để vây hãm Đông Kinh của nhà Mạc.[26]
William Dampier, một nhà du hành từng đến Đàng Ngoài năm 1688 có ghi nhận là quân đội chúa Trịnh có chừng 70.000-80.000 quân thường trực, trong số đó hầu hết là bộ binh trang bị súng tay, ở kinh thành chúa có thường trực voi chiến 200 thớt, ngựa chiến 300 con, nuôi béo khỏe. Ngựa trung bình cao 140 cm đến vai, kích cỡ tương đương các nòi ngựa để cưỡi hiện đại.[27]
Một ghi chép của người phương Tây về lực lượng quân sự Đàng Ngoài dưới thời Thanh Đô Trịnh Tráng cho rằng vào năm 1640 nhà chúa có dưới trướng hơn ba mươi vạn bộ binh, hai ngàn thớt voi trận và một trăm lẻ hai ngàn quân kỵ(!).[28] Con số này đáng nghi vấn. Tuy nhiên ghi chép này cũng cho người đời sau thấy được ấn tượng của những người ngoại quốc về 1 quân đội Đại Việt hùng cường toàn diện, từ thủy binh, bộ binh đến kỵ, tượng binh.
Người Ả rập Hồi giáo[sửa | sửa mã nguồn]
Người Ả Rập ở vào thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên dã quyết định chinh phục cả thế giới bằng những đội kỵ mã tài ba. Với những con ngựa chiến thuộc giống Ả rập, họ có thể phi qua sa mạc mà có thể không phải quá chú trọng vào việc nghỉ ngơi, ăn uống và con ngựa tốt đối với người Ả Rập là một tài sản quý giá. Giống ngựa Ả Rập ra đời vào khoảng thế kỷ 6. Trong khi các hiệp sĩ châu Âu rất ưa chiến đấu trên lưng ngựa đực, còn các kỵ binh Ả Rập ngược lại, rất thích ngựa cái vì ngựa cái phi êm hơn, không hay đòi ăn, dễ phục kích kẻ địch vì chúng không hay hí hoặc tự tiện hí vang. Ngựa này còn dùng trong thông tin liên lạc, phi nước kiệu là kiểu vận chuyển rất nhanh của ngựa. Kỷ lục chạy nhanh nhất của ngựa ở cự ly 150m là 66 km/h. Giống ngựa Ả Rập có thể chạy liên tục 250 km suốt ngày đêm trong những điều kiện khó khăn. Do đó, từ lâu nhiều nước trên thế giới người ta dùng ngựa trạm để đưa thư, công văn và thông tin liên lạc. Từ kế kỷ thứ 8 cho đến thế kỷ thứ 11, người Moor ở Bắc Phi đã dùng kỵ binh chiếm chọn cả vùng này và đe doạ đến nước Tây Ban Nha (đã tiến chiếm gần ½ bán đảo Tây Bồ). Dòng máu của giống ngựa Bắc Phi hoà cùng dòng máu ngựa địa phương đã cho ra đời giống ngựa Andalou nổi tiếng sau này và phát triển cả ở châu Âu.
Châu Âu Trung cổ[sửa | sửa mã nguồn]
Vào thời Trung Cổ ở châu Âu các hiệp sĩ phương tây thường dùng các giống ngựa to con và bình tĩnh để chở cả người và trọng lượng áo giáp cồng kềnh (và đặc biệt chỉ sử dụng ngựa đực). Đến lúc truy đuổi kẻ thù, ngựa phải tỏ ra nhanh nhẹn và dai sức khi phi nước đại. Con ngựa chiến nổi tiếng có thể kể đến trong thời kỳ này là con Bavieca hay Babieca của El Cid đã cùng vị hiệp sỹ này chinh chiến nhiều năm, giành nhiều vinh quang.
Tuy vậy, đôi khi kỵ binh ở châu Âu bị khuất phục trước cung tên ví dụ như trong trận Crécy giữa Anh và Pháp, các cung thủ Briton của Anh dựa vào vị trí hiểm trở và cung nỏ tốt đã đánh bại đội kỵ binh của quân Pháp.
Ở Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]
Hán Cao Tổ Lưu Bang, ông vua sáng lập ra nhà Hán vẫn thường tự phụ là nhờ có mười năm sống trên lưng ngựa nên mới thu phục được cả giang san (trong một lần đối thoại). Trong khi đó Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ cũng có con ngựa chiến Ô Truy ở bên cạnh; về sau, khi thất thế, Hạng Vũ có nhắc đến ngựa Truy trong bài ca ông ngâm cùng mỹ nhân Ngu Cơ trong thành Cai Hạ vào đêm cuối cùng của hai người.
Cuối thời Đông Hán và thời Tam Quốc, ngựa cũng được sử dụng rộng rãi trong chiến tranh và gắn liền với hình ảnh của các chiến tượng. Các đội kỵ binh Tây Lương do Mã Siêu chỉ huy đã gây khó khăn nhiều cho triều đình nhà Hán trong các trận chiến. Tào Tháo cũng tổ chức được đội kỵ binh mang tên Hổ Báo Kỵ hay còn gọi là Hổ kỵ là đội quân chủ lực của Tào Tháo. Những con ngựa trong thời kỳ này có thể đề cập con ngựa Đích Lư cũng thuộc loại ngựa tốt. Nó mang Lưu Huyền Đức nhảy qua suối Đàn Khê thoát nạn trong khi đoàn quân của Thái Mao truy đuổi theo sau (theo tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa). Trong thời kỳ này con ngựa nổi tiếng nhất là ngựa Xích Thố. Ngựa Xích Thố có sắc lông màu đỏ tượng trưng cho ngựa quý. Trong truyện Tam Quốc diễn nghĩa có con ngựa Xích Thố, ban đầu là của Đổng Trác sau đó Đổng Trác dùng Xích Thố để thu phục Lã Bố và cùng ông này lập nhiều công lao, sau Tào Tháo chiếm đoạt rồi đem biếu cho Quan Vũ, khi Vũ bị hại chết, nó cũng buồn rầu mà chết theo. Sau đó trong các chiến dịch Bắc phạt của Thừa tướng Gia Cát Lượng nước Thục, ông đã sử dụng Trâu gỗ, ngựa máy để vận chuyển lương thảo trong lần tấn công thứ ba. Ngựa gỗ của Gia Cát Lượng là một thứ ngựa máy có thể thay thế ngựa thật để vận tải quân lương, sau đó Tư Mã Ý, tướng Ngụy, vì không sành máy móc nên đã bị mắc lừa, để cả đoàn xe lương thực cho quân Thục Hán do Vương Bình chỉ huy cướp mất.
Dã sử sau này Trung Quốc còn chép, vua nước Lương có ngựa rất quý, ngày chạy ngàn dặm, tên là Tiêu Sương. Khi con ngựa này bị vua Tống đánh cắp đem về, nó nhớ chủ cũ, bỏ ăn rồi chết. Hoàng đế Đường Huyền Tông cũng nổi danh là ông vua mê ngựa vì trong tàu ngựa của ông có đến bốn vạn con ngựa quý.
Trong binh pháp phương Đông việc sử dụng chiến mã và đánh trận bằng kỵ binh chủ yếu dựa vào phương châm "Tốc chiến, tốc quyết", đánh nhanh, rút lui nhanh và tận dụng yếu tố bất ngờ. Mã chiến thì có thể phát huy thế mạnh ở đồng bằng, đường giao thông thuận lợi, nhiều ngả đi nhiều ngõ đến, và rất kỵ chốn nê địa, tức địa hình khó khăn, hiểm trở, nhiều đầm lầy. Trong phép dùng mã chiến có phép: "liên hoàn giáp mã", theo phép đánh này thì người ta cho ngựa mang giáp sắt phủ kín hết thân mình, chỉ hở có đôi mắt, và cứ từ 5 đến 10 giáp mã thì sắp thành một hàng chữ "Nhất".
Trước ức ngựa có dắn một đòn cản đính con dao nhọn hoắt. Trân lưng mỗi con ngựa có một chiến binh mặc áo giáp, cầm dao hoặc cầm thương, mang cung tên, khi xông trận thì cho ngựa xông vào quân địch khiến cho đối phương hoảng loạn, tan rã hàng ngũ, thế rồi dùng dao thương, cung tên tiêu diệt. phép "liên hoàn giáp mã" chủ yếu uy hiếp tinh thần địch, đánh chọc thủng phòng tuyến quân thù và càn quét đối phương, công dụng như thiết giáp xa thời nay.
Tuy nhiên phép "liên hoàn giáp mã" cũng có chỗ yếu của nó, là sự xoay chuyển khó khăn, di động chậm chạp. Để phá pháp "liên hoàn giáp mã" phải dùng câu liêm thương phối hợp với pháo lớn làm cho ngựa phải kinh hoàng phóng chạy, khi ấy chỉ dùng cân liêm thương móc vào chân ngựa. Cũng có thể dùng phép "lăn khiên" mà lăn tròn dưới mặt đất rồi dùng mã tấu chặt đứt chân ngựa.
Mông Cổ[sửa | sửa mã nguồn]
Vào thế kỷ 13 sau Công nguyên vó ngựa quân Mông Cổ tung hoành khắp nơi. Giống ngựa Mông Cổ bắt nguồn từ những đồng cỏ phương Bắc với vóc dáng có phần nhỏ hơn, chân ngắn hơn, bờm và đuôi rậm hơn, song chúng ít đòi hỏi chăm sóc, sức chịu đựng tốt, có thể sống quanh năm bằng cỏ mọc trên thảo nguyên, đặc biệt thích nghi tốt với khí hậu cận nhiệt đới. Có Trong suốt thế kỷ XIII, vó ngựa của quân xâm lược Mông Cổ đã tung hoành khắp nơi. Với sức mạnh quân xâm lược Mông Cổ đã bành trướng xuống phía Nam, ngựa Mông Cổ có thể nói là phương tiện duy nhất để di chuyển đại quân từ Á sang Âu. Vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu thì cỏ không mọc được, đến đâu thì bình địa đến đó, máu chảy đầu rơi, xơ xác.
Song đoàn quân Mông Cổ ba lần đưa quân xuống phương Nam xâm lược Đại Việt thì gặp thất bại, môt phần do địa hình ở đây không thuận lợi để phát huy sở trường tác chiến của kỵ binh. Việt sử còn đề cập đến chuyện con ngựa đá thời nhà Trần. Trong lúc làm lễ ở chùa Lăng sau khi đánh bại quân Mông Cổ, vua Trần Nhân Tông liền cảm khái hai câu thơ bằng chữ Hán:
- Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
- Sơn hà thiên cổ điện Kim âu
- (Xã tắc hai phen bon ngựa đá
- Non sông nghìn thuở vững âu vàng)
Về phía quân Đại Việt, trong chiến tranh với Mông Cổ, bên cạnh voi và thuyền thì ngựa cũng được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là danh cho các viên tướng. Sử cũ còn chép lại viên tướng Lê Phụ Trần trong một trận kịch chiến đã một mình một ngựa lao vào trận địa kỵ binh của quân Mông Cổ và sắc mặt vẫn thản nhiên như không. Hay sau đó Vũ Vương Hiến (Trần Quốc Hiến) dùng kỵ binh truy kích và bắn chết tướng A Bát Xích của Mông Cổ. Sau này vị vua Trần Duệ Tông cũng nổi danh là ông vua trên lưng ngựa và chết tại sa trường.
Thời cận đại và hiện đại[sửa | sửa mã nguồn]
Mãi cho đến lúc phát hiện các loại hoả khí – như súng thường và pháo thần công- thì áo giáp trở nên lỗi thời. Những kẻ đánh thuê vũ trang bằng súng nhanh nhẹn trên lưng ngựa đã thay thế các hiệp sĩ để xông trân. Các đơn vị kỵ binh loại nhẹ đã tồn tại cho đến cuối chiến tranh thế giới lần thứ 2. Một số quốc gia vẫn dùng kỵ binh cho đến ngày này, chủ yếu là để phục vụ vào nghi thức các ngày lễ hội và đón chào các vị nguyên thủ ngoài ra một số nước vẫn duy trì các đội cảnh sát cưỡi ngựa để đàn áp biểu tình, giải tán đám đông.
Những con ngựa nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]
Ngựa chiến gắn liền với chiến trận với danh tướng, có một số con ngựa được nhắc đến trong lịch sử, văn hóa gồm[29][30][31]:
- Ngựa gỗ thành Troy: Là con ngựa gỗ góp phần quan trọng vào chiến thắng của quân Hy Lạp ở thành Troy sau 10 năm vây hãm không hiệu quả. Khi sức mạnh quân sự không thể khuất phục, quân Hy Lạp tháo dỡ tàu chiến, dựng thành một con ngựa khổng lồ bằng gỗ rỗng ruột. Trước khi rút lui, quân Hy Lạp để lại con ngựa gỗ cùng một người có nhiệm vụ đánh lừa binh sĩ thành Troy. Người ta kéo con ngựa gỗ vào thành. Khi quân thành Troy no say sau bữa tiệc chiến thắng, binh sĩ trong bụng ngựa thoát ra ngoài, mở cổng thành để quân Hy Lạp tiến vào đánh chiếm.
- Bucephalus: Là một trong những con ngựa bất kham nhất thời Alexander Đại đế. Không chiến binh nào có thể cưỡi lên mình nó. Khi cha Alexander cho phép ông chọn bất kể con ngựa nào mình muốn, ông đã chọn Bucephalus và thuần hóa nó trở thành con ngựa chiến gắn liền với tên tuổi của mình.
- Ngưa Ô Truy của Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ là con chiến mã lông đen tuyền, to lớn, dũng mãnh. Khi Hạng Vũ bại trận dưới tay Hán Vương Lưu Bang, Hạng Vũ đã dùng kiếm tự sát bên dòng sông Ô Giang. Khi thấy chủ nhân tự sát, ngựa Ô Truy cũng nhảy xuống sông chết theo. Người đời sau vẫn nhắc về ngựa Ô Truy như một biểu tượng đẹp của lòng trung thành.
- Ngựa Xích Thố: Con ngựa này dài một trượng, cao tám thước, màu đỏ rực như lửa, tuyệt không có một sợi lông tạp, ngày đi ngàn dặm, trèo non vượt suối dễ dàng. Ngựa Xích Thố từng qua tay rất nhiều chủ. Chủ nhân đầu tiên của Xích Thố là Đổng Trác (132-192). Đổng Trác đã đem Xích Thố tặng cho Lã Bố. Ngựa Xích Thố đã cùng Lã Bố chinh chiến khắp nơi. Trên chiến trường, ông chuyên cưỡi ngựa Xích Thố, như một mãnh hổ tả xung hữu đột, vạn người không địch nổi. Sau đó Lã Bố bị Tào Tháo giết, ngựa Xích Thố thuộc về Tào Tháo. Tào Tháo quý mến nhân tài như Quan Vũ, cũng muốn bắt chước Đổng Trác tặng ngựa cho anh hùng. Sau khi Quan Vũ bị giết, Xích Thố lại rơi vào tay một viên tướng nhà Thục Hán khác là Mã Trung. Nó tuyệt thực đến chết.
- Ngựa Tuyệt Ảnh: Là ngựa của Tào Tháo. Tuyệt Ảnh nghĩa là đến cái bóng ngựa cũng không đuổi kịp, tên Tuyệt Ảnh nhằm nhấn mạnh đặc tính nổi bật nhất của con ngựa, đó là sự thần tốc. Một lần, Tào Tháo không ngờ lại bị trúng kế của kẻ thù là Trương Tú, bị đánh bất ngờ, trở tay không kịp, suýt nữa thì bị mất mạng. May có ngựa Tuyệt Ảnh mới thoát được ra ngoài. Ngựa Tuyệt Ảnh bị trúng ba mũi tên trên mình mà vẫn cất vó phi nước đại, sau đó bị trúng một mũi tên vào mắt mới gục ngã.
- Đích Lô: Là ngựa của Trang Vũ. Lưu Bị nhìn thấy ngựa của Trương Vũ cho rằng đây là một con tuấn mã, liền hết lời ca ngợi rằng "con ngựa này chắc chắn là ngựa thiên lý". Triệu Vân cướp ngựa. Khi Lưu Biểu nhìn thấy con ngựa này cũng khen, liền tặng con ngựa này cho Lưu Biểu. Không ngờ, Lưu Biểu lại thấy con ngựa này "có quầng mắt, trên đầu có những đốm trắng, lại tên Đích Lô, ắt là con ngựa sát chủ" và trả lại. Sau đó Lưu Bị đào tẩu trong một vụ mưu sát cưỡi ngựa Đích Lô chạy trốn đến bên suối Đàm Khê. Đích Lô bỗng nhiên vùng lên, phi một phát sang bờ bên kia. Khi đem quân đi đánh nước Thục, Lưu Bị đã tặng cho Bàng Thống, ông này mới cưỡi lên Đích Lô đã bị kẻ địch tưởng nhầm là Lưu Bị nên bắn chết.
- Ngựa Bạch Long hay Dạ Chiếu Ngọc Sư Tử là ngựa của Triệu Vân toàn thân lông trắng như tuyết, tương truyền một ngày có thể đi hàng nghìn dặm. Ngay từ khi mới sinh ra phía dưới cổ đã có một hàng lông dày, trông giống như sư tử, tính khí nóng nảy, sau này lớn lên tính khí bớt nóng nảy hơn, buổi tối con ngựa này còn phát ra ánh sáng trắng bạc. Trong trận Trường Bản xuất quân đi đánh trận đều cưỡi Dạ chiếu ngọc sư tử, có lần Triệu Vân cùng ngựa bị rơi xuống hố bẫy sẵn của quân địch, nhưng sức ngựa rất lớn, cuối cùng cũng nhảy được lên trên miệng hố. Sau này nó chính là lý do dẫn đến trận đánh Tăng Đầu thị của quân Lương Sơn Bạc.
- Ngựa Ô Vân Đạp tuyết còn có tên là Vương Truy Mã, sống ở thế kỷ thứ hai, toàn thân màu đen nhưng bốn vó màu trắng. Đây là ngựa của Trương Phi. Ngựa của Trương Phi có tên rất ý nghĩa, Vương Truy Mã có nghĩa là con ngựa đi theo hầu hạ Đại Vương. Tương truyền Trương Phi và Ô Vân Đạp Tuyết đều đen như nhau. Trương Phi quý chú ngựa này như con đẻ, thường xuyên tự tay tắm rửa cho ngựa quý.
- Song Vỹ Hồng là chiến mã có bộ lông hồng với đuôi dài có hai màu, hồng một bên và trắng một bên. Khi nó cất vó phi, trông như con thần mã có hai đuôi, nên được gọi là Song Vỹ Hồng, nghĩa là ngựa hồng hai đuôi. Song Vỹ Hồng là con ngựa chiến cùng Lý Thường Kiệt bình Chiêm, phá Tống. Năm 70 tuổi Lý Thường Kiệt còn cầm quân đi đánh Chiêm Thành, bắt sống vua Chiêm, năm 85 tuổi còn đi dẹp loạn.
- Ngựa Nê Thông cực kỳ quý hiếm của vua Trần Duệ Tông. Nê là để chỉ con ngựa lông có hai màu: trắng và đen. Thông chỉ ngựa sắc lông màu xanh. Qua cách gọi tên có thể hiểu con ngựa của Nê Thông của vua Duệ Tông quả là cực kỳ hiếm, màu sắc lông của nó là một sự pha trộn màu sắc thật kỳ diệu của ba màu trắng, đen và xanh. Vua cưỡi ngựa Nê Thông dẫn quân bộ, men theo bờ biển, đến cửa biển Nhật Lệ đóng quân lại, luyện tập trong một tháng. Trận đánh đó, Vua bị tử trận. Sử không ghi lại số phận con ngựa Nê Thông.
- Nelson: Là chiến mã của George Washington, tổng thống đầu tiên của Mỹ. Con ngựa còn có biệt danh là Old Onzie. Tổng thống Washington mua Nelson năm 1779 và vô cùng yêu quý nó. Ông thích con ngựa này bởi nó khá lì lợm và khó bị kích động bởi âm thanh trận mạc. Con ngựa sát cánh cùng George Washington trong trận chiến ở thung lũng Forge và Yorktown.
- Eclipse là chú ngựa đua huyền thoại, bất khả chiến bại của nước Anh thế kỷ 18. Eclipse thậm chí còn được Hoàng gia Anh phong tặng danh hiệu Hiệp sĩ. Bố là ngựa vằn, mẹ là bạch mã thuần chủng, nhẽ ra theo "thông lệ" Eclyse sẽ phải khoác bộ áo sọc đen trên khắp thân mình. Tuy nhiên đi ngược lại quy luật, Eclyse chỉ có đúng 2 mảng da vằn ở trên mặt và chân sau, phần còn lại là bộ lông mượt mà như tuyết trắng. Trên thực tế, chẳng có bàn tay tô vẽ nào can thiệp vào đây.
- Marengo: Là con ngựa chiến nổi tiếng của Hoàng đế Napoleon Bonaparte. Ông đặt tên nó theo địa danh Marengo, nơi Napoleon giành chiến thắng vang dội năm 1800. Nó gắn bó cùng ông trong trận Austerlitz, trận Jena - Auerstedt, trận Wagram và trận Waterloo, trận chiến khép lại sự nghiệp cầm quân lẫy lừng của vị hoàng đế người Pháp. Con ngựa bị thương 8 lần trong những năm tháng ra trận cùng Napoleon.
- Copenhagen: Là tên con chiến mã của Công tước Arthur Wellesley, người dẫn đầu cuộc tấn công chống lại Hoàng đế Napoleon Bonaparte trong trận Waterloo. Copenhagen đưa vị công tước xứ Wellington băng qua làn đạn của quân Pháp, dẫn tới chiến thắng vang dội của quân Anh, con ngựa Copenhagen rất khéo léo cùng sức chịu đựng dẻo dai.
- Chú ngựa Comanche là nhân vật duy nhất còn sống sót của lữ đoàn kỵ binh số 7 của Mỹ sau trận Little Bighorn. Đây là một trong 2 con ngựa được chôn cất với đầy đủ nghi thức quân đội trong lịch sử nước Mỹ.
- Little Sorrell là chú ngựa nổi tiếng vì đã sống sót sau những cuộc chiến khốc liệt suốt thời kỳ nội chiến ở Mỹ. Chú ngựa này qua đời vì tuổi già ở tuổi 36. Đến năm 1997, xương của Little Sorrell được hỏa táng theo nghi thức quân đội và chôn cất tại Học viện quân sự Virginia.
- Thiên Mã là con ngựa từ nước Tây Vực (Apganistan hiện nay) được nhập vào trong tàu ngựa của Hoàng đế năm 1830. Vua Minh Mạng đã ban du phong chức cho con Thiên Mã, ta đã sai dong yên ngồi cưỡi, chạy nhanh như chớp gió, thật vượt mức trong các loài ngựa có bốn nước đại và ba đợt nhảy cao, lại cao siêu hơn loài ngựa có chín đức tính tốt và tám thứ ngựa giỏi, nên ban cho tên đẹp để tỏ cái đức con ngựa quý, nay gọi trên là Đại Uyển Long Tuấn.
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Newby, Jonica, Jared Diamond and David Anthony (1999-11-13). "The Horse in History". The Science Show. Radio National. Archived from the original on 2008-10-06. Retrieved 2008-07-17.
- ^ Bennett, Conquerors, p. 23.
- ^ Keegan, A History of Warfare, p. 188.
- ^ Gat, Azar. "War in Human Civilization". Oxford University Press, 2006, p. 208.
- ^ Pritchard, The Ancient Near East, illustration 97.
- ^ Crouwel, J.H. and M.A. Littauer (Dec 1996). "The Origin of the True Chariot". Antiquity 70 (270): 934–939.
- ^ Drower, "Syria" in Cambridge Ancient History, pp. 493–495.
- ^ Anthony, David W. and Dorcas R. Brown. "The Earliest Horseback Riding and its Relation to Chariotry and Warfare". Harnessing Horsepower. Institute for Ancient Equestrian Studies. Retrieved 2007-10-09.
- ^ Hitti, Lebanon in History, pp. 77–78.
- ^ Drower, "Syria" in Cambridge Ancient History, pp. 452, 458.
- ^ Kupper, "Egypt" in Cambridge Ancient History, p. 52.
- ^ Chamberlin Horse pp. 48–49
- ^ Hope, The Horseman's Manual, ch. 1 and 2.
- ^ Adkins, Handbook to Life in Ancient Greece, pp. 94–95.
- ^ Willetts, "Minoans" in Penguin Encyclopedia of Ancient Civilizations p. 209.
- ^ Bennett, Dictionary of Ancient & Medieval Warfare, p. 67.
- ^ Homer. "The Iliad". The Internet Classics Archive. Massachusetts Institute of Technology. Retrieved 2011-10-30.
- ^ Caius Julius Caesar. ""De Bello Gallico" and Other Commentaries, Chapter 33". Project Gutenberg EBook. Project Gutenberg. Retrieved 2008-07-17.
- ^ Warry, Warfare in the Classical World, pp. 220–221.
- ^ Trench, A History of Horsemanship, p. 16.
- ^ Edwards, G., The Arabian, p. 13.
- ^ Anthony A. Barrett, Caligula: The Corruption of Power, trang 46
- ^ Nguyễn Thị Dơn, 2001 "Collection of Lê dynasty weapons in Ngọc khánh" p.63.
- ^ Nguyễn Thị Dơn, 2001 "Collection of Lê dynasty weapons in Ngọc khánh" p.149.
- ^ Nguyễn Thị Dơn, 2001 "Collection of Lê dynasty weapons in Ngọc khánh" p.173.
- ^ Đại Việt Sử ký toàn thư, bản kỷ tục biên
- ^ William Dampier (2007), Một Chuyến Du Hành Đến Đàng Ngoài Năm 1688, Nhà xuất bản Thế Giới, tr. 91
- ^ Asia in the Making of Europe, tr 1681
- ^ http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/tu-lieu/nhung-con-ngua-noi-tieng-trong-su-sach-trung-quoc-2928917.html
- ^ http://dantri.com.vn/van-hoa/nhung-con-ngua-noi-tieng-trong-lich-su-van-hoc-trung-quoc-830667.htm
- ^ http://www.tienphong.vn/van-nghe/nhung-con-ngua-noi-tieng-trong-su-sach-trung-quoc-666383.tpo
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Adkins, Roy; Adkins, Lesley (1998). Handbook to Life in Ancient Greece. Oxford: Oxford University Press. ISBN 0-19-512491-X.
- Adkins, Roy; Adkins, Lesley (1998). Handbook to Life in Ancient Rome. Oxford: Oxford University Press. ISBN 0-19-512332-8.
- Azevedo, Mario Joaquim (2004). Roots of Violence: A History of War in Chad. New York, NY: Routledge. ISBN 9056995839.
- Baker, Ira Osborn (1918). A Treatise on Roads and Pavements (ấn bản 3). New York, NY: John Wiley & Sons, Inc. OCLC 1628818.
- Barber, Richard (2005). The Reign of Chivalry (ấn bản 2). Woodbridge, UK: The Boydell Press. ISBN 1-84383-182-1.
- Barker, Juliet (1986). The Tournament in England: 1100-1400. UK: The Boydell Press. ISBN 0-85115-942-7.
- Bennett, Deb (1998). Conquerors: The Roots of New World Horsemanship (ấn bản 1). Solvang, CA: Amigo Publications Inc. ISBN 0-9658533-0-6.
- Bennett, Matthew (2001). Dictionary of Ancient & Medieval Warfare. Mechanicsburg, PA: Stackpole Books. ISBN 0-8117-2610-X.
- Adkins, Roy; Adkins, Lesley (1998). Handbook to Life in Ancient Greece. Oxford: Oxford University Press. ISBN 0-19-512491-X.
- Adkins, Roy; Adkins, Lesley (1998). Handbook to Life in Ancient Rome. Oxford: Oxford University Press. ISBN 0-19-512332-8.
- Azevedo, Mario Joaquim (2004). Roots of Violence: A History of War in Chad. New York, NY: Routledge. ISBN 90-5699-583-9.
- Baker, Ira Osborn (1918). A Treatise on Roads and Pavements (ấn bản 3). New York, NY: John Wiley & Sons, Inc. OCLC 1628818.
- Barber, Richard (2005). The Reign of Chivalry (ấn bản 2). Woodbridge, UK: The Boydell Press. ISBN 1-84383-182-1.
- Barker, Juliet (1986). The Tournament in England: 1100–1400. UK: The Boydell Press. ISBN 0-85115-942-7.
- Bennett, Deb (1998). Conquerors: The Roots of New World Horsemanship (ấn bản 1). Solvang, CA: Amigo Publications Inc. ISBN 0-9658533-0-6.
- Bennett, Matthew (2001). Dictionary of Ancient & Medieval Warfare. Mechanicsburg, PA: Stackpole Books. ISBN 0-8117-2610-X.
- Bennett, Matthew; Bradbury, Jim; DeVries, Kelly; Dickie, Iain; Phyllis Jestice (2005). Fighting Techniques of the Medieval World: Equipment, Combat Skills and Tactics. New York: Thomas Dunne Books. ISBN 0-312-34820-7.
- Bongard-Levin, G.M. (1985). Ancient Indian Civilization. New Delhi: Arnold-Heinemann. OCLC 12667676.
- Bryant, Jennifer O. (2000). Olympic Equestrian: The Sports and the Stories from Stockholm to Sydney (ấn bản 1). Canada: The Blood-Horse, Inc. ISBN 1-58150-044-0.
- Budiansky, Stephen (1997). The Nature of Horses. New York:NY: Free Press. ISBN 0-684-82768-9.
- Bumke, Joachim, translated by Thomas Dunlap (2000). Courtly Culture: Literature and Society in the High Middle Ages. Woodstock, NY: Overlook Duckworth. ISBN 1-58567-051-0.
- Carey, Brian Todd, Allfree, Joshua B and Cairns, John (2006). Warfare in the Medieval World. Barnsley, UK: Pen & Sword Military. ISBN 1-84415-339-8.
- Carver, Field Marshal Lord (1984). The Seven Ages of the British Army. London: Weidenfeld and Nicholson. ISBN 0-297-78373-4.
- Carver, Field Marshal Lord (1998). Britain's Army in the 20th Century. London: Macmillan. ISBN 0-333-73777-6.
- Chamberlin, J. Edward (2006). Horse: How the Horse Has Shaped Civilizations. Bluebridge. ISBN 0-9742405-9-1.
- Clark, John (2004). “Introduction: Horses and Horsemen in Medieval London”. Trong Clark, John. The Medieval Horse and its Equipment: c.1150-c.1450. Contributions by Brian Spencer and D. james Rackam (ấn bản 2). Woodbridge, UK: Boydell Press. ISBN 978-1-84383-097-9 http://books.google.com/books?id=A6mfmPBUUewC&printsec=frontcover
|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp). - Cocker, Mark (2000). Rivers of Blood, Rivers of Gold:Europe's Conquest of Indigenous Peoples (ấn bản 1). New York, NY: Grove Press. ISBN 0-8021-3801-2.
- Crowell, Pers (1951). Cavalcade of American Horses. New York: McGraw-Hill Book Company. OCLC 1428574.
- Curta, Florin; Kovalev, Roman biên tập (2007). The other Euorope in the Middle Ages: Avars, Bulgars, Khazars and Cumans.. Kononklijke Brill N.Y. tr. 319. ISBN 978-90-0416389-8.
- Davies, Norman (2005). God's Playground: A History of Poland: Volume II 1795 to the Present . Oxford, UK: Oxford University Press. ISBN 0-19-925340-4.
- Davis, R.H.C. (1989). The Medieval Warhorse. London: Thames and Hudson. ISBN 0-500-25102-9.
- Devereux, Frederick L (1979). The Cavalry Manual of Horse Management . Cranbury, NJ: A. S. Barnes. ISBN 0-498-02371-0.
- Drower, Margaret S. (1973). “Syria c. 1550–1400 BC”. The Cambridge Ancient History: The Middle East and the Aegean Region c. 1800–1380 BC Volume II Part I . Cambridge, UK: Cambridge University Press. tr. 417–525. ISBN 0-521-29823-7.
- Ebrey, Patricia Buckley, Anne Walthall, and James B. Palais (2005). Pre-Modern East Asia: A Cultural, Social, and Political History. Boston: Houghton Mifflin Company. ISBN 0-618-13386-0.
- Edwards, Elwyn Hartley and Candida Geddes (editors) (1987). The Complete Horse Book. North Pomfret, VT: Trafalgar Square, Inc. ISBN 0-943955-00-9.
- Edwards, Elwyn Hartley (1994). The Encyclopedia of the Horse (ấn bản 1). New York, NY: Dorling Kindersley. ISBN 1-56458-614-6.
- Edwards, Gladys Brown (1973). The Arabian: War Horse to Show Horse . Covina, CA: Arabian Horse Association of Southern California, Rich Publishing. ISBN 0-938276-00-X. OCLC 1148763.
- Ellis, John (2004). Cavalry: The History of Mounted Warfare. Pen & Sword Military Classics. Barnsley, UK: Pen and Sword. ISBN 1-84415-096-8.
- Ensminger, M. E. (1990). Horses and Horsemanship: Animal Agriculture Series . Danville, IL: Interstate Publishers. ISBN 0-8134-2883-1.
- Equine Research, Inc. (1978). Equine Genetics & Selection Procedures. Grand Prairie, TX: Equine Research. OCLC 4750182.
- France, John (1999). Western Warfare in the Age of the Crusades 1000–1300. Ithaca, NY: Cornell University Press. ISBN 0-8014-8607-6.
- Gies, Frances and Gies, Joseph (2005). Daily Life in Medieval Times (ấn bản 2). Hoo, UK: Grange Books. ISBN 1-84013-811-4.
- Goodrich, L. Carrington (1959). A Short History of the Chinese People . New York: Harper Torchbooks. ISBN 0-04-951015-0. OCLC 3388796.
- Gordon, Stewart (1998). “The Limited Adoption of European-style Military Forces by Eighteenth Century Rulers in India”. Indian Economic Social History Review 35 (35): 229. doi:10.1177/001946469803500301.
- Gravett, Christopher (2002). English Medieval Knight 1300–1400. Oxford: Osprey Publishing. ISBN 1-84176-145-1.
- Gravett, Christopher (2006). Tudor Knight. Oxford: Osprey Publishing. ISBN 1-84176-970-3.
- Hale, J. R. (1986). War and society in Renaissance Europe, 1450–1620. Baltimore: Johns Hopkins University Press. ISBN 0-8018-3196-2.
- Hamblin, William James (2006). Warfare in the Ancient Near East to 1600 BC: Holy Warriors at the Dawn of History. New York, NY: Routledge. ISBN 0-415-25589-9.
- Haythornthwaite, Philip J. (1987). British Infantry of the Napoleonic Wars. London: Arms and Armour Press. ISBN 0-85368-890-7.
- Haythornthwaite, Philip J. (1995). The Colonial Wars Source Book. London: Arms and Armour Press. ISBN 1-85409-196-4.
- Hitti, Phillip K. (1957). Lebanon in History. London: MacMillan and Co. OCLC 185202493.
- Holmes, Richard (ed) (2001). The Oxford Companion to Military History. Oxford: Oxford University Press. ISBN 0-19-866209-2.
- Hope, Lt. Col. C.E.G (1972). The Horseman's Manual. New York: Charles Scribner's Sons. ISBN 0-684-13622-8.
- Hyland, Ann (1990). Equus: The Horse in the Roman world. New Haven, CT: Yale University Press. ISBN 0-300-04770-3.
- Hyland, Ann (1994). The Medieval Warhorse: From Byzantium to the Crusades. London: Grange Books. ISBN 1-85627-990-1.
- Hyland, Ann (1998). The Warhorse 1250–1600. UK: Sutton Publishing. ISBN 0-7509-0746-0.
- Jones, Kristine L. (2000). “Warfare Reorganization and Readaptation at the Margins of Spanish Rule: The Southern Margin”. The Cambridge History of the Native Peoples of the Americas. Volume III South America Part 2. Cambridge University Press. OCLC 33359444.
- Keegan, John (1994). A History of Warfare (ấn bản 1). Vintage Books. ISBN 0-679-73082-6.
- Kinloch, Terry (2005). Echoes of Gallipoli: In the Words of New Zealand's Mounted Riflemen. Auckland: Exisle Publishing. ISBN 0-908988-60-5.
- Krebs, Robert E. (2004). Groundbreaking Scientific Experiments, Inventions, and Discoveries of the Middle Ages and the Renaissance: Middle Ages and the Renaissance. Greenwood Publishing Group. ISBN 0-313-32433-6.
- Kupper, J. R. (1973). “Egypt: From the Death of Ammenemes III to Seqenenre II”. The Cambridge Ancient History: The Middle East and the Aegean Region c. 1800–1380 BC Volume II Part I . Cambridge, UK: Cambridge University Press. tr. 42–76. ISBN 0-521-29823-7.
- Law, Robin (1980). The horse in West African history: the role of the horse in the societies of pre-colonial West Africa. Oxford, New York: Oxford University Press. ISBN 0-19-724206-5.
- Mitchell, Elyne (1982). Light Horse: The Story of Australia's Mounted Troops. Melbourne: MacMillan. ISBN 0-7251-0389-2.
- Needham, Joseph (1986). Science and Civilization in China: Volume 4, Physics and Physical Technology, Part 2, Mechanical Engineering. Taipei: Caves Books Ltd. OCLC 48999277.
- Nicolle, David (1990). Attila and the Nomad Hordes: Warfare on the Eurasian steppes 4th-12th centuries. London: Osprey. ISBN 0-85045-996-6.
- Nicolle, David (2002). Companion to Medieval Arms and Armour. London: Boydell Press. ISBN 0-85115-872-2.
- Nicolle, David (1996). Crusader Knight. Oxford: Osprey Publishing. ISBN 1-85532-934-4.
- Nicolle, David (1998). Medieval Warfare Source Book: Christian Europe and its Neighbors. Leicester: Brockhampton Press. ISBN 1-86019-861-9.
- Nicolle, David (1999). Medieval Warfare Source Book: Warfare In Western Christendom. Dubai: Brockhampton Press. ISBN 1-86019-889-9.
- Nofi, Albert A. (1993). The Waterloo Campaign: June 1815. USA: De Capo Press. ISBN 0-938289-98-5.
- Oakeshott, Ewart (1998). A Knight and His Horse. Chester Springs, PA: Dufour Editions. ISBN 0-8023-1297-7.
- Olmstead, A.T. (1959). History of Persian Empire. Chicago: University of Chicago Press. ISBN 0-226-62777-2.
- Parker, Geoffrey (ed) (1995). Warfare: The Triumph of the West. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-79431-5.
- Pakenham, Thomas (1979). The Boer War. New York: Random House. ISBN 0-394-42742-4.
- Partiger, F.E. (1997). Ancient Indian Historical Tradition . Delhi: Motilal Banarsidass. OCLC 247010245.
- Prestwich, Michael (1996). Armies and Warfare in the Middle Ages: The English Experience. New Haven: Yale University Press. ISBN 0-300-07663-0.
- Price, Steven D. and Don Burt (1998). The American Quarter Horse: An Introduction to Selection, Care, and Enjoyment. Globe Pequot. ISBN 1-55821-643-X.
- Pritchard, James B (1958). The Ancient Near East. Volume 1. Princeton, NJ: Princeton University Press. ISBN 0-691-03532-6. OCLC 382004.
- Raychaudhuri, Hemchandra (1996). Political History of Ancient India. New York: Oxford University Press. ISBN 0-19-564376-3.
- Robards, Brooks (1997). The Medieval Knight at War. London: Tiger Books. ISBN 1-85501-919-1.
- Sadler, John (2005). Border Fury: England and Scotland at War 1296–1568. UK: Pearson Education Ltd. ISBN 1-4058-4022-6.
- Sastri, K. A. Nilakanta (1967). Age of the Nandas and Mauryas. Delhi: Motilal Banarsidass. ISBN 81-208-0466-X. OCLC 248749546.
- Sinha, Ganesh Prasad (1972). Post-Gupta Polity (A.D. 500-750): A Study of the Growth of Feudal Elements and Rural Administration. Calcutta: Punthi Pustak. OCLC 695415.
- Trench, Charles Chenevix (1970). A History of Horsemanship. London: Doubleday and Company. ISBN 0-385-03109-2.
- Tucker, Spencer and Priscilla Mary Roberts (2004). Encyclopedia of World War II: A Political, Social and Military History. Santa Barbara, CA: ABC-CLIO. ISBN 1-57607-999-6.
- Turnbull, Stephen R. (2002). War in Japan 1467–1615. Essential Histories. Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 1-84176-480-9.
- Urwin, Gregory J. W. (1983). The United States Cavalry: An Illustrated History. Poole, UK: Blandford Books. ISBN 0-7137-1219-8.
- Warry, John Gibson (2000). Warfare in the Classical World. New York: Barnes & Noble. ISBN 0-7607-1696-X.
- Willetts, R. F. (1980). “The Minoans”. Trong Arthur Cotterell. The Penguin Encyclopedia of Ancient Civilizations. New York: Penguin Books. ISBN 0-14-011434-3.
- Willmott, H.P. (2003). First World War. Dorling Kindersley Limited. ISBN 1-4053-0029-9.
- Whitby, Michael (2002). Rome at War 229-696 AD. Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 1-84176-359-4.
- Những con ngựa chiến vang danh nhất hành tinh
|