Chùa Phật Lớn trên núi Cấm

Được đăng bởi : Mytour.vn

Chùa Phật Lớn được xây dựng năm 1912, trên khuôn viên rộng hơn 3ha, có nhiều cây cổ thụ qúy trên 100 năm tuổi thọ bao quanh, nằm bên triền, gần đỉnh núi. Tên là chùa Phật Lớn vì trong chùa có thờ một tượng phật cao 1,8m. Vào thời điểm ấy, pho tượng này cao lớn hơn các tượng thờ khác cũng ở trên núi này và gọi vậy, còn để phân biệt với chùa Phật Nhỏ ở hướng Đông gần chân núi.

NúiCấm hay Cấm Sơn là tên gọi chính thức bằng văn tự đầu tiên xuất hiện trongĐại Nam nhất thống chí (ĐNNTC, biên soạn vào cuối thế kỷ XIX). Còntrước đó, ngọn núi này được gọi là núi Đoài Tốn (Gia Định thành thôngchí, biên soạn đầu thế kỷ XIX). Ở ĐNNTC, núi Cấm được khảo tả rằng: “…thế núi cao ngất, cây cối tươi tốt, là một trong Bảy Núi. Vì núi caonên ít người lên đến chót”. Cái danh xưng Bảy Núi có lẽ cũng xuất hiệntrong ĐNNTC là chứng cứ văn liệu đầu tiên.






NúiCấm/Cấm Sơn là tên gọi chính thức bằng văn tự đầu tiên xuất hiện trongĐại Nam nhất thống chí (ĐNNTC, biên soạn vào cuối thế kỷ XIX). Còntrước đó, ngọn núi này được gọi là núi Đoài Tốn (Gia Định thành thôngchí, biên soạn đầu thế kỷ XIX). Ở ĐNNTC, núi Cấm được khảo tả rằng: “…thế núi cao ngất, cây cối tươi tốt, là một trong Bảy Núi. Vì núi caonên ít người lên đến chót”. Cái danh xưng Bảy Núi có lẽ cũng xuất hiệntrong ĐNNTC là chứng cứ văn liệu đầu tiên. Chúng ta không có cứ liệukhác để xác định chính xác từ bao giờ người dân vùng đất mới phương Namqui tất thảy nhiều ngọn núi ở khu vực này vào con số bảy, cũng như quitất cả những cửa sông của các nhánh sông Mê Kông đổ ra biển vào con sốchín: Cửu Long. Song điều có thể nhận ra là sông ấy, núi ấy đã đượcthiêng hóa: một thực tại văn hóa đã định hình, bao trùm lên trên thựctại tự nhiên… Và rồi, thời gian lịch sử lại không ngừng bồi đắp thêmmuôn vàn sự kiện tạo nên những ký ức nối kết chiều dài quá khứ với hiệntại.

1. Quay lại buổi đầu khai hoang, năm 1757, Nguyễn Cư Trinh - ngườiđứng đầu công cuộc bình trị vùng đất mới phương Nam đã đề đạt lập 3 cứđiểm quan yếu án ngữ đầu nguồn sông Hậu và sông Tiền: đạo Châu Đốc, đạoTân Châu và đạo Đông Khẩu (Sa Đéc). Đó là tên gọi “hành chính”, còn đốivới lưu dân thì vùng đất này được gọi là “Châu Đốc tân cương”, “TânChâu ác địa”… bởi thời ấy đây là vùng đất úng thủy, hàng năm bị nước lũtừ Biển Hồ đổ tràn xuống. Đồng hoang đầy rắn và chuột, núi rừng lắm cọpbeo, rắn rít và dưới sông sấu lội lềnh khênh. Mặt khác, nơi này còn lànơi binh lửa, chưa ổn định như Đồng Nai - Gia Định, chưa là xứ… “TâyAn” như sau này, chưa được Thoại Ngọc Hầu đào kinh xẻ rạch nối thôngqua Rạch Giá (kinh Thoại Hà), qua Đông Hồ, Hà Tiên (kinh Vĩnh Tế)…

Khi công cuộc khai phá đạt được kết quả ít nhiều thì thực dân Phápxâm lược. Ba tỉnh miền Đông, rồi ba tỉnh miền Tây lần lượt lọt vào taygiặc. Các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp dưới ngọn cờ yêu nước của sĩ phulần lượt bị dập tắt. Đặc điểm nổi bật của những năm cuối thế kỷ XIX đầuthế kỷ XX là nghĩa quân thất trận, nông dân mất ruộng và cơ cấu văn xãtruyền thống đứng trước những thách thức lớn lao của sự đổi thay.


Hạ ngươn Giáp Tý đầu niên,

Gẫm trong thiên hạ:

không yên chỗ nào.

(Vãn, Sư Vãi Bán Khoai)

Thực tế lịch sử đầy bi phẫn bấy giờ, dưới cái nhìn chuyển kiếp củanhà Phật… quả là thời mạt pháp, hay dưới cái nhìn biến dịch của Nho đạothì hẳn đó là thời hạ ngươn (hạ nguyên). Những tín điều của dòng pháitiên tri Bửu Sơn Kỳ Hương được rao truyền từ thời Phật thầy Tây An… đãứng nghiệm nhãn tiền, nên tự nó trở nên xu hướng thời thượng của thờibuổi mọi con đường sáng đều bế tắc.

2. Núi Cấm có tên gọi khác là “Thiên Cẩm sơn” bởi cảnh sắc hoa cỏ,cây lá đẹp như dải gấm của trời. Đây là cách đặt tên hoa mỹ dưới cáinhìn thi vị hóa của các văn nhân và tuy cũng được thế nhân tán đồng,nhưng tên gọi phổ biến vẫn là núi Câm, được hiểu là “vùng cấm người laivãng”, với nhiều lý giải suy nguyên khác nhau: hoặc đẩy về thời chiếntranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh hoặc thời Pháp thuộc. Song điều có thể dễdàng nhận ra việc gọi núi Cấm là bắt nguồn tư nếp tư duy truyền thốngvề việc định danh các ngọn núi thiêng được coi là trục thiêng trung tâmcủa cộng đồng, là Cấm Sơn/Núi Cấm. Đây là một tập quán phổ biến từ lâuđời mà núi Nghĩa Lĩnh (nơi đặt đền thờ các Vua Hùng) ơ vùng đất Tổ PhúThọ là một ví dụ. Ba đỉnh núi thiêng này được gọi là núi Cấm: Tam Sơncấm địa.

Ở đây, chí ít là đến nửa sau thế kỷ XIX, Bảy Núi đã được các tín đồBửu Sơn Kỳ Hương tôn xưng là Bửu Sơn. Theo đó, núi Cấm, ngọn núi caonhất trong Thất Sơn, được xác tín là địa điểm Phật Di Lặc mở Hội LongHoa, cuộc phán xét cuối cùng, kết thúc thời hạ ngươn/mạt pháp và khaimở kiếp đời thượng ngươn mới hạnh phúc và an lạc. Dấu hiệu chỉ báo làđến lúc đó, từ núi báu (Bửu sơn) sẽ tỏa ra mùi hương thơm kỳ diệu (Kỳhương).

Về mặt tự nhiên, cứ như ghi chép của tác giả Gia Định thành thôngchí, thì núi cao 50 trượng, chu vi 20 dặm dư (số đo thực: cao 705m),“hình như cai đài cao, nghiễm nhiên ở về cung Thìn Tỵ nên gọi là núiĐài Tốn… Núi cao đột ngột, sinh sản các loài trầm hương, tốc hương, súcsa, cây sao, giáng hương, thông tre. Cây cối tốt tươi có đường congqueo thông trong núi sâu, dấu người qua lại, gần nơi đồng ruộng, xa cóbến nước, kẻ cày cấy, người đánh cá chia từng loại ở nơi chân núi”.Đoạn trích dẫn trên cho ta thấy hình tướng lẫn hương vị của ngọn núithiêng. Người đời sau kể rằng trên núi có suối Thanh Long nằm vắt quađiện Cây Quế. Điện không có cây quế nào mà được gọi tên như vậy vì ở đóluôn phảng phất mùi trầm lẫn trong gió. Người ta đoán rằng có trầmhương trong núi nhưng chẳng ai xeo đá, nổ mìn để tìm vì làm như vậy làcắt đứt sinh lực của núi Cấm là suối Thanh Long.

Lại nữa, tại đoạn trích dẫn trên, chúng ta được biết đường đi congqueo “thông vào núi sâu”, song lại không nói đặc điểm quan trọng củanúi Cấm là các vồ đá: vồ Chư Thần, vồ Bồ Hong, vồ Ông Bướm, vồ Đầu, vồThiên Tuế… Đó là những địa điểm thiêng thờ tự Thần Phật và là nơi ẩn tucủa các ông Đạo tu hành đắc đạo, hành tung bí mật, có phép thần thôngvà y thuật. Ông Cử Đa là một kỳ nhân tiêu biểu.

Lại nữa, ngọn núi này được xác tín là cõi thanh tịnh của các bậc tuhành chứng quả Phật, Tiên, Thần, Thánh nên ngay cả hổ báo cũng chỉ ănhoa quả, tuyệt đối không sát sinh, không ăn thịt người. Loài ham ănthịt người phải tìm nơi khác, như núi Bà Đội Om, để cư trú.
Nói tóm lại, núi Cấm một phần là do đặc điểm cùng vị thế tự nhiêncủa nó và phần nữa là do những nhân duyên và hệ lụy của lịch sử nên đãtrở thành căn
cứ-thánh địa cua những kỳ nhân nặng lòng với đạo với đời,trong thời kỳ đau thương của dân tộc.

3. Thực dân Pháp chiếm An Giang ngày 22-6-1867. Người đứng ra khẳng khái nêu tuyên ngôn:

Thà thua xuống láng xuống bưng,

 

Chứ không đầu giặc

 

                                                                                                                                                                  lối chưng quân thần

là Đức cố quản Trần Văn Thành - một vị võ quan và đồng thời là cao đồ củaPhật Thầy Tây An (người sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương). Căn cứ LángLinh (Bảy Thưa) của Trần Văn Thành vốn là một xóm đạo Bửu Sơn Kỳ Hươngvà lực lượng nghĩa quân dưới cờ của ông không ít là tín đồ của dòngphái tôn giáo cứu thế này - tức có quan hệ với một mạng lưới gồm cáccộng đồng đồng đạo khác: Thới Sơn, Nhơn Hưng (Tịnh Biên), Cái Dầu (ChâuPhu), Trà Bang (Rạch Giá), Tân Thành (Đồng Tháp)…

Giáo thuyết của các cộng đồng này đặt nền tảng trên một mạt thế luậnvới kỳ vọng rằng Hội Long Hoa sắp khai mở ở Núi Cấm, giờ đây trong thựctế thì Hội Long Hoa là ngày đất nước Nam giành lấy chủ quyền độc lập,kiếp đời thượng ngươn mới là đất nước thanh bình, thịnh vượng. Đây làhai mặt lý-sự củng cố niềm tin, thúc đẩy các tín đồ các phong trào tôngiáo cứu thế nhiệt tình đứng lên chống Phap và nung nấu tâm can mãi đếnsau này mặc cho giặc dìm tất cả các cuộc nổi dậy vào máu, triệt hạ tấtcả làng mạc, phân tán các tín đồ ra khỏi các làng mạc mang tính “xómđạo” và liên tục bủa mật thám theo dõi, bắt bớ những người mà chúngtình nghi có quan hệ với các ông đạo ở vùng “năm non bảy núi”, nhất làsau hai cuộc nổi dậy đánh chiếm Khám Lớn Sài Gòn năm 1913 và năm 1916.

4. Theo bài viết “Đức Trung Tôn trên núi Cấm (Châu Đốc) hết cái nạndầm mưa dang nắng” trên báo Từ Bi Âm (số 92, 15 Oct., 1935) thì chùaPhật Lớn do ông Bảy Do tạo dựng: “Nguyên thuở trước, ước chừng ba bốnchục năm nay, có một ông thầy tu theo đạo trên, tên là Bảy Do, lênchoán chỗ đó ma cất một cảnh chùa bằng ngói rất nguy nga. Trong chùaấy, ông lại mướn thợ lên cốt một vị Phật bằng ciment rất to, tục kêu“Đức Trung Tôn”, bề cao được một thước tám tây, ngồi kiết già trên cáibàn cũng bằng ciment và cao trên hai thước. Chùa vừa cất xong thì ôngBảy Do lại bị ở tù, kế từ trần trong ngục thất…”.

Ông Bảy Do, tên thật là Cao Văn Long, quê ở Bến Tre. Ông là mộttrong những người lãnh đạo cuộc nổi dậy đánh chiếm Khám Lớn Sài Gòn năm1916. Trước đó, ông thường lui tới hầu hết các tỉnh Nam Kỳ và đến núiCấm xây chùa năm 1912, lấy đó làm trụ sở cho hội kín Thiên Địa hội. Ôngbị giặc bắt ngày 17-3-1917 (Theo G.Coulet: Les sociétés secrètes enterre d’Annam. S, Ardrin, 1926). Giặc xua lính lùng sục núi Cấm và chùaPhật Lớn chẳng tìm được tang chứng gì, ngoài một số lượng lớn chén bát.Chúng dựa vào mớ chén bát đó để qui tội ông làm quốc sự…

Chùa Phật Lớn, sau khi Bảy Do bị giăc bắt, trở nên hoang tàn. Ngườicó tâm đạo lấy cây làm cái trại lá để tạm che mưa nắng cho Phật tượngbởi họ nhiều lần xin phép cất cái trại thì nhà cầm quyền thời đó cũngnhất quyết không cho. Mãi đến năm 1914, ông Trần Văn Lầu (cựu Hươngquản làng An Khánh, tổng Hòa Quới, quận An Hóa, tỉnh Mỹ Tho) đến núiCấm thấy cảnh chùa hoang phế bèn lên chùa Linh Sơn (Sài Gòn) nhờ Cò miChấn (Phó nhì Hội trưởng Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học) đứng ra xinphép tái thiết chùa Phật Lớn. Cò mi Chấn tính đủ cách cũng không đượccấp phép làm lại chùa nên cuối cùng, ông bảo ông Lầu dỡ trại, cất liềucái am lợp lá. Lại có kẻ cáo quan chủ tỉnh. Sở Mật thám liền vào núiCấm xem xét và rồi Chủ tỉnh Châu Đốc đòi ông Lầu đến tra vấn. Chủ tỉnhChâu Đốc gởi công văn buộc Cò mi Chấn phải dỡ bỏ cái am mới cất ngaylập tức. Nhưng Cò mi Chấn trả lời qua thư rằng: Theo tục lệ An Nam,không để Phật ngồi giữa trời dầm mưa, dang nắng như thế… Chủ tỉnh ChâuĐốc lại gởi thư buộc Cò mi Chấn phải “dỡ am đi liền”. Lần này Cò miChấn lại đáp: “Cái am cất lỡ rồi, ông là người đạo Phật sợ phạm tội nênkhông dám dỡ!”. Nhờ việc qua lại ấy mà cái am không bị phá dỡ, che chởtượng Phật Lớn còn đến nay.




Cũng theo bài báo trên, tại chùa Phật Lớn bây giờ có hai bài thơ:một bài chữ Hán và một bài Quốc ngữ. Tiện thể chép ra đây để lưu dấutích cũ.

Bài thơ chữ Hán:

Hà xứ tiên tiên ngã mộng hồn,
Cấm sơn triêu tịch,
Trắc Quang thôn.
Mô hồ cựu tích thiên niên khứ,
Cô lộ di dung nhứt Phật tồn.
Tằng thác lương nhơn
thành tiểu cái,
Nguyên tương vi thiện
chưởng lai côn.
Chứng minh tự hữu
Không vương tại,
Đa thiểu nhân nhơn vị hứa lôn.
Bài thơ Quốc ngữ:
Núi Cấm trèo chơi hãn biết rồi,
Có gì là cảnh gọi rằng vui
Xa xa hóc trảng nghe người nói,
Trùi trụi đầu non thấy Phật ngồi.
Nóng ruột vì cưu ơn tế độ,
Ra tay thề giúp lực tài bồi.
Am mây vững đặt ngôi Tam bảo,
Cúi nguyện mười phương
chứng dạ tôi.
Trần Nguyên Chấn


5. Chùa Phật Lớn, được coi là lớn là theo sự so sánh với kích cỡPhật tượng ở chùa chiền đây đó thơi bấy giờ. Giờ đây thì Phật tượng cao1,8m thì chẳng là mấy. Lại nữa, tên gọi “Phật lớn” coi ra đã lỗi thời,bởi kế đó giờ đây người ta đã dựng tượng Di Lặc Bố Đại cao đến 33,6m.Pho tượng có kích cỡ đạt Guinness Việt Nam này đã làm lu mờ cả danh lẫnthực của chùa Phật Lớn - một tập thành ký ức lịch sử-văn hóa của mộtthời tủi nhục và đầy vinh quang của dân tộc. Rồi nghe đâu nay mai, ngaytrên cuộc đất chùa Phật Lớn này sẽ dựng lên một thiền viện qui mô tòangang dãy dọc và không biết di tích chùa Phật Lớn có còn trụ được vớinhững thách đố của xu thế hoành tráng (colossus) đang bộc phát hệt nhưcái “chủ nghĩa Guinness” thời thượng.
Nói chung, ai mà không biết mọi vật đều thay đổi, song bao giờ cũngcần có sự cân bằng giữa chủ nghĩa tiến bộ và chủ nghĩa văn hóa. Bởi mộtkiểu phát triển nào đó sẽ phá vỡ sự thỏa hiệp thiêng liêng của conngười với môi trường sống, trong đó có môi trường tự nhiên, môi trườngnhân văn và đặc biệt là tổng thể lịch sử-tự nhiên của cộng đồng. Các ditích lịch sử-văn hóa của mỗi cộng đồng là các di tích có tính độc đáokhông gì thay thế được vì chúng đã truyền cảm hứng, làm nên những biểutượng thiêng liêng gắn kết các thành viên của cộng đồng với chúng vàmặt khác, chúng là những mẫu mực về đổi thay văn hóa, đổi thay thái độcủa các thế hệ với chúng - tức chúng là chứng tích sông động của lịchsử văn hóa địa phương. Ngoài các di tích văn hóa nhân tạo đó là các địađiểm tự nhiên. Tổng thể núi non, sông suối, ao hồ, gò nổng, bến bãi…tạo nên cái gọi là “làng ta phong cảnh hữu tình” và hơn thế, các địađiểm đó gắn bó với các giá trị vô hình, phi vật thể - một tổng thể tảnmác gồm tín ngưỡng, truyền thuyết, các truyền thống thành văn và truyềnkhẩu. Đấy là hiện thân cho một tập thành văn hóa đa dạng và là chứngtích của ký ức hào hùng hay đau thương của các thế hệ tổ tiên. Chúngmãi truyền cho mai hậu những niềm tin sơ khai về tinh thần phản khánghay hy vọng.  

al,

 

Bạn có thích địa điểm này không?

Vui lòng đăng nhập để sử dụng chức năng này.

Bình luận

Khách sạn ở gần

Bình luận mới

  • Thiền viện Phước Sơn

    " Đây là nơi tu hành của nhà sư khoá môi với Mr.Đàm rất đáng để các chị..." - Võ Huy Thống

  • Hồ Đại Lải

    " thật tuyệt vời .nghe nói chỉ muốn lên đây chơi luôn thôi. hẹn cuối..." - Lotus Poka

  • Tản Đà Resort

    " Đến đây nghỉ dưỡng thật thú vị, nếu đi theo 1 đoàn tầm 6-10ng là vừa..." - Alisilove

  • Trại Cá Sấu Samutprakarn

    " Nhìn các hình ảnh này lại muốn đi Thái Lan " - Caunhocvotu

  • V resort

    " 8 lý do không nên nghỉ tại V-Resort, Hòa Bình Chưa đề cập đến vấn đề..." - NL Anh