Tọa lạc dưới chân núi Bình San (P.Bình San, TX.Hà Tiên, Kiên Giang), Phù Dung cổ tự là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng của đất Hà Tiên. Những năm gần đây, trên các diễn đàn học thuật có nhiều tranh luận về lịch sử ngôi chùa này.
>> Kỳ 26: Châu Nham không phải là Đá Dựng
Tao đàn Chiêu Anh các
Chuyện bắt đầu từ địa chỉ của Tao đàn Chiêu Anh các cùng đền thờ Đức Khổng tử do Mạc Thiên Tích cất năm 1736. Theo nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt, trước đây nhiều người xác quyết rằng Chiêu Anh các chỉ là danh xưng của một hội Tao đàn, ý nói là Chiêu Anh các không có nơi sinh hoạt. Nhưng muốn xác định vị trí ngôi nhà này phải dày công nghiên cứu qua thơ văn của Tao đàn và qua thư tịch, như Kiến Văn tiểu lục và Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh và cả Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức...
Chùa Phù Dung ở thị xã Hà Tiên - Ảnh: H.P
|
Cũng theo ông Đạt thì sách Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh có một chi tiết đáng chú ý là “ông Mạc Thiên Tích có dựng ra Chiêu Anh các để thờ tiên thánh và làm nơi đón tiếp hiền tài”. Ta nên hiểu đền thờ tiên thánh ấy là đền thờ Đức Khổng tử. Đồng thời, qua lời đề tựa của Mạc Thiên Tích khi in quyển Hà Tiên thập vịnh thì ngôi nhà nơi tập hợp các văn nhân thi sĩ, kể cả các nhân sĩ hay các võ quan, gọi là Thụ Đức Hiên - tức mái nhà thờ Thánh Đức.
“Về thơ văn, trong bài Giang Thành dạ cổ của Mạc Thiên Tích có câu mô tả chi tiết liên quan đến nền nhà “Khách phượng trì cũng gồm thao lược/Chốn thi đàn bảy bước tranh phong”. Tôi ngờ ngợ cái “thi đàn bảy bước này” nói thềm nhà có 7 bậc. Ngoài ra, trong bài viết Tương quan giữa nền nhà Chiêu Anh các xưa và chùa Phù Dung ngày nay đăng trên tạp chí Chiêu Anh Các cách đây mười năm, tôi đã có phân tích về những cột đá sa thạch mà tôi nghi ngờ đó chính là những cây cột đá của kiến trúc Tào đàn Chiêu Anh các”, ông Đạt nói.
Di tích Chiêu Anh các và đền thờ Đức Khổng tử có lẽ tồn tại đến năm 1833. Thời điểm ấy, quân Xiêm cử đại binh sang chiếm đất Hà Tiên, theo lời cầu viện của Lê Văn Khôi. Trận đó nhiều công trình, dinh thự ở Hà Tiên đã bị giặc hủy hoại. Cho đến năm 1845, cơ sở này vẫn còn một vài kiến trúc. Vì vậy, khi Tổng đốc An Hà Doãn Uẩn đến đây, có viết như sau: “Cảnh còn đó mà người xưa đâu tá? Vừa rời khỏi yên ngựa ta đã hạ lệnh cho tướng sĩ mau dâng lên tập Hà Tiên thập vịnh của Mạc tướng công... Bấy giờ là nửa đêm… ta đương trầm ngâm đọc bài Giang Thành dạ cổ của Mạc Tướng công, trong thư phòng của chính người xưa”.
Chùa Phù Dung cất lại
Phù Dung là tên một ngọn núi đã có từ trước, ngôi chùa xưa vì cất trên núi nên được gọi cùng tên. Theo sách Hoàn Vũ ký của Nguyễn Thu, được biên soạn vào khoảng năm 1841-1847 thì “Núi Phù Cừ cách tỉnh về phía tây bắc hơn một dặm, hang động xanh rì, chân núi có chùa Phù Cừ, do đó tên núi là núi Phù Cừ”. Đối chiếu với Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì thấy chùa Phù Dung ở triền tây nam núi Phù Dung, sang đời Thiệu Trị đổi tên núi và chùa là Phù Cừ.
Tuy nhiên, trên thực tế thì Phù Dung cổ tự trên núi Phù Dung đã không còn kể từ năm 1833. Khi giặc Xiêm chiếm Hà Tiên, chúng bắt hết già trẻ lớn bé ở đây và người trụ trì chùa Phù Dung cũng bị bắt. Sau khi đánh đuổi giặc Xiêm khỏi đất Hà Tiên, nhà Nguyễn không phục hồi ngay mà dời lên Giang Thành đặt lỵ sở Hà Tiên ở đó. Năm 1845, Tổng đốc An Hà Doãn Uẩn về đây và gặp hòa thượng Tiên Giác - Bửu Châu. Hai người ngồi trên nền Chiêu Anh các đàm đạo việc cất lại chùa Phù Dung. Ngài Tổng đốc không muốn cất lại chùa ở chỗ cũ, vì vậy đã quyết định đem chùa về núi Bình San, tức nền Chiêu Anh các. Đại Nam nhất thống chí có nhắc chi tiết này: “Chùa Phù Dung được cất trên nền di tích xưa của Mạc Thiên Tích”. Nhưng “nền di tích xưa” đó lại không được phân định rõ là nền gì, nên người đời sau đã phải vất vả tìm lại di tích Chiêu Anh các.
Khi chùa Phù Dung được cất lại ở núi Bình San nhưng không được tiếp tục duy trì tên cũ vì kỵ húy “tên cúng cơm” của vua Thiệu Trị. Thời đó, từ Bắc chí Nam, các địa danh có chữ Dung đều phải đổi. Chẳng hạn như huyện Phù Dung ở ngoài Bắc đổi lại là huyện Phù Cừ. Còn ở Hà Tiên, núi Phù Dung cũng đổi lại là núi Phù Cừ. Do đó, sau khi cất lại chùa, ông Doãn Uẩn quyết định đổi tên là chùa Phù Anh (tức Phù Dung và Chiêu Anh các ghép lại). Thời đó lũy chung quanh núi cũng gọi là lũy Phù Anh.
Nguyên nhân lầm lẫn vị trí và tên gọi chùa Phù Dung, Phù Cừ là từ sách vở. Theo ông Trương Minh Đạt thì: “Đời Minh Mạng có Gia Định thành thông chí, đời Thiệu Trị có Hoàn Vũ ký, đời Tự Đức có Đại Nam nhất thống chí. Khi thực hiện bộ sách Đại Nam nhất thống chí, trình lên vua Tự Đức xem thì vua bảo, sách còn sai nhiều chỗ, đem về làm thêm bản phụ biên để sửa. Nhưng trong lúc tập phụ biên đang làm thì Pháp tấn công Đà Nẵng rồi sau đó chiếm luôn Gia Định và Nam kỳ. Triều đình Tự Đức trong giai đoạn này, văn khố lộn xộn, nhiều tài liệu sách vở bị thất lạc. Bộ sách Đại Nam nhất thống chí được người đời sau tìm những gì còn sót chép lại, còn phần bổ biên không tìm thấy. Sau khi Tự Đức qua đời, đến thời vua Duy Tân, Đại Nam nhất thống chí được làm lại. Bấy giờ Nam kỳ đã không còn là thủy thổ của triều đình Huế, sách không nói đến lục tỉnh, nên không có Hà Tiên”.
Theo ông Đạt thì một người Pháp tìm ra bộ Đại Nam nhất thống chí còn rơi rớt ở đâu đó trong văn khố triều đình rồi đem về Hội Những người nghiên cứu Đông Dương dịch, xem chỗ nào thiếu thì thêm vô và cho ra đời Đại Nam nhất thống chí - Lục tỉnh Nam Việt. Chính việc thêm vô này khiến vấn đề chùa Phù Anh trở nên mờ mịt. Vì vậy người đọc bộ Đại Nam nhất thống chí - Lục tỉnh Nam Việt được ấn hành trước năm 1975 ở Sài Gòn, thì thấy chùa Phù Anh bị sửa lại là chùa Phù Cừ. Còn trong thực tế không có ngôi chùa nào mang tên là Phù Cừ, lỗi là do tác giả sách Hoàn Vũ ký không cập nhật thông tin sau năm 1845, khi chùa Phù Dung đã dời điểm và được ông Doãn Uẩn đổi tên là Phù Anh.
“Trong khi vấn đề còn đang tranh cãi chưa ngã ngũ thì di chỉ người xưa tiếp tục bị hủy hoại. Trụ đá còn sót lại của đền thờ Đức Khổng tử hay Chiêu Anh các hiện thời đã bị đập bỏ, một số công trình của người xưa đã bị xâm hại nghiêm trọng do sự thiếu hiểu biết của người nay”, ông Đạt bức xúc.
Ngọc Phan - Hoàng Phương
>> Kỳ 25: Dấu ấn Tây An cổ tự
>> Hà Nội kỳ nhân, kỳ sự - Kỳ 4: Đào Nhật Tân có từ bao giờ ?
>> Theo dấu người xưa - Kỳ 5: Ngôi chùa nơi vua Minh Mạng chào đời
>> Ngôi chùa lâu đời nhất trên đảo Phú Quốc