ĐỨC THẦY VÊRÔ
PH̉ TÁ ĐỨC VUA GIA LONG PHỤC
QUỐC
VĂN
TỰ Năm 1902 ngày mồng 10 tháng Mars, tại Nam Kỳ đă làm lễ trọng dựng h́nh Đức Thầy Vêrô giữa thành Sài G̣n, trước Nhà thờ Đức Chúa Bà chẳng hề mắc tội tổ tông, trước là cho đặng tỏ ḷng muôn dân biết ơn đấng đă có công trọng khôn đang, sau là cho đặng bia tích vững bền cho kẻ hậu lai đặng thấy mà nhớ người. Thật ai nấy trong nước Việt Nam, nhứt là tại Nam Kỳ đă nghe tên Đức Thầy Vêrô, cùng biết người đă phải chịu ghe nỗi gian nan, đang cơn quốc gia tàn bại, cho đặng giúp đấng quân vương đang hồi bạc phận, cùng dẹp đặng ngụy thần cho bá tánh an cư lạc nghiệp, nên đáng cho quân vương, triều thần, đều đem ḷng phụng kính, đáng cho cả và dân nước ta muôn đời thương nhớ, đáng cho ngôi để lập lăng và tạc bia vàng, đề chữ thắm, kể lại mọi công nghiệp người đă gầy dựng quốc an, nhơn tử lưu danh, lưu danh thiên cổ. Nhưng rày không c̣n mấy ai nhớ tỏ mọi công việc người đă làm và công lao cực khổ thể nào, ra như biết tên mà quên mặt, nên nay tôi ra công chép cuốn sách mọn nầy, tóm lại hạnh đấng Quân sư, từ khi mới sanh ra cho đến ngày tạ thế, cho ai nấy đặng xem hầu thêm ḷng cám ơn, và mến đức người hơn nữa. Tôi đă lục trong nhiều Sử Nam Việt và nhứt là hạnh Đức Thầy của cha Louvet đă chép, mà rút ra mọi điều theo thứ tự; nên tuy là vắn tắt, song đă kư chép đủ, chẳng bỏ qua điều nào. Lại tôi có ư ra sức t́m những tiếng cho mau hiểu rơ ràng, và có để một ít tiếng chữ thường, người ta hay dùng nói mà thôi. Tôi tưởng dầu những kẻ học trường sơ coi cũng có lẽ hiểu đặng những điều đă chép trong sách nầy. Chợ Quán, ngày 15 tháng 6 An Nam, năm 1904. DOMINIQUE-THOMAS TRỊNH KHÁNH TẤN Tri huyện honoraire
SAIGON ĐỨC THẦY VÊRÔ Sử xanh chép đă đành rành, Pinho Giám mục thơm danh để đời. Vêrô cầm khóa cửa trời, Thật là bổn mạng của thời Đức Cha. Vốn người quê ở Phangsa. 5 Giàu, sang, vừa phải, nhằm là bực trung. Song thân nhơn đức lạ lùng, Ông bà kết bạn thỉ chung thuận ḥa. Bá niên, giai lăo, một nhà, Tử tôn miêu duệ phước đa vuông tṛn. 10 Sanh ra mười chín người con, Đức Thầy trưởng tử hết ḷng mến thương. Người th́ tánh trí phi thường, Ông bà sở định vào trường đi tu. Chí lăm ra sức công phu, 15 Học hành đạo lư mấy thu ai b́. Thông minh, nhơn đức lạ ḱ, Kinh kia, sách nọ, người th́ suốt thông. Ơn trên Chúa định thưởng công, Phong quờn linh mục để ḥng giáo dân. 20 Hai mươi bốn tuổi xuất thân, Xin vào trường Hội ân cần liệu toan. Quyết đi giảng đạo bốn phang, Lén cha, giấu mẹ, họ hàng không hay. Thảm buồn nhiều nỗi thương thay! 25 Mấy em người cũng chẳng bày điều chi. Xuống tàu vượt biển trẩy đi, Xăm xăm lướt dặm qua th́ Việt Nam . Khẩn cầu Chúa đoái ḷng phàm, Nguyện xin thần giúp dẫn đam đi rày. 30 Ṿng do tây quốc chầy ngày, Đi mười tám tháng tới rày Hà Tiên. Gặp cơn bắt đạo không yên, Lại trong nhà nước đảo huyền phân vân. Lúc dời chơn, rất ân cần, 35 Gởi thơ xin lỗi song thân nhiều lần. Tỏ bày mọi nỗi muôn phần, Chép biên kể hết phân trần ra đây. Thơ Đức Thầy gởi về xin lỗi cùng cha mẹ: ” Trước trọng kính mẹ cha bá bái, Sau dưng câu vạn phước b́nh an. Kể từ ngày con mới dời sang, Ḷng thương nhớ mẹ cha hết sức. Bỏ quê hương thật ḷng nên cực, Cách mấy em biết mấy đoạn sầu ! Bởi bấy lâu con đă khẩn cầu, Ḷng quyết chí kiếm t́m chiên lạc. Dầu cực khổ cam bề gánh vác, Cho nhiều người hồn đặng tiêu diêu. Dốc một ḷng giảng dạy mười điều, Mở đạo Chúa danh Cha cả sáng. Lúc gần đi ḷng sầu lai láng, Muốn tỏ cho cha mẹ biết hay. Song sợ v́ nhiều nỗi đắng cay, Song thân bảo không cho dời bước. Sự hiếu trung con chưa đền được, Lại làm cho cha mẹ héo don. Công phụ hiền, báu tợ núi non, Ơn từ mẫu, th́ con chưa trả. Lạy mẹ cha dấu yêu vô giá, Mười chín con, c̣n lại mười hai. Dưng con cho Đấng tạo muôn loài, Hầu dạy dỗ các người tha xứ. Lạy mẹ cha xuống ơn tha thứ, Bởi Chúa đà định để cách nhau.
Muôn điều hiểm, trăm đàng tư lự. Con nay dám tỏ điều tâm sự, Cho cha mẹ đặng biết, đặng hay. Nhà của con thật rất hèn thay, Lợp bằng lá, kín mưa, đỡ gió. Phận con nay rất nên nghèo khó, Song học tṛ nuôi đặng bốn mươi. Ước trông sau dạy dỗ người người, Cho chúng nó nối quờn linh mục. Giúp địa phận, muôn dân tùng phục, Cho đạo rày nổi tiếng danh vang. Lúc bây giờ bổn đạo nghèo nàn, Đặng ít ít chưa đông ǵ mấy. “Chỗ Hà Tiên, khắp trong nơi ấy, Gần núi non, gần biển, gần rừng. Sớm ḷng con dạ những bưng khuâng, Chiều thơ thẩn vào ra cửa ngơ. Ngó xuống sông, thảm thương vơ vơ, Thấy những thuyền thương măi văng lai. Xem trên trời, lộng lộng quang khai, Những cầm thú bay qua, bay lại. Chốn núi non, con sầu bải hoải, Nơi rừng già quạnh quẻ tư lương. Đường vơi vơi, huyền viễn vô thường, Nẻo vọi vọi, trông đà lắt léo. Ve dắng dỏi, ḷng buồn khô héo, Dế ngâm sầu, từ đoạn nhớ thương. ” Khốn thân con! Nhiều nỗi tai ương, V́ cấm đạo ghe đường khổ năo. Bắt con rày vô phương khả đảo, Cầm trong tù đă mấy tháng liên. Cổ mang gông, tay lại mang xiềng, C̣n bổn đạo, chết khôn kể xiết. Ở trong tù rét đà rũ liệt, Trọn mùa chay, đau đớn luôn luôn. Song thật con ḷng chẳng có buồn, Chịu việc ấy, lấy làm có phước. Chốn lao tù con đà khỏi được, Lại gặp thơ cha mẹ gởi sang. Cảm nghĩa sâu, hai cụm xuân đàng, Đă tha lỗi, lại c̣n chúc phước. Mắt xem thơ hai hàng thấm ướt. Thấy mẹ cha sợ hăi cho con, V́ cơn nầy nhiều nỗi thon von, Đang bắt đạo ghe đàng khốn cực. Xin cha mẹ chớ hề buồn bực, Phú dưng con theo ư Chúa Cha. Đất Nam Kỳ cách mặt rất xa, Song ḷng trí con đâu dám cách. Thân phận con một ḿnh đât khách, Trí nhiều khi như gặp mẹ cha.
Xin thương mến mẹ cha tôi hỡi! Đàng xa xuôi khó bề lui tới, Xin giúp rày hằng bữa b́nh an. Đặng hưởng câu vạn phước thọ toàn, Phần hồn xác thảy đều mạnh sức. Xin mẹ cha lo bề đạo đức: Kính Trái Tim Chúa cả luôn luôn, Th́ đặng an ḷng chẳng có buồn: Giữ nghĩa Chúa, hầu sau Chúa thưởng. ” Rất thương thay! Cù lao nuôi dưỡng! Mấy em th́ xin dạy dỗ liên. Xin mẹ cha thường bữa cầu nguyền, Cho con đặng trọn niềm hiếu tử, Bổn phận con lo bề nắm giữ, Phước đức th́ ra sức cần chuyên, Hầu giảng rao danh Chúa các miền, Mở đạo thánh khắp nơi Nam Việt. Thật con nay ḷng mừng khôn xiết, Làm lễ th́ hằng nhớ mẹ cha. Lại con năng xin Đức Chúa Bà Hằng phù hộ xuống ơn che chở, Trước trong nhà, sau là xứ sở, Cùng bà con hết thảy b́nh yên. Cả trong ḍng kính Chúa thượng thiên, Ngơ sum hiệp trên nơi cơi thọ. Mọi điều kính thăm đà tỏ rơ, Chúc miên trường hai chữ.” Nay thơ. Bấy lâu thương nhớ đợi chờ, Viết thơ kể nỗi tri cơ nhiều tờ. Trông tin dạ những ước mơ, Nay cha mẹ mới gởi thơ tỏ bày: Đă tha lỗi, ḷng thương thay! Lại c̣n chúc phước cho nay muôn phần. Từ đây nhựt dạ ân cần Giảng rao đạo chánh, giáo dân các miền. Đức Cha địa phận hằng khuyên, Bảo th́ phải ráng cần chuyên việc nầy, Dạy người bổn quốc làm thầy, Nối quyền Linh mục, giữ nay mối giềng. Gắng công ra sức chẳng phiền, Tập rèn sĩ tử nên hiền, nên danh. Tai bay, họa xảy chẳng lành: Ngô, Mên hiệp lại, tung hoành hại di Ba cha tây ở một khi, Một cha bị chết, c̣n th́ hai cha. Người bèn khi ấy trốn ra, Giết đoàn sĩ tử c̣n mà ít hơi. Phá nhà, phá cửa, tả tơi; Của thâu cướp hết tức thời bỏ đi. Việc rồi công luận một khi, Cử người lên chức làm th́ Bề trên. Giữ ǵn trường học cho bền, Biết đâu cho đặng lập nên bây giờ? Xiết bao những nỗi bơ vơ, Nam Kỳ cấm đạo, đỗ nhờ sao yên? Xiêm, Mên, bị giặc liền liền, Khắp trong bá tánh đảo huyền đa đoan. Xét đi tính lại kỉ cang, Phải dời trường học trẫy sang chẳng chầy. Qua miền thuộc địa của tây, Ponri xứ ấy nước nầy nên xa. Đường đi cách trở sơn hà, Mướn ghe một chiếc thả mà nổi trôi. Tớ thầy thảm thiết thương ôi! Cha con lặn lội, kể thôi không cùng. Minh mông sóng bổ đùng đùng, Địa bàn một cái để dùng mà coi. Trăng trăng, nước nước, trời trời, Tới nơi cảnh lạ, lập thời trường ra. Lo dạy dỗ, dựng nên nhà, Bốn năm ở đó, được mà b́nh yên. Đức Cha địa phận cao niên, Nên nay phải chọn thế quyền giữ chăn. Cử cha Pinho chức thăng, Sau làm Giám mục giữ căn bổn nầy. Đức Cha địa phận vui vầy, Gởi tờ về đến, dưng ngay Giáo Hoàng. Lịnh trên phê chỉ rơ ràng, Ưng cho người đặng chiếu vàng sắc phong. Tính rồi các việc ngoài trong, Đức Cha tạ thế đam ḷng lo toan. Đất Nam Kỳ, nước Cao Man, Ấ y là địa phận nấy ban cho người. Lên quờn tuổi mới ba mươi, Mattia lễ thánh th́ người thọ phong. Lănh chức rồi mới vừa xong, Trở về địa phận giữ trong mối giềng. Tới Hà Tiên, rất cần chuyên, Bi Lư lập họ, về miền nước Mên. Sai các cha giảng phía trên, Rồi sai phía dưới, xuống lên khắp miền. Nam Kỳ địa phận chưa yên, Qua Xiêm, sang Mọi, đi Mên giảng truyền. Đức Cha chọn đứng nhơn hiền, Phong người bổn quốc nối quyền làm cha. Lo sau dạy dỗ người ta Cho đồng ngôn ngữ, thiệt là dễ hơn. Phong cha Nghi đặng lên quờn, Sau vua gặp được, nhờ ơn ông nầy. Nước nhà loạn, biết tôi ngay, Xin sau xem việc ông thầy hiền nhơn. ” Đọan nầy tỏ hết căn duơn, Nước Nam sự tích nguồn cơn như vầy. Cứ trong Sử, làm ra đây : Nhà Lê chánh vị ngự nay ngôi quyền, Khắp trong triều chẳng đặng yên, Lại là thế nhược, lúc nghiêng, hồi nghèo. Nhiều khi trong nước cheo leo, Th́ là họ Nguyễn hằng theo giúp hoài. Lại nhờ họ Trịnh giữ cai, Pḥ vua vực nước, trong ngoài sửa sang; Đánh Nam , dẹp Bắc danh vang, Nên vua trọng thưởng phong ban chức quờn; Tỏ ḷng kính chuộng biết ơn, Đặt làm hai chúa căn nguơn mọi đàng. Song v́ họ Trịnh cao sang, Quyền cao thế mạnh gần ngang bệ rồng. Chúa Nguyễn Hoàng, ḷng ước trông, Ông nầy ḍng Nguyễn khởi công ban đầu. Mưu kia, chước nọ, nhiệm mầu, Đêm toan, ngày tính đặng hầu tách ra. Ông Trịnh Kiểm, gốc Trịnh gia, Có tài dẹp giặc khắp mà gần xa. Chị Nguyễn Hoàng, vợ Trịnh gia, Xin cho em mới đặng mà xuất thân. Trịnh Kiểm tâu, vua ân cần, Đàng Trong phê chỉ, an phần trẩy xa. Đàng Ngoài từ Huế sấp ra, Đàng Trong từ Huế sấp mà trở vô. Trấn nơi Huế, lập nghiệp đô. Nguyễn gia, Trịnh chúa, phân phô nghịch rày. Nguyễn không tùng Trịnh ngày nay; Đánh nhau trăm trận, Nguyễn tày không suy. Từ làm chúa lập kinh ḱ, Mấy đời nay mới vận th́ đổi đi. Duệ Vương ḍng Nguyễn trị v́, Có quan phụ chánh, hiểm nguy trăm đàng. Tên người là Trương Phước Man, Ở ăn khắc bạc, dân than thở ḷng. Huế thành hết thảy ngoài trong, Không c̣n tùng phục, ḥng mong phản đầy. Vua Lê, chúa Trịnh bàn nay, Sai Huỳnh Ngũ Phước sắp bày binh cơ. Quan quân tới Huế phất cờ, Đánh nay Nguyễn chúa bây giờ chạy đi. Quảng Nam Nguyễn ngụ một khi, Kế đâu ông Nhạc mới th́ dấy binh. Giặc nầy thiệt dữ nên kinh, Anh em ba gă đồng t́nh làm hung. Nhạc, Huệ, Lữ, thật tam hùng, Đă nên tài trí, lấy cùng nước Nam . Nhạc hay muốn nặng túi tham, Thua bài, thua bạc, hằng ham bạc tiền. Làm biện lại đánh bạc liên, Của quan làm hết, Nhạc liền thoát thân. Trốn đi khi ấy, hiệp quần Phía tây trên núi, cướp lân, phá làng. Lần lần tụ đặng vài ngàn: Tây Sơn gốc giặc rơ ràng thế ni. Trước rằng: pḥ giúp triều nghi, Nhạc sau không kể, không v́ tới chi. Muôn binh tướng mạnh dị ḱ, Qui Nhơn chiếm cứ, lập th́ nghiệp đô. Nguyễn gia thế đă đơn cô, Tây Sơn mới đánh, chạy vô Sài G̣n. Ba chú cháu cùng bà con, Ở nơi Gia Định chẳng c̣n binh cơ. Nhạc xưng vương mới tung hô, Hiệu đề Thái Đức, đắp tô lũy thành. Sai em là Huệ xuất hành, Đi ra đánh Huế tranh giành đoạt ngang. Giục binh thẳng riết băng ngàn, Đánh đâu thắng đó, đă vang trong ngoài. Vua Lê, chúa Trịnh thua hoài, Cự đà hết sức, hết tài dơng binh. Lấy Thăng Long, chỗ Lê kinh, Khi đầu Huệ cũng c̣n nh́n tới vua. Vua Lê đă thất, bị thua, Vua đem công chúa gả đùa cho va. Lầm mưu khẩu thiệt, tâm xà, Gả con cho giặc rất đà thiết tha! Mở kho lấy của hằng hà, Phen sau Huệ biểu tôn mà lên ngôi. Xưng Quang Trung hiệu vừa rồi, Đặt quan các chỗ, giữ coi an bài. Việc xong, từ giă Đàng Ngoài, Trở về thành Huế, ngự đài Nguyễn gia. Cảnh Hưng Lê đế thăng hà, Tôn vua Chiêu Thống rốt mà nhà Lê. Vua nầy chịu cực năo nề, Cùng là chúa Trịnh trăm bề gian nan. Bấy lâu chúa dựng ngai vàng, Nhiều đời nay cũng đều tàn giang san. Tây Sơn đánh đuổi phá tan, Sót c̣n một ít trốn ngang lên đàng. Thảm thay! Thái hậu tân toan, Cùng là hoàng tử chạy sang qua Tàu. Dưng thơ tấu hết trước sau, Xin cùng Thanh đế chữa bàu đoái thương: Vua quan thất quốc triều đường, Ngày nay cứu giúp, ơn bường thái sơn. Vua nghe tỏ nỗi nguồn cơn, Động ḷng thương đến ra ơn hết ḷng. Lịnh truyền Tổng đốc Quảng Đông, Sai Tôn Sĩ Nghị hưng công binh đầy. Đại Thanh cờ dựng vang dầy, Quyết sang vấn tội, giúp rày vua Lê. Mười muôn binh kéo tràn trề, Ông Tôn Sĩ Nghị chỉ đề tướng quân. Các quan mạnh đă như thần, Những là đề đốc muôn phần pḥ phang. Binh qua các ải, các gành, Lớp th́ đánh tẩy, lấp toan dựng thành. Bắn ra đồn cháy khắp quanh, Các quan ngụy đảng bôn hành vỡ tan. Sông Nhĩ Hà binh sắp dàn, Rồi sang Hà Nội, chỗ thành Thăng Long. Um sùm những tiếng Quảng Đông, Binh như kiến cỏ tràn đồng, chật sông. Tống tờ khắp hết ngoài trong, Khoe khoang tướng mạnh, binh ṛng khôn đang. Kiêu căng kể chuyện hiển vang, Rằng: “ Vua Thượng vị dạy sang khử tà. Làm cho ḥn đá chẻ ra, Núi non khắp cả gần xa ban bằng. Làm cho sông biển khô khan, Bao nhiêu đảng tặc đánh tan đi rày. ” Quang Trung nghe giận lắm thay, Thấy tờ phi báo, cười nay phán rằng: ” Tao cho nó xấc mấy thằng; Để tao chánh vị cao thăng bây giờ. Gộp binh khắp hết kéo cờ, Tới nơi Thanh đóng viết thơ tức th́. Xin đầu, xin lỗi một khi, Khiêm nhường, nhút nhác, ai b́ nhỏ nhoi. Chẳng dè binh đă hẳn ḥi, Thanh khinh Nam dở, có coi ra ǵ. Thần công súng phát khắc ḱ, Tứ phương giai ứng, voi th́ kéo ra. Súng đâu bắn vải, binh sa, Đèn sào, hỏa hổ, vụt mà khắp giăng. Binh Tàu thua chạy nhào lăng, Trèo thành, leo lũy, trốn băng đă đầy. Ai ôi! Mấy tướng chết ngay, Dưới sông khách nổi ngày rày linh đinh. Trận nầy thật dữ hết t́nh, Ngụy vương vinh hiển, quan binh ai tày. Tướng hùm, tướng hổ giỏi hay, Cùng là quân sĩ chết nay nửa phần. Sớ tâu thanh đế ân cần, Vua cho binh viện đặng lần trẫy qua. Phước Khương An tướng sai ra, Sắp binh chín tỉnh, kíp mà tới nơi. Quang Trung nhiều kế, nhiều lời, Bạc vàng hối lộ tức thời đam dưng. Thiệt nên bực đại gian hùng, Trăm hung, ngàn dữ, mưu chưng nên già. Phước tướng quân tấu thượng ṭa, Xin binh khoan huởn, đặng mà liệu toan. Rằng mùa hè nắng chan chan. Lại mời Lê để qua sang nơi ḿnh. Bạc đen mưu chước nên kinh. Vua Lê vội vă cất ḿnh tới dinh. Quan rằng: phản tặc nó khinh, Cạo đầu, gióc tóc cho in như ḿnh, Hầu cho đặng dựa oai linh, Tây Sơn nó sợ, đặng ḿnh khởi binh. Vua Lê ḷng tưởng thiệt t́nh, Biểu sao, làm vậy, chẳng minh ḷng tà. Tướng quân gian tấu, tâu qua, Xin vua Thanh đế đặng mà băi binh. Rằng: “ Vua Lê đă thuận t́nh, Ở yên Trung thổ, an b́nh thảnh thơi. Dưng tâu: “ Ông Huệ xưng tôi, Cúi đầu tạ tội, phục thôi đă rồi. Vua Thanh nghe tấu y lời, Băi binh hết thảy, thiệt thời bất nhơn. Lại c̣n đem sứ Tây Sơn, Đặng vào triều yết lănh quờn Thanh phong. Phong cho ông Huệ vừa xong, Làm vua Nam quốc, giữ trong nước nhà. Vua Lê mắc kế gian tà, Yên Kinh Thanh đế đam mà tới nơi. Thanh vương phong chức cho người Bực hàm tam phẩm, hết thôi tái bồi. Vận Lê đến thế, hỡi ôi! Ba trăm sáu chục năm rồi c̣n chi! Rầu buồn hoàng tử thát đi, Cùng vua nay cũng đều th́ băng luôn. Tám năm thái hậu thảm buồn, Chết luôn hết thảy, đượm tuôn khôn cùng. Gần băng, vua trối thỉ chung, Xin đam hài cốt về chưng nước nhà. Ngày sau Thanh đế chỉ ra, Cốt vua Lê đă chở mà về quê. Ấ y là sự tích nhà Lê, Đây biên việc đạo thuộc về nước ta. Hậu Lê chánh vị quốc gia, Đời vua Vĩnh Tộ đạo mà giảng sang. Sách xưa c̣n để rơ ràng, Chúa ban ơn xuống, Giáo Hoàng phán ra. Sai truyền các đấng làm cha, Trẫy qua Nam Việt đặng mà dạy dân. Ban đầu khốn cực nhiều phần, Chịu người xua đuổi gian truân ghe đàng. Trịnh Trang làm chúa hiển vang, Xuống ơn cho phép các hàng làm cha Giảng rao đạo chánh nước ta, Dạy người rửa tội, cao xa nhiệm mầu. Làng An Vực chịu ban đầu, Chúa công mời dạy tới hầu chỉ ra. Thành Hà Nội, cho lập nhà, Chị người vô đạo cùng là bà con: Mười bảy người trong thân nhơn, Cũng đều vô đạo nguồn cơn thế nầy. Lần lần nhà thánh cất đầy, Cùng là giáo hữu dầy dầy nơi nơi. Ít năm mới đặng thảnh thơi, Kế truyền cấm đạo, rao lời dể khinh. Quyền chúa Trịnh, bắt bỡi ḿnh, Nguyễn gia đều cũng hành h́nh xiết bao! Tây Sơn không khác chút nào, Mạnh ai, nấy cấm, gươm dao hại hoài. Biết bao nhiêu việc nạn tai, Cầm tù tra khảo, hành hài tấm thân. Đốt nhà, lấy của, khắp lân, Nhà thờ triệt hạ, muôn phần gian nan. Đọc kinh, xem lễ phá tan, Kể sơ việc đạo dẫy tràn thiết tha! Ơn trên ư Chúa thượng ṭa, Lớp th́ bắt đạo, lúc mà huởn ra. Bây giờ kể truyện Nguyễn gia, Chạy vô Gia Định lo mà lập binh. Tây Sơn thật dữ nên kinh, Binh vây bắt đặng chính ḿnh Duệ Vương. Hoàng Tôn cung quyến vô phương, Đều th́ bị giết, thảm thương hết ḷng! Nguyễn Ánh, sau hiệu Gia Long, Một ḿnh sót lại, long đong muôn vàn. Tuổi c̣n trẻ, chịu gian nan, Mười lăm, mười bảy, khôn ngoan đâu tường. Trốn thôi đă khắp địa phương, Tây Sơn t́m bắt cùng đường hiểm nguy. Thảm thương thầy tớ xiết chi! Một thuyền nhỏ nhỏ với th́ ít quân; Việc nầy Tạo hóa xây vần, Ban cho họ Nguyễn đặng phần phước riêng. May đâu mà gặp nhơn hiền, Cha Nghi trốn giặc đồng miền một nơi. Nguyễn Ánh khi ấy mở lời, Tỏ bày mọi nỗi việc ḿnh thời ra. Bởi tin thầy đạo thật thà, Căn do xin cứu, kể mà thỉ chung. Cha bổn quốc thương không cùng, Hết ḷng giúp đỡ, lạ lùng mến thương. Chở người giấu mấy dặm trường, Sông kia, rạch nọ, lo lường kế liên. Thẳng vô tới xứ Hà Tiên, Giữ ǵn cẩn nhiệm, cần quyền nào khuây. Đam lên nhà ở Đức Thầy, Không cho ai biết, ai hay việc nầy. Cha Nghi vội vă chẳng chầy, Gởi thơ cho đặng Đức Thầy người hay. Rằng: “ Vua Nguyễn chúa khốn thay! ” Đức Thầy khi ấy ở rày Cao Man. Cha Nghi chước nhiệm mọi đàng, Song Tây Sơn cứ t́m sang bắt hoài. Bản treo khắp hết ai ai, Hễ mà bắt đặng thưởng tài, thưởng công. Đắng cay nhiều nỗi năo nồng, Mới ngoài một tháng, hết trông yên rày. Cha Nghi sợ phải lâm tay, Đam lên rừng vắng, giấu ngay vội vàng. Nguyễn Ánh cám ngăi ơn mang, Của ăn, vật nọ, đam sang ngày ngày. Đặng vài ba tháng công dày, Đức Thầy khi ấy mới nay trở về. Nguyễn Ánh mừng rỡ trăm bề, Đức Thầy an ủi, chớ hề tháo lui. Hết ḷng thương mến dưỡng nuôi, Nguyễn Ánh nương ngụ, ngậm ngùi xiết chi. Đêm bàn, ngày luận thiếu ǵ, Giấu đem nơi nọ, dời th́ chỗ kia. Ngày qua, tháng lụn, chẳng ĺa, Muối, rau, hẩm hút, sớm khuya giữ ǵn. Nổi trôi, trôi nổi lưu linh, Ḥn kia, sông nọ, hết t́nh liệu toan. Đức Thầy có một tên Gioang, Người tây bạo dạn, dưng đàng lập công. Trót năm những mảng luận đồng, Nguyễn Anh rán sức khởi công chẳng chầy. Ông Gioang theo thói bên tây, Dọn nhiều trái phá, bắn nay lũy thành. Vốn người nghề vơ cũng rành, Khéo khôn việc giặc, tập tành binh cơ. Nguyễn Ánh đặng thế bây giờ, Lại nhờ quân sĩ, lại nhờ các quan. Chiêu binh măi mă chàng ràng, Nguyễn Ánh làm tướng đam đoàn binh đi. Long Hồ thẳng tới một khi, Ông Gioang cứ bắn tứ vi khắp cùng. Tây Sơn nghe tiếng đùng đùng, Thuở nay chưa biết, lạ lùng hăi kinh. Cháy tàu lại với các dinh, Binh gia bị chết, linh đinh trôi đầy. Tây Sơn hết sức phủ vây, Đánh nhau nên mạnh, nên hay, nên tài. Ngụy binh thất thủ chạy dài, Tướng quân lấy đặng, mở khai dinh thành. Máu dầm đầy áo Nguyễn Anh, Đă nên đạp sỏi, giày sành chông gai. Long Hồ thắng trận nên may, Bao nhiêu tàu ngụy về tay tướng tài. Tây Sơn từ lấy Đồng Nai, Sài G̣n khắp chỗ giữ cai các thành. Nguyễn Ánh nhờ những hùng danh, Bây giờ mới đánh, mới giành lại nay. Đỗ Thanh Nhơn thật tướng hay, Có công cả thể, ai tày sánh vai; Nguyễn Ánh ban chức thượng tài. Ngày nay mới đặng an bài ít hơi. Ḷng mừng thạnh lợi thảnh thơi, Các quan đều mới dưng lời tôn vương. Nguyễn Ánh c̣n hăy lo lường, Chưa ưng, để huởn, t́m phương dẹp loàn. Cứ làm Nguyên Soái liệu toan, Lo trừ ngụy tặc, đảng gian hung nầy. Lại xin Gioang rán công bày, Đóng tàu binh khí theo tây cho ṛng. Các quan ra sức hiệp đồng, Chỉnh tu binh mă, gắng công tập rèn. Nguyễn tướng soái lúc b́nh yên, Hai mươi tuổi mới vầy duyên cang thường. Năm sau phước lộc, trinh, tường, Sanh ra công tử, ai đương, ai b́: Tên Đông Cung Cảnh nam nhi, Ngày sau đi tới nơi th́ tây kinh. Đức Thầy chạy giặc lưu linh, Nghe Sài G̣n mới đặng b́nh yên yên. Bỏ Cao Mên, cùng các miền, Đồng Nai, Gia Định trẩy liền tới nơi. Tướng quân Nguyên Soái rước mời, Đức Thầy mới mở ít lời xin ra. Latinh trường lập, đặng mà gần nhau. Việc chi lui tới cho mau, Công đồng bàn nghị, trước sau vẽ bày. Giảng cho Đại tướng lẽ ngay, Khắp bầu thế giái bởi tay Chúa gầy. Bốn phương: Nam, Bắc, Đông, Tây, Nhà kia có chủ, nước nầy có ai? Có vua ngự trị trên ngai, Trên trời có Chúa thiên đài chí công. Xin thong thả, dân dữ đồng; Chúa trời ban xuống, ắt trông thái b́nh. Bảo cho Nguyên Soái đặng tin, Rằng: người có đạo thật minh trung thần. Xin cho giảng dạy xa gần, Mở mang đạo Chúa an phần nơi nơi. Tướng quân như đă y lời; Các quan nhiều kẻ nhiều nơi vui ḷng Xin vào đạo khắp ngoài trong; Tướng quân xem lễ ngợi khong đạo mầu. Thánh đàng gần gũi đền lầu, Đức Thầy giảng dạy, cao sâu tỏ bày. Tướng quân nghe hiểu rơ ngay, Tờ cho giữ đạo, rao nay các thành. Chẳng cho hà hiếp đạo lành, 585 Đức Thầy đặng thế, nổi danh bây giờ; Lái Thiêu, Chợ Quán, Cầu Kho, Nam Vang, Mặc Bắc, Cần Thơ, giảng cùng. Tây Sơn nay đă giận hung, Đem binh xuất trận đánh hung mấy đồn. Nguyễn Ánh binh kéo khắp dồn, Đuổi binh bội đảng chạy bôn rút về. Tướng quân mạnh sức được nề, Rượt theo giặc trốn tư bề uyên thiên. Khánh Ḥa, B́nh Định, Phú Yên, Thảy đều bắt đặng, lấy liên mấy thành. Trí an các chỗ phản hành, Về thành Gia Định tập tành binh thêm. Nước nhà sắp đặt ngày đêm, Trên bờ, dưới thủy, khép kềm binh cơ. Bấy lâu hồi biến đến giờ, Giấu trong gia quyến đỗ nhờ hôm mai. Tỉnh Quảng Trị lánh nạn tai, Nguyễn Ánh nay mới dạy sai rước về. Các quan hội hiệp nghiêm tề, Tôn người tức vị, an bề quốc gia. Phen nầy mới chịu vương ṭa, Đ ại Nam Nguyễn chúa ngự mà ngôi cao. Bá quan văn vơ trong trào, Tới chầu vương vị, ngợi rao các thành. Xong rồi kế việc chẳng lành, Đỗ Thanh Nhơn ỷ chức danh quyền ḿnh. Ở ăn nhiều việc bất b́nh, Lộng quyền, cậy thế, sự sinh dữ dằn. Muốn giết vua, vua khuyên răn, Bởi công trận lớn, ai bằng, ai đang? Chẳng nghe cứ tánh bạo tàn, Nên vua lập kế, cho quân giết rày. Những là bộ hạ chơn tay, Của quan tướng ấy ngày nay mến thầy, Trốn đi làm giặc thêm gây; Lại sau nó hiệp với Tây Sơn cùng. Bấy lâu giặc sợ tướng hung, Đỗ Thanh Nhơn chết, binh nhung dấy đầy. Ngụy vương Nhạc, Huệ, mừng thay, Dọn thuyền trăm chiếc, thẳng ngay Cần Giờ. Ông Manoe chực hờ, Người tây nầy của cậy nhờ Đức Cha Dưng vua pḥ tá quốc gia, Trận nầy bạc mạng phải mà nạn nay. Tàu đi mắc cạn không day, Tây Sơn nó áp phủ vây đầy tàu. Túng bề chẳng biết làm sao, Xuống hầm thuốc súng, đốt ào cháy giăng, Cả tàu bị chết dữ dằn. 635 Tây Sơn xông trận chạy băng giựt cờ Bởi liền đem đốt bầy giờ Tàu thuyền vua cháy, giặc vô Sàig̣n. Đoạt thành, vua chạy Ba Giồng, Hà Tiên, Phú Quốc, thẳng sông miết dài. Sàig̣n giặc đặt quan cai, Anh em Nhạc, Huệ, về ngoài Quy Nhơn. Châu Văn Tiếp, tướng giỏi hơn, Cùng là binh sĩ phá quờn Tây Sơn. Tru đảng nguỵ, diệt bất nhơn, Kéo cờ tá quốc, giận hờn Tây Sơn. Rước vua về lại Sàig̣n, Vua làm đồn luỹ nơi sông khắp dài. Dây thảo long, giăng an bài, Hỏa công thuyền đậu, đă ngoài một trăm. Tây Sơn nay quyết hằm hằm, Tàu thuyền chạy riết, thẳng nhằm đồn vua. Súng bắn hung, binh chạy đùa, vạn binh, thiên tướng, điều thua bỏ thành. Vua chạy bộ, tới Rạch Chanh, Gặp trâu nằm nước, nằm khoanh dưới bùn. Lên lưng nó lội nữa chừng, Sông sâu, trâu hụt cẳng chưn nó rày. Việc nầy thực rất nên may, Sấu trừng, vua mới bước ngay qua liền. Sấu th́ dữ, mà nay hiền, Nghiêng ḿnh vua ngự, chở chuyên qua bờ. Chạy sang Phú Quốc nương nhờ, Tây Sơn vây bắt, bây giờ khó toan. Áo vua cổi mặc cho quan, Nhà Lê Phước Điển, tráo gian mưu dày. Đứng mũi thuyền, giặc chẳng hay, Bắn Lê Phước Điển, vua nay thoát liền. Trung thần tiếng để thiên niên, Liều ḿnh chịu chết, vẹn tuyền tôi ngay. Giặc bắt được dỗ không lay, Phong quờn, ban chức cho nay, không màng. Cứu vua khỏi chết rơ ràng, Chẳng thèm tùng giặc, cao sang, lộc quyền. Đêm, ngày, vua cứ chạy liên, Ra Côn Nôn ngụ; giặc truyền phủ vây. Ba ngày bao khắp Đông, Tây, Nhờ trời dông băo, đất bay mịt mù. Chết ch́m liều íu, lu bù, Trên bờ, dưới nước tối hù thấy đâu. Ḷng vua ra sức khẩn cầu. Thoát thân chạy khỏi, giặc hầu biết chi. Bạt thuyền Phú Quốc một khi, Đức Thầy lúc ấy trốn th́ lưu linh. Các linh mục cực hết t́nh, Vêrô Giám mục giữ ǵn trước sau. Dưới sông, trên bộ, dác nhau, Nam Kỳ trốn khắp, kể sao cho cùng ! Biển th́ bị sóng hăi hùng, Lào, Mên, Xiêm, Mọi. giặc hung đă đầy. Mấy năm trôi nổi đắng cay, Nhiều khi ở biển, ở ngay giữa vời. Vua th́ chịu cực hết hơi, Quan quân đói khát, ăn thời những rau. Đào khoai, bắt ốc nuôi nhau, Moi nần, hái trái, ăn hầu đỡ thân. Đức Thầy lo lắng muôn phần, Sai người t́m kiếm lần lần hỏi nay. Đức vua khốn cực lắm thay, Đức Thầy khi ấy ở rày trong Xiêm. Đức vua cũng ra sức t́m; Hai v́ nay hiệp, phỉ niềm ước trông. Cùng nhau mừng rỡ hết ḷng, Kể ra đoạn thảm long đong không cùng. Đức Thầy thương cách lạ lùng: Bao nhiêu lương phạn, đồ dùng, của ăn, Đam dưng vua đặng phát ban, Giúp cho tướng, sĩ, được đàng ấm no. Các cha, dân giă dưng cho, Kẻ nhiều, người ít, hằng lo giữ ǵn. Ở chung bàn luận hết t́nh, Suy đi, xét lại, cho minh cho tường. Đức Thầy an ủi lo lường, Gắng công cầu cứu, t́m phương vẽ bày. Vua rằng: “Nhiều nước phương tây, Cũng đều muốn giúp, rủi may khó ḷng. Đ̣i nhiều, đ̣i ít, ḷng ḍng, Trẫm hằng nghi ngại, phải pḥng, phải lo. Việc xong khó nỗi đôi co.” Đức Thầy bàn tính, sánh so, chỉ bày , Điều hơn, sự thiệt, lẽ hay, Vua liền ưng chịu, phú tay Đức Thầy Viện cầu về nước bên tây, Phangsa đại quốc, ban ngay ấn rày. Đông Cung giao phú Đức Thầy, Mới năm, sáu tuổi, bỏ nay nước nhà. Đặng cho cứu khổ nước ta, Làm con tin thật, đặng mà viện binh. Công đồng hiệp nghị an b́nh, Làm mười bốn khoản, triều đ́nh lập thanh. Không kể ra, v́ bất thành, Việc sau điều ước thi hành chẳng nên. Phong thơ vua đứng ở trên, Triều đ́nh đứng dưới, gởi bên tây thành. Thương thay! Giám mục nhơn lành, Thấy vua khốn cực chẳng đành bỏ qua. Vua th́ hằng hỏi Đức Cha, Lại xin cứu giúp cơn mà hiểm nguy. Thở than, than thở sầu bi, Trọng làm mưu sĩ, kính v́ quân sư. Luận bàn tính việc nên hư, Đức Thầy chỉ vẽ, ưu tư mọi bề. Xuất thân cực khổ chẳng nề, Lo đi cầu viện, chiu mê đoạn sầu. Trí hằng sợ hăi nguyện cầu. Việc thành có phước, lo âu không thành. Ḷng thương vương vị Nguyễn Anh, Lại rằng: “Nếu việc đặng thành ngày sau, Ắt là vua sẽ chữa bàu, Nước vua, đạo thánh, cùng nhau thuận ḥa. Tính rồi ư nhiệm cao xa, Cầu xin Chúa cứu, vua mà Nguyễn Anh. Em Hoàng hậu, đă tùng hành, Cùng hai quan lớn chịu danh đạo lành. Đức Thầy rửa tội an thành, Dạy cha Nghi giúp Nguyễn Anh hằng ngày. Lạ thay cho một điều nầy! Đông Cung c̣n nhỏ vua rày bảo đi, Không khóc lóc, chẳng căi ǵ, Đức vua chỉ phán, tức th́ chịu đi. Kẻ thương, người mến, li b́, Quốc gia loạn lạc phân li nỗi nầy. Vua rằng: “Trẫm phú Đức Thầy, Lễ nghi, phép đạo, dạy rày con ta, Hầu sau kế vị nước nhà.” Đức Thầy nghe phán vui mà xiết bao! Trúng ḷng người đă ước ao, Vua bồng, vua dắc, vua trao, phú quyền. Dấu yêu dường thể thánh hiền, Đông Cung mến đạo, lại siêng học hành. Đức Thầy lo lắng tập tành, Thuộc kinh, sáng dạ, hiền lành, khôn dang. Đức Thầy gánh vác muôn vàn, Tận tâm, kiệt lực, liệu toan kế pḥng Cùng là việc đạo ngoài trong, Tâu vua các chuyện, đặng ḥng trí an. Hai phương, hai nước, đôi phang, Gởi trong bổn đạo, Cao Hoàng biết hay. Đă nên sốt sắng ai tày, Lo về phần đạo, rơ nay hết ḷng. Nuôi học tṛ, ra sức nong, Ba mươi theo với, thoát ṿng hiểm nguy. Đem qua Thiên Trước một khi, Lập nhà trường đó dạy th́ lễ văn. Dầu cơn khốn cực khó khăn, Lo bề bổn phận, không hằng giăn ra. Kể từ cách mặt mẹ cha Hai mươi năm chẵn, hồi qua Nam Kỳ. Ngày nay hữu sự ra đi, Ḷng thương bịn rịn, xiết chi đoạn phiền! Bấy lâu ở với bầy chiên, Đêm cầu, ngày khẩn, giữ giềng mối luôn. Nhiều khi cực khổ thảm buồn, Mảng theo chơn Chúa, chịu muôn ngàn sầu. Bị bắt đạo, hằng lo âu, Lại c̣n sự giặc, kể đâu cho cùng! Đức Thầy xin Chúa rộng dung, Cứu hồi cơn khổ băo bùng tân toan. Dầu hao, tim lụn, canh tàn, Đi buồn, đứng nhớ, ngồi bàn, dựa than. Trống lầu canh nhặt không an, Tiếng gà eo ét, hai hàng đượm tuôn. Đoàn chiên Chúa, phú dưng luôn, Nước chao, sóng dợn, ḷng buồn thảm thay! Một ḿnh thầm thĩ canh chầy, Đọc kinh, lần hột, cầu nay đêm ngày. Cây cao th́ gió càng lay; Càng cao sang trọng, càng dày gian nan! Ḷng lo mọi nỗi thở than, Hai vai gánh nặng đầy tràn cả hai. Một bên Giám mục giữ cai, Một bên tá quốc hôm mai nhọc nhằn. Giă từ, dời gót, phăng phăng, Vua quan trọng kính, đứng giăng chúc lành. Đông Cung, Giám mục đồng hành, Ba người tùng phái non xanh đạp giày. Bổn đạo đưa Đức Thầy trở về nước Phalangsa viện binh. Đông dầy Bổn đạo tựu đầy, Thảy đều cúi lạy đưa nay một bài: Đội ơn Chúa cả thiên thai, Đă cho ta biết đạo ngay mà thờ. Chúng con thật rất bơ vơ, Như gà lẻ mẹ, biết nhờ vào đâu! Chúng con dạ rất thảm sầu, Đức Thầy dời bước, ai hầu ủi an? Thở than lụy nhỏ chứa chan, Vắng hiu quạnh quẽ, mắt tràn vơi vơi. Đức Thầy chóng kíp vội dời, Chúng con xin tỏ ít lời nầy ra. Tỏ thời nước mắt nhỏ sa, Hai hàng châu lụy chan ḥa chẳng nguôi. Chúng con phải phận mồ côi, Bao giờ thấy mặt? Cha ôi! Con phiền. Bấy lâu hằng ở các miền, Sớm khuya dạy dỗ, cầu nguyền cho con. Bởi đâu th́ vận thon von, Cha nam, con bắc, héo don đoạn trường! Xa xuôi huyền viễn vô thường, Biệt ly muôn dặm, không tường căn do. C̣n cha, con đặng gồm no, Cha đi, con biết âu lo phương nào! Cơn nầy sóng gió ba đào, Chúng con dường thể cá nhào biển đông. Bầy chiên hết sức đợi trông, Thới lai xin tới, năo nồng xin qua. Tư bề muôn sói hằng hà, Phủ vây đều bắt, khốn đà nơi nơi. Thuở xưa Chúa xuống ra đời, Muôn dân theo Chúa nghe lời thiếu chi. Dọn tàu Chúa lại trẩy đi, Đặng sang chốn khác, Chúa th́ dạy dân. Vêrô cầm lái ân cần; Gió th́ đă có Thiên Thần thổi đưa. Sóng phủ đừa, c̣n chừa Chúa ráo, Các Tông đồ ướt áo xăng văng. Kẻ th́ leo cột vịn chằng; Người th́ dại sóng, té văng xuống vời, Lội đà uống nước hết hơi. Vêrô thức Chúa. Giả ngơi nín nằm. Tông đồ sợ hăi đằm đằm; Chúa bèn ngồi dậy, hỏi thăm thử ḷng Thấy điều nguy hiểm cực song, Chúa đều khiến lặng cả ḍng hải ba. Cúi xin Chúa chữa Đức Cha, Cùng là chúng tử cơn mà hiểm nguy. Ngày nay phụng mạng ra đi, Vêrô thức Chúa, cứu th́ Đức Cha. Trở về phục đặng quốc gia, Đức Thầy, bổn đạo hưởng mà hiển vang. Đang th́ cả nước không an, Tây Sơn đánh phá bạo tàn nên kinh, Chờ cho văng khổ lai b́nh, Chúng con sẽ đặng phỉ t́nh ước ao. Bây giờ lận đận, lao đao, Cầu xin Chúa cả thiên tào đoái thương. Từ rày phân rẽ đôi phương, Chít chiu ngơ ngáo, tư lương thêm phiền. Chúng con hôm sớm cầu nguyền, Thái b́nh vận tới, cho yên nước nhà. Trước là Chúa cứu Nguyễn gia, Sau đoàn chiên Chúa kẻo mà sầu bi. Cúi xin Đức Mẹ phù tŕ, Tử sanh đều cũng một th́ b́nh an. Ngơ sau lên cơi cao quang, Ở gần ṭa Chúa hiển vang chẳng cùng. Đức Thầy xông trận băo bùng, Tay lau nước mắt, không cùng nhớ thương. Đức Thầy tây, con nam phương. Mến nhau v́ bởi, Chúa thường ban cho. Điều nầy, việc nọ, dặn ḍ, Phép lành ban khắp đủ no mọi đàng. Biển đông lướt dặm băng ngàn, Trải qua biển bắc gian nan công dày. Vua ở lại, chịu châu mày, Tây Sơn nó rượt, xỏ ngay buồm lèo. Chạy ra ngoài biển cheo leo, Ở khơi nước mặn, rất eo cực phiền, Chịu khát quá, vua khẩn nguyền, Xin trời thương xót, chữa chuyên vô bờ; Chẳng th́ ch́m chết bây giờ: May đâu tạo hóa thiên cơ nhậm lời. Ơn trên dành để có nơi, Vua quan múc nước, uống thời ngọt ngay. Lần hồi cho kẻ thám nay, Giặc đà thấy vắng, về rày Long Xuyên. Ở đâu cũng chẳng đặng yên, Đánh th́ thua măi, tách miền vô Xiêm. Xiêm vương rước đăi trọng niềm, Vua xin binh giúp, Xiêm liền giúp cho. Hai muôn quan lính đủ no, Thuyền vài trăm chiếc, thẳng vô các đồn. Đánh Mang Thích, giặc sảng hồn, Ông Châu Văn Tiếp khéo khôn trí tài Trận nầy bị chết, v́ gai: Vua rầu, vua khóc, vua ai, vua phiền. Nhạc nay xuống chiếu chỉ truyền, Sai em là Huệ trăm thuyền kéo vô. Tới Rạch Gằm, binh đánh nô. Nhử Xiêm xáp trận, Huệ xô lũy thành. Đặt binh mai phục xung quanh, Đánh cho một trận, thật danh tướng hùng. Binh Xiêm vỡ chạy khắp cùng, Mới thâu tàn tốt, lén trùng trốn ngay, Thẳng về Băng Cót chạy bay, Không c̣n dám giúp, khốn thay nỗi nầy! Tây Sơn treo bản khắp đầy, Can tầm mà bắt vua nay hết ḷng. Túng cùng, vua tính không xong, Chạy qua Xiêm nữa, ở ḥng hai năm. Trông binh viện, chẳng thấy tăm, Phen nầy vua mới chí lăm thoát liền. Nhắm xem ở chẳng đặng yên, Vua Xiêm toan hại, cực phiền biết bao! Bởi nghe đồn, vua có tàu, Có quan, có lính giúp, nào có nao. Nửa đêm vua phán chỉ rao, Gia thần, cung quyến chở ào một khi. Viết thơ lại, thoát tức th́, Giă từ Xiêm quốc, lén đi tuốt về. Hà Tiên thẳng riết dựa kề, Giấu trong cung quyến, ngụ về một nơi. Vua khởi binh, cầu với trời, May đâu chư tướng, quân thời theo đông, Vơ Công Tánh, người G̣ Công, Đạo binh ứng nghĩa đă ḥng trót muôn. Tiếng bay dường thể tiếng chuông, Vua ban chức trọng thưởng luôn công dầy. Mấy muôn binh kéo dầy dầy, Thẳng lên Gia Định, đánh Tây Sơn liền. Các thành vỡ chạy khắp miền, Ba lần lấy lại, mới yên lần nầy. Dựng cờ, treo bản đông tây, Chiêu an đề chữ cho nay dân t́nh. Vua truyền cho các quan binh, Rước bà quốc mẫu, trú đ́nh lánh thân, Chổ noi Phú Quốc chẳng gần, Lại cùng cung quyến phải vâng rước về. Hai mươi hai năm giặc bê, Lần nầy chúa thượng nhắm bề yên yên. Trên bờ, dưới thủy, dọn liên, Binh thuyền, binh bộ, chỉ truyền lập ra. Lại đồn nhiều tiếng ngâm nga, Viện binh gần tới, kể đà mấy muôn. Tàu nên mạnh, nói thêm luôn, Mấy trăm, mấy chục, sang tuôn đùng đùng. Tây Sơn nghe đă hăi hùng, Không c̣n dám đánh, làm hung lăng loàn. Binh vua mừng rỡ hỉ hoan, Các quan phấn chấn tiếng vang dậy trời. Nhạc, Huệ, Lữ, chia ba nơi: Qui Nhơn về Nhạc, Huệ thời Huế kinh, Sài G̣n Lữ lănh về ḿnh; Ba vua, ba xứ rất vinh dẫy đầy. Lữ nay sợ hăi lúc nầy, Mới lo tiên liệu, bỏ nay Sài G̣n. Cuốn cờ về tót Qui Nhơn, Ngày sau thát đó, chẳng c̣n dám gây.
Đoạn nầy kể việc đi tây, Đông Cung đi với Đức Thầy trải qua. Khắp nơi thiên hạ nhà nhà, Coi Hoàng thái tử của mà nước ta. Bấy lâu người cơi Phangsa. Chưa hề đặng thấy con nhà An Nam. Tới kinh xin đến thánh hoàng; Vua Lu-y ngự phẩm hàng nghiêm trang. Vua rằng: “Con trẻ hà phang, Do hà qú dưới ngai vàng trẫm đây? Sân chầu lại có Đức Thầy, Tôn sư hăy tỏ, trẫm nay biết tường.” Tâu rằng: “Thái tử xa phương, Con vua Nam Việt mắc đường ức oan. Hoàng thân bị giặc bại tàn, Cậy nay thần ngăi t́m đàng viện binh.” Đế vương nghe rơ sự t́nh, Phán rằng: “Đế hội triều đ́nh liệu toan.” Thành Paris, súng bắn vang, Chào mừng Hoàng Tử An Nam tới rày. Tiệc bày thết đăi trọng thay, Đế vương thương mến, chuẩn nay bạc vàng. Cấp rộng răi của vua ban, Xứng v́ Hoàng Tử, đáng hàng ngôi vương. Hội giảng đạo có nhà trường, Đức Thầy, bọn sứ, ngụ nương, lo lường. Phangsa hoàng đế tây phương, Có v́ Thái tử cũng trương tuổi nầy. Ra vào đền ngọc vui vầy, Hai hoàng thương mến, chơi nay trong triều. Ai ai xem thấy mến yêu, Đông Cung tánh nết nhiều điều đáng thương. Bé thơ ĺa cách quê hương, Con vua mà chịu tha phương nỗi nầy. An Nam đi tới bên tây; Đông Cung đội măo, xem rày tốt thay. Trong triều lấy kiểu ngày nay, Làm ra mà đội, tỏ bày là vui. Vẽ h́nh tượng, thấy ngùi ngùi, Đặt bài, đặt vă, thương người nạn tai. Đức Thầy bàn luận lâu ngày: Vào triều diện tấu, kể bày thỉ chung. Đức vua gạn hỏi khắp cùng, Bá quan hội luận, đều tùng hỏi tra. Đức Thầy phân giăi tâu qua, Làm tờ dưng tới tỏ mà việc ra. Công đồng căi lẫy gần xa, Kẻ th́ bàn tới, người mà bàn lui. Trót năm việc mới vừa xuôi, 1025 Đức Thầy mở trí, mới vui lúc nầy. Ơn trên thánh thượng đại tây, Châu phê bút ngọc, phong nay Đức Thầy Hoàng ḥa Đại sứ chức nầy, Lại ban của vật, phú tay Đức Thầy. Năm điều giao ước triều tây, Không thành nên chẳng kể bày ra đây. Việc an, kiệt lực, công dày, Đức Thầy người mới xin nay về nhà. Trước là thăm viếng mẹ cha, Sau thăm cô bác cùng là bà con, Bấy lâu cách biển, núi non, Thăm em, thăm cháu, vuông tṛn gần xa. Sum vầy đủ mặt cả nhà, Cha già khỏe mạnh, mẹ già tốt tươi. Mừng cha, mừng mẹ, vui cười, Thương thương, mến mến, người người, nơi nơi. Giă từ, dời bước tách vời, Hoàng triều hạ lịnh, tàu thời đưa đi. Viết tờ truyền chỉ một khi, Trẫy qua Thiên Trước lănh th́ binh cơ, Y như mấy khoản trong tờ, Quan cai hạt ấy, bây giờ phải vưng. Cả trong bộ sứ vui mừng, Cám ơn hoàng đế xuống chưng phước lành. Tạ từ triều quốc, cả thành, Xuống tàu chạy riết, non xanh lướt vời. Núi cao biển thẳm ra khơi, Trẩy đi diệu vợi, vơi vơi xa đường. Ponry vừa tới tŕnh chường, Có tờ chánh nước đế vương lịnh truyền. Quan cai quản hạt mở liền, Xem coi từ khoản chỉ biên rơ ràng. Dạy rằng: “Quân bộ mấy ngàn, Thủy binh mấy đoạn, phải dàn đủ ra. Tàu lớn nhỏ, lo trẩy qua, Cùng là súng lớn, lại là tiểu thương, Mấy trăm pháo thủ lo lường, Bao nhiêu khí giái, phải trương đủ đầy. Kíp lo, chẳng đặng để chầy, Sang qua Nam Việt, giúp rày Nguyễn Anh. Triều Nam riêng một góc thành, Quốc gia dường thể chỉ mành treo chuông. Việc xong mở cuộc bán buôn, An Nam nhường đất Côn Nôn, Cửa Hàn, Sơn Chà và chỗ Ải Vân…” Lượt biên nhơn kể ít phần ra đây. Rủi thay! Việc chẳng thành nay, Quận công quan ấy lại gay chẳng làm. Sanh ra việc đă bất kham, Liền làm tờ tấu dưng đam bệ vàng. Xin cùng hoàng thượng giăn khoan, Kể ra nhiều chuyện, nhiều đàng ngạnh ra. Lại nhằm đang lúc quốc gia, Phải quân ngụy dấy, đánh mà ngoài trong. Vua nghe quan tấu bằng ḷng, Đức Thầy nài nỉ, cũng không ra ǵ. Đă nên đau đớn sầu bi, Đức Thầy nát ruột, lo th́ nát gan. Cầu xin cùng Chúa thở than, Viện binh chẳng đặng, hỗ hang trăm đàng. Sợ v́ nhiều nỗi tai nàn, Nước Nam trách phạt dối gian nịnh thần. Suy đi, tính lại muôn phần, Hồng Mao xin đă nhiều lần giúp cho. Hứa càng chịu đă đủ no, Mười muôn đồng bạc, ban cho riêng liền. Đức Thầy sợ lạc đạo truyền, Tức th́ than thở cầu nguyền Chúa Cha. Hết ḷng sốt sắng thiết tha. Ngày nay mới xuất của mà Đức Cha. Của vua Lu-y ban ra, Của cha, của mẹ, cùng là bà con, Của đi phổ khuyến các ḥn, Cù lao mấy chỗ ch́u ḷn hảng buôn. Nhà giàu xuất bạc cho tuôn, Ponry, Thiên Trước giúp luôn nhiều điều, Của bá gia, người mến yêu. Mua tàu mấy chiếc, mua nhiều súng nay, Mấy ngàn súng nhỏ cầm tay, Một trăm vị lớn, kéo ngay xuống tàu. Thỉnh chiêu bạn hữu trước sau, Quan quân t́nh nguyện kéo nhau dầy dầy. Anh hùng tướng sĩ sum vầy, Cựu quan thủy, bộ, giúp nay Đức Thầy. Ba bốn trăm hội vang dầy, Xuống tàu chạy riết sang rày Việt Nam . Để cho thiên hạ luận đàm,Một ông thầy đạo cơi phàm khó đang. Đă nên đứng bực khôn ngoan, Đă nên thượng trí, thế gian ít tày. Gởi tờ tấu dộng trên ngai, Đại Nam Nguyễn chúa đặng hay tin nầy. Xem thơ ḷng tợ lên mây, Tống tờ cho khắp đông tây mừng rày. Vua truyền văn vơ sắp bày, Thuyền rồng vua ngự, chạy ngay Vũng Tàu. Kể từ xa cách mặt nhau, Sáu năm những mảng chịu đau đớn ḷng. Trời thanh biển lặng, trăng trong, Ngoài khơi thẳm thẳm, giữa ḍng vơi vơi. Côn Nôn tàu chạy tới nơi, Đức Thầy truyền ghé, trí thời súng đây. Ít vị lớn, pḥng chỗ nầy, Rồi tàu thẳng riết, chạy bay chẳng chầy. Trải qua gành nọ, núi nầy, Đức Thầy lên đất thăm bầy đoàn chiên. Bấy lâu những mảng lo phiền, Ngày nay vui hiệp, phỉ nguyền ước trông. Mấy tàu đều chạy như dông, Vũng Tàu vừa tới, đều ngừng gieo neo. Hoàng ḥa Đại sứ cờ treo, Đức Thầy, Thái tử, mừng reo cả tàu. Trông con như hạn trông dào, Ngư nay đắc thủy, gặp nhau phỉ rồi. Bổn triều Hoàng tử phản hồi, Hoàng thân mừng rỡ, kể thôi không cùng. Thấy con đă lớn h́nh dung, Gặp vua tâu tiếng khiêm cung muôn phần. Đức vua, Giám mục, ân cần, D́u theo kể nỗi kề gần với nhau. Đức vua mới phán trước sau, Cá khô được nước mưa dào đượm tuôn. Mừng mừng, chúc chúc, luôn luôn, Tây , Nam , chư tướng buồm trương về thành. Sài G̣n binh đóng khắp quanh, Trên bờ, dưới thủy, chúc lành nhạc khoan: Súng đền mừng bắn đă vang, Dưới tàu Giám mục binh càng bắn lung. Rền trời, dậy đất, tiếng cùng, Ầm ầm trống trận, đùng đùng nhạc ca. Gởi thơ qua nước Phangsa, Đội ơn Hoàng đế cùng là các quan. Bất thành chẳng tại đế hoàng, Bởi đâu nên phải giữa đàng khác ra. Cuộc mừng nhiều đoạn ngâm nga, Xong rồi vua mới lo qua nước nhà. Cấp phong viên chức Phangsa, Kẻ quan đề đốc, người mà năm ren. Nhiều quan sang trọng chẳng hèn, Nghề văn, nghiệp vơ, ghe phen đă tầng. Ḷng thương Giám mục mới vâng, Sang qua mà giúp vương quân lúc nầy. Phong thủy sư, quản tàu tây, Tàu Long, tàu Phụng, sắp bày lớp lang. Đóng tàu lớn, nhỏ, nhiều đàng, Đặt tên, đặt họ, An Nam nhộn nhàng. Bộ binh phong chức các quan, Họa đồ, thầy thuốc, phẩm hàng ban danh, Quan lương phạn, quan xây thành, Thành bền, lũy chắc, xung quanh Sài G̣n. Sáu ngàn binh tập nên ṛng, Theo như tây cả, đặng ḥng pḥ ngai, Năm muôn binh chiến anh tài. Khắp trong các việc phú tay Đức Thầy, Lo xử trí, với người tây; Ban khoanh, phong chức, nhờ nay Đức Thầy. Đức Thầy trông vận thới lai, Về tây đem lại theo rày tám cha. Tŕnh diện tấu, vua phán ra, Ban bày mở tiệc đăi mà các cha. Đức Thầy sai khắp gần xa, Tây , Nam , Linh mục cai mà giáo nhơn. Lập ra địa phận keo sơn, Viếng thăm giúp đỡ, nguồn cơn giữ ǵn. Phần hồn dạy dỗ hết t́nh, Xin cho giáo hữu trường sinh cơi trời. Cất nhà thờ đă nhiều nơi, Đem người trở lại, nào thời thảnh thơi. Cả lo quá, nhọc hết hơi, Phần hồn, việc nước, thương ôi! Nhiều đàng. Cực thân vóc ngọc, ḿnh vàng, Đức Thầy phát bịnh, phổi gan mụt đầy. Đức vua than thở nào khuây, V́ ai mà phải bịnh nầy nên hung? Khóc thương, yêu mến không cùng, Châu rơi hột ngọc, thỉ chung tỏ bày: ”Bởi v́ trẫm, chịu đắng cay, Thiên sơn, vạn hải, đạp giày tuyết sương. Ngày đêm t́m thế lo phương, Gan vàng bị cháy, nên vương bịnh nầy. Ngậm cay, nuốt đắng, bấy chầy, Nghiêng nghèo trong nước, nhờ Thầy ra ơn. Ngày ngày ăn giận, uống hờn, Ghét loài đảng tặc, đoạt quờn lâu nay.” Bên giường ngồi kế Đức Thầy, Rước lương y đă đủ đầy ngoài trong. Lo điều trị, thương hết ḷng, Thuốc kia, thầy nọ, hằng mong chữa đầy. Ḷng khẩn nguyện, nhờ thầy hay, Bịnh lần lần khá, một ngày một hơn. Việc chi mưu sự tại nhơn, Song le thành sự bởi ơn Chúa trời. Việc mê mê, khắp nơi nơi, Nếu mà người chết, ắt thời phải hư. Đức vua mừng đứng quân sư, Bịnh thuyên khỏe mạnh cũng như lúc thường. Ḷng vua phới phở lo lường, Quan văn, tướng vơ, đường đường vô song. Lính bộ sẵn, lính thủy ṛng, Cất binh đánh riết, thẳng xông phá thành. Tây , Nam , nhiều tướng vút nanh, Đều đồng hiệp lực, đánh quanh khắp đồn. Lấy đà tứ phía vệ môn, Tàu vua xáp trận, giặc bôn chạy dài. Mấy muôn binh ngụy lâm tay, Tàu thuyền trăm chiếc, bắt ngay về ḿnh. Tới cửa Dă, vua dừng binh; Nhạc th́ c̣n hăy giữ ǵn Qui Nhơn. Ngày nay Nhạc tỏ nguồn cơn, Cho em đặng rơ giang sơn lúc nầy. Quang Trung đang ngự Huế nay, Nghe tin anh tỏ dọn bày binh cơ. Tống ban lời dụ mấy tờ, Kế sa nhiều trận, cơi bờ phá tan. Tây dương người ở xa phang, Chẳng làm chi được, chẳng gan bằng ḿnh. Gộp binh khắp tỉnh, khắp dinh, Tàu, thuyền, voi, ngựa, thân chinh đánh liền. Lo cứu anh, lại ḷng phiền, Quang Trung chẳng kịp, sớm liền băng ngang; Bốn mươi lăm tuổi tách đàng, Con là Cảnh Thịnh ngai vàng kế ngôi; Tuổi c̣n nhỏ, lo chơi bời, Khắp trong việc nước giao thời Thái sư. Qui Nhơn vua hết sức trừ, Binh đà tử trận kể dư muôn ngàn. Nay vua Thái Đức pḥng toan, Sợ thua mà phải lâm đàng gian nan. Gởi tin cho cháu vội vàng, Cậy con của chú, binh sang hiệp vầy. Vua Cảnh Thịnh binh kéo đầy, Tới không cứu bác, lại day soán quyền. Vua Thái Đức đau đớn liên, Bác rầu, bác những ưu phiền ruột gan. Tức ḿnh, Thái Đức băng ngang, Tiếu Triều con bác vô phang cùng đàng. Ngày nay con chú luận bàn, Phong Tiếu Triều tước huyền đàng Phù Ly. Nguyễn vương ḷng sợ xiết chi, V́ binh Cảnh Thịnh hiệp th́ cả hai. Nên vua truyền lịnh mở khai, Sài G̣n quân lính ai ai về rày.
Đoạn nầy kể việc Đức Thầy, Đầu đuôi đem nhón ra đây tỏ bày. Tính người hiền hậu, vui thay, Dịu dàng, nhơn đức, ai tày được nay. Thông minh rất mực tài hay, Cả đời hằng giữ giờ ngày liên liên. Việc hồn, việc nước, liền liền, Hằng lo bổn phận, ḷng chuyên đêm ngày. Nhọc nhằn muôn việc đắng cay, Thở than cầu Chúa giúp nay cho ḿnh. Ả nh chuộc tội mắt hằng nh́n, Tay cầm, ḷng nguyện, xin ǵn giữ luôn. Biết bao nhiêu việc thảm buồn, Đông Cung vua phú dạy khuôn phép hoài. Việc văn, việc lễ, dồi mài, Nhiều quan thấy vậy, kêu nài cáo gian. Thấy vua yêu dấu nhiều đàng, Thấy quan vô đạo, không an trong ḷng. Nhiều quan rán sức mà nong, Cáo rằng: “Thầy đạo đam ḷng giết dân : Khoét con mắt; thấy nhiều lần, Làm bùa nhiễu hại trăm phần đa đoan. Dẫn đứa câm, trước ngai vàng, Tâu xin vua xử, ức oan việc nầy. Những là thầy đạo, khốn thay! Cho bùa, nên phải câm nay làm vầy. Vua rằng: “Trẫm giận thầy tây, Ai ngờ hại trẫm, phá rày nước ta.” Vào pḥng kiếm thuốc ngoại khoa, Đam b́nh nước uống đổ ra ly vàng. Pha đỏ đỏ, lấy màu vàng, Đem cho bịnh uống, khá ngang tức th́. Vua truyền tra khảo thằng ni, Ai mưu bỏ vạ, chẳng v́ đạo nay. Đánh đau, nó mới khai ngay, Năm mươi quan đă mưu bày chước ra, Vu oan, gieo họa, thậm đa, Liệu toan đặng giết Đức Cha bấy chầy. Vua truyền bắt đảng tà tây, Truyền quan vơ sĩ, chém ngay tám người. Vu lần trước đă mấy mươi, Đức Thầy xin khỏi, dễ ngươi phen nầy. Đức vua trị thẳng, chẳng chầy, Bởi thương công nghiệp Đức Thầy vô biên. Tháng ngày gần gũi nhau liên, Muôn ngàn việc việc, cần chuyên nhiều điều. Đức vua theo xác thịt nhiều, Đức Thầy thấy vậy kiếm điều lui ra. Tránh dịp tội, giữ kẻo sa, Đă nên nhơn đức, thiệt là chơn tu. Thiệt chơn tu rất công phu, Trong trào, ngoài quận, mấy thu ngợi đầy. Đức Thầy tâu tỏ ra đây, Xin vua cho kiếu sự hay chầu thường; Có việc trọng, tới t́m phương, Đặng bày mưu kế, giúp đường quốc vương. Lại tâu có kẻ toan đường, Phân b́, bỏ vạ, lo lường hại thay. Vua chẳng cho, kiếm chước bày, Nói điều phạm thượng tới rày đạo nay. Lại hăm cấm đạo nên gay, Lập mưu, lập thế, đắng cay nhiều đàng. Kiếm điều, kiếm lẽ, liệu toan, Bắt quan có đạo, luận bàn tội ngay. Tội kia, việc nọ, đam bày, Hầu cho Giám mục đặng hay, đặng tường. Đức Thầy ra sức lo lường, Xin vua tha thứ, ấy dường là ơn. Đức Thầy sợ nỗi cừu hờn, Lại c̣n nhiều việc thiệt hơn nhăn tiền. Vua tánh nóng, không đặng hiền, Nhiều khi vua phán, vua phiền ăn năn: ”Thương Đức Thầy giữ nghiệp hằng. Bởi nhờ can gián, nhiều lần cản ngay, Trẫm mến thay! Lại ơn thay! Có điều trẫm sái, nhờ nay Đức Thầy. Quân sư tế thế ai tày, Trẫm thương, trẫm kính, đấng rày bực cao.” Đức Thầy cực khổ công lao, Ḷng hằng cầu nguyện ước ao đêm ngày, Trông nhờ phần đạo sau đây, Thương ôi! Đoạn thảm lúc nầy xiết chi. Các địa phận trách li b́, Không lo bổn phận, tham v́ quờn danh. Rất vô ích, chẳng khôn lanh, Tây Sơn bắt đạo hoành hành tại ai? Đi tây về giúp vương đài, Giận hờn, cừu oán, nỗi oai, hại hoài. Biết bao muôn việc nạn tai, Giết người bổn đạo, hành hài vô song. Các cha nó cũng chẳng dong, Nhà thờ phá tuyệt, đau ḷng nào nguôi. Đức vua tay vỗ, ḷng vui, Phán rằng: “Quốc sự điềm xuôi đă bày. Cả và nước, nhắm đă may, Sẽ về một mối vào tay trầm rày. Bởi v́ bắt đạo thánh nay, 1365 Tây Sơn chắc bị bởi tay Chúa Trời.” Giáo Hoàng nghe bấy nhiêu lời, Không điều trách phạt việc thời Đức Cha. Đức vua nay tống lịnh ra, Ba mươi hai khoản, sửa mà binh cơ. Răn dưới thủy, cấm trên bờ, Cùng là khắp tỉnh, chớ sơ lịnh truyền. Nghiêm răn nhặt nhiệm bảo khuyên. Lại nay vua cũng quở liên, dặn ḍ. Các quan hiệp đánh bạc to, 1375 Quở quan rát mặt, quan lo điếng hồn. Lại rằng: “Chúa tạo càn khôn, Trên trời dưới đất, chí tôn đời đời. Chúa bổn đạo thờ nơi nơi, Ai khinh phạm đến, phạt thời chẳng tha.
Đoạn nầy quyết phục quốc gia, Công đồng xuất trận, binh mà kéo đi. Đức vua bàn luận xiết chi, Sai Đông Cung với cùng th́ Đức Cha. Nha Trang trấn thủ cự già, Binh giăng các lũy giữ mà ngoài trong. Vua hằng ép uổng hết ḷng, Đông Cung c̣n nhỏ cậy trông Đức Thầy. Mưu mô bày trí nên hay, Đuổi quân đảng tặc, chạy bay t́m đường. Kéo cờ, ai dám tranh cường, Thành đồn, chống vững một phương lạ lùng. Tiểu Triều oán Cảnh Thịnh hung, Bấy lâu nay mới nổi xung đánh nà. Qui Nhơn nghiệp đế của cha, Lấy rồi lại sợ giữ mà không an. Gởi tâu Nguyễn chúa bảo toàn, Đầu hàng cho đặng vững đàng nghiệp nay. Chẳng ngờ Cảnh Thịnh đă hay, Đam quân vô đánh, giết ngay Tiểu Triều. Đức vua lo lắng nhiều điều, Ḷng buồn rầu rĩ, việc điều chẳng an. Đức Thầy lưu trấn Nha Trang, Ngày nay vua dạy trẩy sang tức th́. Qui Nhơn thành tựu một khi, Đức vua, Giám mục, đều th́ hiệp đây. Chung cùng bàn luận đêm ngày, Đức vua than thở với nay Đức Thầy: ”Mấy trận thủy, nhờ tàu tây, Của quân sư sắm, dựng gầy bấy lâu. Mấy trận bộ, đă tóm thâu, Cũng đà hết sức, mới hầu đặng nay. Mấy nơi đồn lũy về tay, Cũng hằng kiên giữ, đêm ngày keo sơn. Ngặt v́ một cơi Qui Nhơn, Chỗ đô của ngụy dữ hơn các thành. Trẫm đam binh tới vây quanh, Đánh đà mỏi mệt, tử sanh chẳng nài. Xuân qua, đông lụn lâu dài, Trót năm tử trận kể đầy mấy muôn. Ngă ḷng trẫm muốn mở buông, Đức Thầy can gián vây luôn thành nầy. Đức vua nghe tiếng bảo đây, Nên truyền quân cứ vây đầy các nơi. Binh vây ngụy tặc hết hơi, Tư bề nghiêm nhặt, thương ôi! Nhọc nhằn. Các tướng giặc thấy dữ dằn, Lớp th́ thoát trốn, lớp bàn thủ thân. Liệu không xong, mới tỏ phân, Xin hàng cho đặng khỏi phần nạn tai. Trước khi đầu, nhờ con nai, Ban đêm chạy chỗ quan cai lũy đồn. Quân thất thế, dậy la dồn, Nghe nai th́ tưởng binh Đồng Nai bao. Bắn nhau sa hố, té hào, Đức vua vào tới ngụy đô, Ḷng mừng hết sức, cơ đồ nghiệp vương. Vỗ về tướng sĩ, binh cường, Qui Nhơn tên cũ toan đương đổi liền. Đặt là B́nh Định, trông yên; Dạy quan Vơ Tánh cầm quyền giữ nay. Quan nầy tướng nhứt giỏi hay.
Kế đâu bịnh tới Đức Thầy phải lâm. Đức vua thật rất t́nh thâm, Rước danh sư tới, khóc dầm thở than. Chữa chuyên hết sức vô phang, Đức Thầy nguyện Chúa thiên đàng đoái thương. Đă ba mươi hai năm trường, Hết ḷng kính Chúa, lo lường lập công. Bấy lâu khẩn nguyện ước trông, Trông vua có đạo, rày không ra ǵ. Hai mươi năm cực sá chi, Giúp vua Nam Việt phục th́ quốc vương. Ḷng mong cả nước bốn phương, Ngày sau thờ Chúa, theo đường đạo ngay. Đức Thầy chí quyết thuở nay, Rày gần vô ích, tiếc thay không cùng. Đức Thầy nay trối thỉ chung, Gởi trong giáo hữu cho chưng vua cùng. Lại rằng: của mọn xin dưng, Những là báu vật đồ dùng bên tây, Vua Lu-y ban bấy chầy, Ngày nay dưng hết của nầy cho vua, Để dùng buổi sớm, lúc trưa. 1465 Lại chường quốc mẫu xin tua nhậm dùng. Trối cùng Hoàng tử Đông Cung, Của hèn sư đệ hăy dùng ngày nay. Cùng nhau mười mấy năm chầy, Dưỡng nuôi dạy dỗ, nào khuây tấm ḷng. Đông Cung nước mắt ṛng ṛng, Thương Thầy sầu năo, không cùng thảm thay. Đức Thầy kêu Chúa phú tay, Linh hồn mọi việc xin rày Chúa thương. Hết ḷng sốt sắng lo lường, Chịu ơn bí tích đủ đường một khi. Có câu sinh kí tử qui, Đức Thầy nay đă mới th́ về quê. Tiêu diêu trực văng lạc hề, Tới nơi cơi thọ, hầu kề Chúa Cha. Trong triều hết thảy gần xa, Vua quan thương khóc, buồn mà nơi nơi. Năm mươi bảy tuổi qua đời; Đức vua kể nỗi, châu rơi trăm bề: ”Chước Thầy bày chất muôn xe, Đánh đồn đánh lũy, chở che thành vàng. Loạn thần, phản chúa, nghèo nàn, Mưu cao mấy nhiệm, phá tan ngụy tàn. Nhắm xem trong nước gần an, Ngôi vàng ḥng vững, ḥng toàn, ḥng thanh. Bội quân đút mặt xó thành, Thân đơn, thể mỏng, mặt xanh như chàm. Bấy lâu trẫm ở cơi Nam , Lao đao cực khổ, Thầy cam tấm ḷng. Hỡi ôi! Công rất trọng công! 1495 Ơn chưa được trả, ngăi không đặng đền. Ḍng châu mịt mịt nào yên, Mờ mờ suối ngọc, đâu quên ơn Thầy! Thương ôi! Người cơi bên tây, Cứu vua Nam Việt dựng gầy quốc an. Ơn nầy trẫm tạc bia vàng, Trẫm đề chữ thắm, danh vang muôn đời. Sau coi sắc tặng của người, Không điều thêu dệt, không lời bày ra. Lịnh đam gấm, nhiễu, lụa là, Ḥm th́ rất tốt, liệm mà Đức Cha. Chở về Gia Định cất nhà, Để quàn hai tháng, tỏ mà nhớ thương. Qui Nhơn các tỉnh hùng cường, Trí quan cai giữ, lịnh vương phản hồi. Sài G̣n đều mới tới nơi, Đức vua đau đớn, thương thôi nhiều đường! Các cha làm lễ thường thường, Khắp trong bổn đạo lo lường đọc kinh. Cầu hồn, xem lễ tỏ t́nh, Nguyện xin Giám mục trường sinh cơi trời. Các quan triều ở nơi nơi, Tới mà thăm viếng, trọng người quốc sư. Đông Cung mến đấng nhơn từ, Vua cho để chế cũng như thân ḿnh. Đông Cung thương nhớ hết t́nh, Đăi đằng hầu hạ, tỏ ḿnh như con. Đượm đầy khóc lóc nỉ non, Nghĩ t́nh sư đệ, héo don đoạn trường. Tốn hao các cuộc phô trương, Của vua ban cấp, nhiều đường trọng thay. Vua đi xem lễ châu mày, Thương v́ nghiệp cả, công dày thuở nay. Đức vua dạy các quan tây, Cứ trong phép đạo vẽ bày việc ra. Có sức nào táng Đức Cha, Th́ làm ngần ấy, ban mà tận tâm. Mồng mười tháng chạp An Nam, Kỷ v́ năm ấy, đang nhằm mùa đông. Ban đêm thiên hạ tràn đồng, Hai giờ khuya mới khởi công phát hành. Đàng đầu Thánh Giá xưng danh, Lồng đèn kết sáng khắp quanh đi đàng. Sáu bàn chạm lọng thếp vàng, Sơn son hết thảy, sắp hàng khiêng ra. Thứ nhứt khám kính Thiên ṭa, Hoàng Thiên Chúa tễ trọng mà tung hô; Thứ hai, khám ảnh Phaolồ; Thứ ba, thánh cả Vêrô tỏ bày, Ấ y là Bổn mạng Đức Thầy; Thứ tư, Hộ thủ kính nay Thiên thần; Thứ năm, Đức Mẹ khoan nhân, Phù tŕ giáo hữu, ra ân muôn ngàn; Thứ sáu, triệu thêu chữ vàng, Họ tên, chức tước, lớp lang sắp bày. Kế rạp gậy mũ Đức Thầy, Để đồ Giám mục trước ngay quan tài. Nhi nam, nhi nữ kéo dài, Trùm, câu, chức họ, đi hai bên đàng. Các cha lớp lớp có hàng, Quan triều, vị vị phẩm dàn kế đây. Vua ngự cùng các quan tây, Đông Cung trưởng tử hầu rày sầu bi. Bà Hoàng hậu, các thứ phi, Hoàng nam, Công nữ, đi th́ theo nay. Lính hộ vệ bồng súng tay, Lọng tàn, gươm giáo, kể đầy hai muôn. Đường ra trận, giữ phép khuôn. Voi ngoài trăm thớt hầu luôn hai hàng. Thắng kiều khấu, rất nghiêm trang, Như chầu vua vậy, sửa sang rạng ngời. Đô tùy khiêng tám mươi người; Sáp th́ đă thắp mấy mươi ngọn đèn. Người sang cho tới kẻ hèn, Muôn vàn thiên hạ ngợi khen tiếng đồn. Làng Tân Sơn cách Sài G̣n, Năm kilomètres, nơi chôn Đức Thầy.
Hai văn tế, và trong bia kể tích, sắc tặng, th́ đều cứ y theo trong sử mà chép ra. Văn tế của Quới chức và Bổn đạo. Có văn tế rằng: Hỡi ôi! Phép Chúa khiến đổi dời, Cơ hội ấy ai không thảm thiết! Hễ người đời sống thác, Cớ sự nầy ôi đă rơ ràng. Tưởng đến, ḷng thêm chua xót, Nghe thôi, dạ rất thảm thương. Nhớ Cha xưa: Vốn ḍng sang trọng, Nên đấng khôn ngoan, Bẻ nương ấm thung huyên, Hằng cấp củm văn pḥng bốn bạn, Lớn trỗ tài tùng bá, Khéo dửng dưng danh lợi hai trường. Ḷng dốc ḷng khí tục tinh tu, Chẳng chuộng xe vời ngựa rước. Chí quyết chí siêu phàm nhập thánh. Ỷ thà níp dội, bầu mang. Vun đức quén nhơn, Rèn bẩy khắc tiết ngời gương rạng. Nắm ḿnh sửa tính, Chống ba thù ngút bạt giá tan, Thương là thương hay thủ ngăi, quyết xá sinh, Khi đang thế hiểm gập gh́nh, Cũng gượng gạo, chơn trèo đèo, tay chống gậy, Cảm là cảm đă tận tâm, thêm kiệt lực, Ở giữa chiến trường chật hẹp, Chịu lao đao, ngày dăi nắng, tối dầm sương. Ôi! B́nh ch́m, trâm găy, Núi lở, sét ran. Mây sầu giăng tở mở, Mạch thảm chảy mê man. Chớ chi gắng gỗ một hai năm, ra đến Trường An, Việc Hội Thánh sửa sang, rồi sẽ khuất; Chẳng nữa lần hồi năm bảy tháng, trở về Gia Định, Cho chúng con thấy mặt, kẻo ḷng thương. Hỡi ôi! Thương thay!
Văn tế của Đông Cung Cảnh Văn tế rằng: Hỡi ôi! Xưa có kế lui về phật kiểng. Chiếc dép hăy di tông, Nay như Thầy thẳng tách thiên đàng, Nửa lời khôn phụ nhỉ. Trăm ḿnh ỷ khó chuộc cầu, Muôn kiếp no nao đặng thấy. Nhớ Đức Thượng Sư xưa: Ghẽ tục phong lưu, Nên trang cơ trí. Vui đạo thánh tạm ĺa quê quán, Nước Langsa từ áng công danh. Sửa tước trời mong hóa sinh dân, Cơi Nam Việt gá duyên ngư thủy. Thức th́ thức thế, Khôn ngoan quá khỏi đấng phàm gian. Bất kị bất cầu, Thong dong ở ngoài ṿng tục lụy. Thành Diên Khánh ách hơn Trần Thới, Tư bề thỉ thạch sư sanh, Vui trong đất trùng vây. Thành Qui Nhơn hiểm quá Hàm Quan, Mấy trận công thu trừ ốc, Quyết ngoài trời thiên lư. Những tưởng được năng y ḱ bịnh, Nên trở về Gia Định, vàng tiếng tơ mà xướng khúc khởi hoàn; Bằng hay nghiệm bất kiến ḱ quan, Đă ở lại Ḱ Sơn, chịu di chỉ cho an ḷng sư đệ. Thuở đi th́ gần kề hai vơng, Đàng phong sương xa tách vơi vơi. Khi về th́ phong cẩn một quan, Thuyền li hận chở đầy phé phé. Ôi! Nửa gối du tiên, Ngàn năm biệt mị. Ṭa khách tinh mây phủ mịt mù, Dinh lữ thứ màn không vắng vẻ. Ngàn trùng quan tác, Xa xuôi cách dặm cố hương. Ba thước lữ phần Quạnh quẽ gởi miền di địa.
Bia trước lăng của Đức vua Gia Long, Nguyên chữ nhu dịch ra tiếng chữ quốc ngữ. KỂ TÍCH Có người Thầy cả lớn quờn ở bên Tây, ên là Pinho, hiệu là Vêrô, Thuở bé thơ đă học hành đạo lư trung quốc, Thông suốt các kinh văn thánh hiền toàn hảo. Đến tuổi khôn qua nước Việt Nam Ta, Nhằm khi trong nước Ta đang phải đa đoan. Người là khách tha bang, mà đă làm Thầy trong nước Ta. Người đă tỏ bày tài văn học ḿnh ra mà làm việc. Vậy đă chung cùng ưu tư vối nhau, Trong cơn nhà nước loạn ly hỗn độn. Lại đă dành nấy phú việc đại sự cho người, Làm Thầy nhà nước, mà đi viện binh giúp nước. Thật người tận tâm tận lực, mà đi qua đi lại, Hơn hai mươi năm gian nan cực khổ. Người đă bày vẽ việc binh cơ đồ trận, Chỉ cách xây thành, lập trấn. Nhứt thiết các việc chỉ khởi bày gầy dựng, Th́ nhờ có người bày biểu, Mà truyền để cho tới đời sau. Bởi đó nước Ta đă đặng nhiều cách thế mà thạnh. V́ có người làm Thầy có tài sức lắm. Năm Kỷ V́, Người đă theo việc binh mà tới thành phủ Qui Nhơn. Sang tới ngày mười một tháng chín, Th́ người đă tạ thế tại đó, là nơi bên cửa Thị Nại. Khi ấy nguời đă đặng 57 tuổi. Qua mạnh dông (tháng mười một), Th́ đặng sắc phong làm Thái Tử, Thái Phó Quận Công. Đă chọn chôn xác người tại phía bắc thành Gia Định. Vậy nơi xây đắp nầy là chốn nghỉ, Cho đấng Thầy nhà nước đă mạng cố. Nầy thật là dấu tích muôn đời. Năm Canh Thân (1800) Trọng thu, tháng tám, ngày lành, đă dựng bia. Sắc tặng, cũng chữ nhu làm ra chữ quốc ngữ, cũng của Đức vua Gia Long. Có sắc rằng: Người hiền ngơ tôi đă quen biết xưa, Chẳng nại đàng xa ngàn dặm mà tới, Đang hội giao rất tốt, Mà sao lại nỡ một buổi mà mất đi! Tưởng đến đức cũ, Nên rơ ra ơn nước Phalangsa phong chức: Riêng Sai Thông Lịnh Sửa Sang Theo Ư Minh, Tàu Chiến Thủy Bộ Binh Giúp, Là Giám Mục Vêrô, Là Thầy cả lớn quờn bên đất Tây, Là khách nhứt hạng trong nước Việt Nam . Ngày mới khởi cầm quờn, đă may gặp bạn rất lành. Tin tưởng nhau lúc ban đầu c̣n u ám. Ta đă kề tiếp đức âm người mà hỏi han, Th́ thật rất nhờ lắm. Trong cơn nhà nước mắc nhiều hoạn nạn, Trẫm khi ấy cực khổ trèo non vượt núi, Cũng như đời nhà Hạ, vua Thiếu Khương. Vậy đă khiến trở trời biển hai đàng, Ông của Trẫm tin nghe theo, khác nào chức A Bảo, Của Thái tử đời nhà Hán. Tuy lời qua lại tỏ đă yên với nước tổ phụ, Lấy binh đến giúp. Nửa chừng việc với ḷng trái nhau. Song người đồng cừu, th́ tính làm theo việc người: Thà v́ ngăi mà trọn với nhau.. Đều tựu hội lo mưu theo dịp dấy loạn ấy. Năm Mậu Thân, Trở về nước cũ ḿnh th́ rất trông tiếng tốt. Năm Canh Tuất, th́ cỡi thuyền lại chốn Đông Pḥ. Khi ấy càng hậu lời giao ước hơn. Thật rất phải đạo thầy dạy nuôi trẻ thơ ấu. Thường ngày tiếp rước, hằng bày ra mưu lạ, Mà yên trong cơn loạn rối. Việc đạo đức, trong lời nói, tiếng cười, Và ngăi nhơn đă hiệp nhau, như trâm với tóc vậy. Việc kinh luân ngoài phong trần, T́nh rất tin nhau như liền dây cương, Trước sau một ḷng ngay thật, không hai. Sinh ra mà gặp điều lạ th́ đồng vui. Những trông hẹn, trải qua năm tuổi tác lâu dài, Mà vui vầy cùng nhau. Ai dè bụi tro lại lấp chôn cây ngọc! Ta thầm tới đó mà tặng phong Làm chức Thái Phó, Tước Pinho Quận Công. Lại thêm tặng hàm ân rằng: Ngay Thật, Tốt Lành. Cho đặng tỏ mùi thơm đức lớn kẻ đă khuất đời. Và ngơ nên công nghiệp cả kẻ khách lành. Hỡi ôi! Cái sao khách đêm sa! Đi chốn thiên đàng khôn cầm lại, Một chữ tặng khen th́ rất lịch sự, Như là mặc áo cẩm bào cho vậy. Bởi t́nh Trẫm chẳng nguôi, Hỡi ông thiêng liêng! Đă gội nhuần Ta ơn sáng.
Nay Sắc phong. Chôn cất xong việc Đức Thầy, Xây lăng, đắp mả, để rày hậu lai. Cây gỗ trọng, tạo lâu dài, Rơ ràng con thấy, ngày nay vững vàng. Bia bài dựng để giữa lăng, Tạc đề chữ thắm, chữ vàng, sắc phong. Bá Đa Lộc trọng hết ḷng, Ấy là tên bụt, tặng khong khen người, Lưu danh thiên cổ để đời; Chức thời Thái phó, chức thời Quận công. Tặng đà gần bực ngôi rồng, Bởi vua thương mến, bởi công nghiệp đầy. Quân sư hồn ở thiên đài, Vua ban trọng kính là Thầy Nam phương. Vua ngự bút, tiếng phi thường, Biết ơn, cám nghĩa, khó lường, khó biên. Năm mươi quân cấp thường xuyên, Giữ lăng xem sóc, cần chuyên trau giồi. Ngày sau Minh mạng lên ngôi, Mười ba năm mới băi thôi giữ rày. Đức vua c̣n nhớ Đức Thầy, Kế Tây Sơn đă chuyến nầy làm hung, Hùng binh trăm vạn kéo cùng, Đánh đồn, phá lũy, đùng đùng oai danh. Ngụy vây B́nh Định hăm thành, Tờ tin phi báo chẳng lành khốn thay! Đức vua thủy bộ cự ngay. Súng hai bên bắn, chết nay muôn ngàn. Binh vua mười vạn tai nàn mà ghê. Vua quan bàn tính trăm bề, Bỏ thành B́nh Định, chỉ đề Huế kinh. Tới nơi xuất trận lôi đ́nh, Đánh Tây Sơn riết, muôn binh trốn đầy. Tai nghe binh ó vang dầy, Trống chiêng đánh giục, phủ vây bịt bùng. Thổi kèn, cờ phất đă cùng, Xông vào bắn vải khắp xung quanh thành. Tây Sơn khó nỗi đấu tranh, Bởi v́ binh mỏng thất thanh chạy dài. Vua Cảnh Thịnh trốn bỏ ngai, Nguyễn Ánh vào Huế, mừng nay không cùng. Ngụy vây B́nh Định tứ tung, Thương ôi! Vơ Tánh bị trùng vô phương. Ăn voi, ăn ngựa, hết lương, Mặc đồ triều phục, toan đương hại ḿnh. Cả kêu tướng ngụy tỏ t́nh, Xin đừng có giết, hành h́nh quan binh. 1620 Dặn ḍ bá tánh chư dinh, Lên giàn chịu cháy; ngụy binh dăng thành. Vua nghe, thương tiếc hùng anh, Hai năm cầm cự, nay đành liều thân. Khóc than, thương nhớ muôn phần, Đạo làm thần tử ưu quân nỗi nầy! Trung thần măn số chịu vây, Xương tàn, cốt rụi, lửa vầy đốt ngay. Ngụy quan lấy lại thành nầy, Ở trong Gia Định ngày nay bất tường. Đông Cung Cảnh trấn Nam phương. Người rày lên trái, bỏ đường kế vương. Nhiều khi Hoàng tử toan đương, Lúc c̣n mạnh mẽ, lo lường không an, Tỏ cùng Giám mục nhiều đàng, 1635 Ḷng buồn việc đạo mở mang chưa thành. Ước trông sau sẽ ban hành, Ước trông sau đặng ơn lành kế ngôi: Ước trông sau hết dân tôi Trở về đạo Chúa, hỡi ôi! Việc nầy. Từ khi ở cách Đức Thầy, Th́ theo xác thịt, tỏ bày vui say. Ngày nay lâm phải bịnh nầy, Mới lo nhớ Chúa, ḷng rày chẳng khuây. Ăn năn tội lỗi bấy chầy, Cậy ông quan nhỏ rửa nay tội liền. Hai mươi hai tuổi bỏ quyền. Cha Nghi, người cũng qui thiên năm nầy. Cha nầy công cả ai tày, Cứu hồi vua khổ, giúp ngày ngụy vây. Vua thương, vua khóc dẫy đầy, Vua phiền nhiều nỗi, trông ngày thới lai. Khi vua lấy Huế lại đây, Hai em Cảnh Thịnh bị nay bắt liền. Pḥ mă Trị khó thăng thiên, Cũng đều bị bắt; vua truyền lịnh ra, Đem vô B́nh Định cả ba, Ngụy quan xem thấy, hăi mà hồn kinh. Đức vua rao khắp quan binh, Tây Nam vây phủ, chớ đ́nh huởn ra. Ngụy quan khi ấy bôn ba, Bỏ thành B́nh Định lén mà trốn đi. Bấy lâu cực khổ xiết chi, Đánh đà nhiều trận, nay th́ mới xong. Sớ tâu về trướoc bệ rồng, Vua hay mừng rỡ ngoài trong cơ đồ. Ngụy vương nay đă đơn cô, Chạy ra tỉnh Bắc, cải hô hiệu rày. Bửu Hưng đặt lấy điềm may, Lại sai quan sứ tâu bày vua Thanh. Xin binh cứu giúp đấu tranh; Vua Tàu không chịu, bất thành, bất thanh. Vua nay tu bổ hoàn thành, Đ́nh thần dưng sớ biển danh nước nhà. Xin tức vị, hoàng đế ṭa, Gia long đặt hiệu, chánh mà ngôi cao. Bấy lâu văn vơ ước ao, Nay mừng chúc thọ, tống trao, nội trào, Ra ân xá, khắp hết bao, Thưởng quan, tha thuế, lịnh rao rành rành. Nguyễn vương nay mới ngự hành, Trăm muôn binh sĩ kéo quanh các thành. Đánh Bửu Hưng với các danh tướng cùng. Giết hết ráo, tuyệt giặc hung, Kho tàng của cải về chưng vua rày. Bạc, vàng, voi, súng vào tay, Giặc nầy quét sạch ngày nay làu làu. Đánh ngàn trận, chẳng phải mau; An Nam mà giết với nhau làm vầy! Bốn mươi năm đă gần đầy Nay qui nhứt thống về rày Nguyễn gia. Bốn phương thâu lại một nhà, Thanh b́nh nền đế trọn mà gần xa. Phước nên khắp hết sơn hà, Từ Nam chí Bắc nước nhà rộng thay. Nước Nam từ có đến nay, Một ḿnh vua đặng gồm rày nhứt phương. Công vua cao trọng ai bường: Lao đao, cực khổ thảm thương trăm đàng. Lúc c̣n nhỏ, chịu cơ hàng, Trèo non, vượt biển, gian nan muôn ngàn. Lớn lên, văn vơ lưỡng toan, Cầm binh, tuyển tướng, ai đang, ai b́! Các quan tây, khen thiếu ǵ, 1705 Siêng năng, khôn khéo, bá công, Xứng v́ vương đế, ngai rồng đáng ngôi. Ngày nay cực khổ qua rồi; Lọng tàn che phủ, trống hồi nhạc rung. Kỉnh thiên vua ngự chánh cung, Thăng Long, Hà Nội, thùng thùng tiếng tung. Bá quan triều hạ khắp cùng, Lớp về bái mạng triều trung đă đầy. Cẩm trướng giăng, cửa ngọc vầy, Kim lầu vua ngự, sắp bày nghiêm trang. Nguyễn vương phán chỉ chiếu vàng, Tống ra lời dụ, cho an, cho b́nh. Kẻ làm giặc tới hạ ḿnh, Trở về đầu thú; xuống t́nh thứ tha. Ḍng Lê, ḍng Trịnh, hai nhà, Vưng đam khí giái hàng mà Nguyễn gia. Thưởng quan, thưởng tướng gần xa, Bạc, vàng, gấm, nhiễu, phát mà nơi nơi. Cố hương cho lính phản hồi, 1725 Lớp thời ban thưởng, cho thời thảnh thơi. Tiệc bày vui đă trong đời. Giải lao tướng sĩ, ban lời khen vang. Thuế tha, ân xá nhiều đàng, Đặt quan các tỉnh, sửa sang trong ngoài. Luật ra nhiều khoản an bài, Ngự về kinh Huế, hưởng ngai ngôi rồng. Bốn phương nam, bắc, tây, đông, Sĩ, nông, công, cổ, đều đồng chúc vinh. Đại Nam Việt quốc thinh thinh, Nguyễn gia ngự vị, thái b́nh muôn năm.
VỀ VIỆC DỰNG H̀NH ĐỨC THẦY VÊRÔ Giáng sanh ngàn chín hai năm, Tháng Mars, mồng chín, đương nhằm mùa xuân. Vang danh Đại pháp lẫy lừng, PINHO h́nh dựng áp chưng ngày nầy. Năm giờ chiều, thiên hạ đầy, Vào trong nhà thánh, chầu nay phép lành, Cám ơn Chúa cả sanh thành, Đánh chuông, đánh nhạc, rao danh chói ḷa. Sáng ra chuông đánh nghe xa, Nhơn dân các sắc tựu mà ngóng trông. Trước nhà thờ, thiệt nên đông, Hầu mừng h́nh tượng Đức Ông đă đầy. Cờ treo, tiếng nhạc vang dầy, Chưng ra hực hở, đủ đầy nghiêm trang. Bảy giờ chuông đánh đă vang, Hai ṭa Giám mục ngồi ngang trước h́nh. Đức Cha Măo, Giám mục ḿnh, Cùng Đức Cha Huế, chứng minh việc nầy. Các bề trên, các cha tây, Cùng cha bổn quốc chầu vây khắp cùng. Thầy ḍng, nhà phước, tứ tung, Trùm, câu, các họ đứng xung quanh đường. Dựng cờ đề hiệu, phô trương, Họ nào các chức, áo trường mắc nay. Học tṛ sắp liển dầy dầy, Các quan bổn quốc tới rày hầu coi. Chuông lầu mới đánh dứt hồi, Thời quan Tổng Thống tới nơi đă rồi, Nam Kỳ Nguyên Soái chánh ngôi, Cùng quan Soái thủy, vô hồi nghiêm trang. Quan văn, quan vơ, hàng hàng, Chư chư, vị vị, rất sang phẩm quyền. Đức Cha địa phận đứng liền, Người bèn làm phép giữa thiên hạ rày. Cờ tam sắc, bao h́nh nầy, Tức th́ liền mở ra nay vội vàng. PINHO Giám mục rơ ràng, Tay cầm điều ước, lo đàng viện binh. Bốn bên thiên hạ thấy h́nh, Đứng trên đá gấm, hết t́nh là sang; Cổ mang tượng ảnh rơ ràng, Xưng ra đạo thánh vững vàng ḷng son; Thiên niên vặc vặc vuông tṛn, Trước nơi đền thánh Sài G̣n rất vinh. Lại h́nh con trẻ với ḿnh, Là Đông Cung Cảnh tay ǵn dắc đi. Động ḷng thiên hạ một khi, Bá quan đứng dậy đều th́ thào liên, Kế đây nhạc dứt, rao truyền tích ra. Hai quan bổn quốc của ta, Cũng đều hiệp sự, giải mà tiếng ra. Quan Nguyên Soái cùng Đức Cha, Lại ông đầu hội cùng là xă tây. Giao h́nh nầy, thành phố đây, Th́ quan Đốc lư vui vầy lănh ngay. Bốn v́ kể truyện tỏ bày, Thỉ chung từ đoạn, mối dây ra dài: Kể quê, kể quán an bài; Kể hồi đi học, đức, tài, bên tây; Kể hồi chịu chức làm thầy, Lănh quờn Giám mục xứ nầy, đoạn kia; Giảng rao đạo chánh, chẳng ĺa; Gặp đời Nguyễn chúa bị chia nước nhà. Tây Sơn huynh đệ cả ba, Đoạt quờn, cướp nước, thiệt là chí tai. Gia Long thất quốc chạy dài, Biển kia, núi nọ, trốn hoài gần xa. May đâu gặp đặng Đức Cha, Dưỡng nuôi cứu giúp lo mà viện binh. Công lao cực khổ lộ tŕnh, Kể ra từ đoạn, đinh ninh hết t́nh. Cứu vua cho đặng thái b́nh, Nên vua trọng thưởng, tỏ ḿnh biết ơn. Lập lăng, ban chức, phong quờn, Ngày nay h́nh dựng, nguồn cơn để bày. Đức Cha địa phận công dày, Hiệp cùng Đại pháp, lập nay đă thành. Bách tuần lễ trọng hiển danh, Vêrô Giám mục, sử xanh chép rành. Đă nên nhơn tử lưu danh, Lưu danh nhơn tử giữa thành Nam thiên. Khi xưa Cha ở các miền, Tay d́u, tay dắc, đoàn chiên ai b́! Khắp trong lục tỉnh Nam Kỳ, Một ḷng pḥ tá theo th́ Nguyễn gia. Chết đà vô số hằng hà, Nam trung thần tử chịu mà thiết tha! Mỹ Tho, Gia Định, Biên Ḥa, Vĩnh Long, Châu Đốc cùng là Hà Tiên, Gian nan khốn cực uyên thiên, Th́ là địa phận bầy chiên của người. Ngày nay Cha ở cơi trời, Chầu gần Chúa cả nguyện lời cho con. Đời nầy là chốn thon von, Xác hồn bị giặc, đương c̣n nạn tai. Con người ai cũng như ai, Lọt ra ḷng mẹ, nằm dài tu oa. Biết ḿnh cực khổ tới già, Khóc than ngao ngán, thiệt là hiểm nguy. Xin thương địa phận Nam Kỳ, Cầu cho càng thạnh, thảy th́ bằng an. Xin cho chiên Chúa vầy đoàn, Giữ nên đạo thánh vững vàng đức tin. Xin cho hồn xác an b́nh, Thảy đều hầu Chúa hiển vinh đời đời. Chung
|