Lược
sử Giáo xứ Nam Lỗ
Đôi Ḍng Lịch Sử về GX Nam
Lỗ
KỶ NIỆM BÁCH
CHU NIÊN THÀNH LẬP GIÁO XỨ NAM LỖ 1908 – 2008
Nhà Thờ GX
Nam Lỗ
Giáo xứ Nam Lỗ gồm 13 ngôi
nhà thờ lớn nhỏ, nằm trên phần đất của 6 xă thuộc huyện Đông Hưng và
1 xă thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái B́nh.
Nhà thờ chính của giáo xứ
tọa lạc giữa một làng dân cư nhỏ bé, yên tĩnh trên một cánh đồng lúa
mênh mông. Khúc sông Tiên Hưng uốn ḿnh bao bọc lấy ngôi làng thân
thương này. Đây là ngôi nhà thờ mẹ, nơi quy tụ của cộng đoàn giáo xứ
và được gọi với cái tên thật dễ thương: Nam Lỗ.
Nhà thờ Nam Lỗ cách TP Thái
B́nh khoảng 20 Km về phía Bắc; trên quốc lộ 39A đường Thái B́nh đi
Hưng Yên, từ cột mốc Km70 đi vào chừng 5 cây số.
I - MẤY
D̉NG LƯỢC SỬ
Nhà thờ Nam Lỗ tọa lạc trên
phần đất của trại Đồng My hay c̣n gọi là Đồng Mư, thuộc làng Sổ,
tổng Cao Mỗ, huyện Thần Khê, tỉnh Thái B́nh. V́ thế, người ta thường
gọi xứ Nam Lỗ là xứ Sổ và Nhà thờ xứ Nam Lỗ là Nhà thờ Đồng My hay
Đồng Mư.
Năm 1722, họ giáo trại Đồng
Mư, Làng Sổ được thành lập, với tên gọi Họ giáo Sổ, thuộc về xứ Sa
Cát. Sau 186 năm thăng trầm, họ giáo Sổ đă được nâng lên hàng Giáo
xứ và cùng với các họ lân cận thành một giáo xứ mới. Các Đấng Bản
quyền đă đặt tên xứ mới này là xứ Nam Lỗ.
Theo tài liệu nghiên cứu
của Cha Giuse Nguyễn Thanh Liêm th́: Nam Lỗ là tên rất đặc biệt mà
Đức Cha Pierre Munagorri Y Obenita, tên Việt Nam của Ngài là Trung (Đức
Cha Pierre Munagorri Y Obenita Trung, gốc Người Tây Ban Nha), cai
quản Giáo Phận Bùi Chu từ Nam 1907 đến 1936 đă chọn. (Chú thích: Nam
1908, lúc bấy giờ Giáo Xứ Nam Lỗ c̣n đang trực thuộc vào Giáo Phận
Bùi Chu. Ngày 09 Tháng 3 Năm 1936, Giáo Phận Thái B́nh mới được
thành lập và tách rời khỏi Giáo Phận Bùi Chu. Đức Cha Casado Thuận
là Giám Mục tiên khởi của Thái B́nh).
Cha Pierre Munagorri Y
Obenita, khi c̣n là Linh Mục và c̣n trẻ được Nhà Ḍng gửi sang Á
Châu truyền giáo, trên đường từ Tây Ban Nha đi đến Việt Nam, Cha
Pierre Munagorri Y Obenita đă có dịp đến Nước Tàu (tức Trung Quốc
ngày nay) vài tháng. Sau đó đến Việt Nam để thực thi sứ mạng truyền
giáo và làm việc mục vụ, Ngài đă lấy tên Việt Nam là Trung.
Năm 1907, Cha Pierre
Munagorri Y Obenita Trung được Toà Thánh đề cử lên làm Gám Mục và
đặt Ngài cai quản Giáo Phận Bùi Chu (kế vị Đức Cha Maxime Fernandez
Định, 1987-1907). Đức Cha Trung duyệt xét lại phần địa dư và phạm vi
mục vụ của toàn Giáo Phận th́ thấy Sa Cát là một giáo xứ lớn, và có
quá nhiều giáo họ lẻ, trong đó có giáo họ lẻ tại Làng Sổ nằm trên
mảnh đất Đồng My có đông giáo dân hơn cả và nhiều họ lẻ nhỏ khác
chung quanh - Ngài đă quyết định tách biệt Giáo Họ Sổ và những họ lẻ
ấy ra thành một Giáo Xứ mới l?y tên là Nam L?.
Đức Cha Trung đích thân đến
viếng thăm và nghiên cứu về giáo họ lẻ Làng Sổ và các họ lẻ lân cận
này trong 3 ngày. Thời bấy giờ, không có xe ô tô, Đức Cha và Phái
Đoàn Pḥng Bộ phải đi xa cả ngày đường từ Bi Chu và đến Làng Sổ th́
trời vừa tối. Ngài lưu lại đó 1 ngày và 2 đêm. (Chuyến đi trong 3
ngày, gồm 1 ngày đi, rồi ở lại Làng Sổ 2 đêm và 1 ngày, và 1 ngày đi
bộ trở về Bùi Chu). Qua 2 đêm, sau các bữa cơm tối, Ngài đi dạo ṿng
quanh bên ngoài để cầu nguyện. Đức Cha Trung chiêm ngắm bầu trời đẹp
với muôn ngàn tinh tú, trăng sao, nhất là nh́n lên Chùm Sao Bắc Đẩu,
rồi Ngài nhớ lại lịch sử truyền giáo của Nước Tàu, trong đó có phần
đất của Nước Lỗ (cũ) mà Cha Mettéo Ricci, Ḍng Tên, xưa kia đă đặt
chân đến truyền giáo rất thành công.
Đứng bên bờ sông Tiên Hưng,
nơi mảnh đất của làng Kinh Môn (Cửa Đền Vua Nước Trời), hướng lên
Chùm Sao Bắc Đẩu -Ngài nh́n về phía Bắc là Nước Lỗ, Ngài cũng nh́n
về Làng Sổ có phần đất Đồng My đang nằm ở phía Nam, nên trong ư định
của Ngài - Ngài đă quyết định đặt tên Giáo Xứ mới này là GIÁO XỨ NAM
LỖ (tức là phía Nam của Nước Lỗ). Như vậy, chúng ta đă có tên lịch
sử của Giáo Xứ Nam Lỗ là phần đất truyền giáo mới, phía Nam của Nước
Lỗ. (Theo Lm. Joseph Nguyễn Thanh Liêm, chuyển ngữ sang Tiếng Việt
từ Sách “Histoire du Vietnam” của Delliviers, Un mandarin catholique
de 32ans, Trang 263, Quyển IV, reputé pour sa parfaile intégrité, sa
compétence et son intelligence, Số kiểm duyệt: 0.00.599708.9. Giấy
phép xuất bản số: 0.225.66350.3, Tái xuất bản tại Rome, 25-3-1945,
Sách đang được lưu giữ trong Thư Viện Madrid Libreria –Spain).
Năm 1955, do sự phân chia
lại địa lư hành chính, trại Đồng My và trại Đồng Cừ tách khỏi Làng
Sổ (Xă Chương Dương) và sát nhập vào Xă Hợp Tiến (Làng Ngói). Đồng
My ngày nay là Thôn Ai Quốc, Xă Hợp Tiến, Huyện Đông Hưng, Tỉnh Thái
B́nh.
Đại Lễ Kỷ
Niệm 100 năm
II - HẠT
GIỐNG TIN MỪNG
Hạt giống Tin Mừng đă được
gieo vào mảnh đất này khá sớm. Theo sử liệu, năm 1722 nơi đây đă
thành một họ đạo, Họ Sổ thuộc xứ Sa Cát. Rồi Tin Mừng lan tỏa theo
thời gian, các họ đạo xung quanh dần dần được h́nh thành.
Năm 1908, cùng với sự
trưởng thành của các giáo họ chung quanh th́ Giáo Họ Sổ là lớn nhất
và đă đủ để bước lên hàng giáo xứ. Đức Cha Trung đă tách 17 họ lẻ
khỏi Giáo Xứ Sa Cát và thành lập nên Giáo Xứ Nam Lỗ, đồng thời đặt
Cha Phêrô Trứ làm Cha Xứ tiên khởi.
Theo sử kư Địa phận Trung
xuất bản năm 1916 (gồm Bùi Chu và Thái B́nh ngày nay) th́ giáo xứ
Nam Lỗ có 17 họ lẻ: 10 họ bổn đạo gốc và 7 họ bổn đạo mới, với tổng
số 1197 giáo dân.
Sau đây là đoạn trích
nguyên văn về giáo xứ Nam Lỗ năm 1916:
XỨ NAM LỖ
Xứ này trước thuộc về xứ Sa
Cát, Đức Cha Trung mới biệt ra từ năm 1908.
Thầy cả coi sóc xứ th́ trước có cụ Trứ, rồi đến cụ Thiêm đang coi
sóc bây giờ.
Xứ này gồm lại 10 họ Bổn đạo gốc và 7 họ Bổn đạo mới, các họ ấy về
13 xă.
Các họ về xứ này:
Tên họ Quan thầy Nhân danh
Nam Lỗ Đức bà Rosa 521
Duyên Tục Ông thánh Augustin 186
Kinh Môn Ông thánh Phêrô 135
An Lạc Làng Đức Bà lên 3 tuổi 235
Lũ Đăng Đức Bà chuộc kẻ làm tôi 81
Cổ Khúc Đức Bà Bảy Sự 115
Duyên Trang Ông thánh Phanxicô 120
An Lạc Trại Ông thánh Vincentê 154
Cổ Cốc Ông thánh Tômasô 61
Họ Phạm Ông thánh Gioachim 38
Sổ Làng Bổn đạo mới 54
Thổ Khối Bổn đạo mới 30
An Thái Bổn đạo mới 33
Phú Điền Bổn đạo mới 10
Lộ Xá Bổn đạo mới 08
Hoàng Nông Bổn đạo mới 08
Kim Ngọc Bổn đạo mới 11
Cộng 1197
Các ông ḍng bà ḍng về xứ
này được 84 người.
Năm 1929, Đức cha Trung đă
nâng họ Duyên Tục lên hàng Giáo xứ, và cắt họ Duyên Trang về xứ mới
này.
Năm 1930, họ giáo Y Đún được thành lập, và nhân thánh Têrêsa Hài
Đồng Jêsu làm bổn mạng.
Năm 1948, Đền Đức Mẹ Fatima được xây dựng tại Khu Sốc thuộc họ Nhà
xứ.
Biến cố năm 1954, một phần
lớn giáo dân của xứ di cư vào miền Nam. Số giáo dân c̣n lại thưa
thớt, lại gặp những năm tháng chiến tranh và khó khăn, một vài họ bị
xóa sổ.
Sau năm 1975, một số giáo
dân v́ kế sinh nhai, lại tiếp tục vào các tỉnh phía Nam để sinh sống,
giáo xứ lại bớt đi một số người.
Năm 1978, ngôi nhà thờ họ
Kinh Môn bị tháo dỡ. Nay chỉ c̣n một khu đất nền nhà thờ trước đây
làm vết tích. Số diện tích xung quanh nhà thờ của họ giáo này đă bị
san ủi thành ruộng cấy.
III -
CÁC LINH MỤC COI SÓC GIÁO XỨ
Từ ngày thành lập giáo xứ,
Nam lỗ luôn được các cha trông coi phục vụ. Khi th́ trực tiếp, lúc
th́ gián tiếp. Bao ân t́nh sâu nặng, bao kỷ niệm êm đềm, bao thành
quả vật chất và tinh thần mà các Ngài để lại.
Hôm nay nh́n lại, từ ngày
ấy,100 năm qua đă có 12 linh mục coi sóc xứ này:
1. Từ năm 1908 đến 1914:
cha Phêrô Trứ, cha xứ tiên khởi. Người xây dựng ngôi thánh đường
giáo xứ.
2. Từ năm 1915 đến 1928:
cha Phêrô Thiêm coi sóc.
3. Từ năm 1929 đến 1935:
cha Thôma Vũ Nguyên Sùng.
4. Từ năm 1936 đến 1945:
cha già Giuse Khuông coi sóc.
5. Từ 10-1945 đến 8-1954:
cha Giuse Phạm Hữu Đoàn coi sóc.
Sau khi cha Đoàn vào Nam,
giáo xứ trống vắng. Đức cố giám mục Đaminh Đinh Đức Trụ bấy giờ là
Giám quản giáo phận, gián tiếp trông coi giáo xứ, với sự cộng tác
của cha già Sùng. Từ đây giáo xứ không c̣n cha xứ trực tiếp trông
nom.
6. Từ 11-1955 đến 10-1960:
cha Vinhsơn Nguyễn Khắc Hiếu, cha xứ An Lập, phụ trách.
7. Từ 11-1960 đến 5-1973:
cha Gioachim Trần Trọng Uyên từ chủng viện Mỹ Đức, phụ trách.
8. Từ 5-1973 đến 5-1978:
cha Gioan B. Phạm Ngọc Châu cũng từ Mỹ Đức, phụ trách.
9. Từ 5-1978 đến 4-1996:
cha chính Giuse Bùi Văn Cẩm từ Mỹ Đức, phụ trách.
10. Từ 4-1996 đến 6-2001:
cha Giuse Trần Đức Hạnh chánh xứ Thuần túy, phụ trách.
11. Từ 6-2001 đến 7-2002:
cha Phêrô Nguyễn Kiêm Toàn, chánh xứ An Lập, phụ trách.
12. Ngày 12-7-2002, cha
Đaminh Nguyễn Văn Quát, cha xứ đương nhiệm đă về phục vụ giáo xứ.
Chấm dứt khoảng thời gian 48 năm trống vắng, không có cha xứ trực
tiếp ở với giáo xứ.
Như vậy, 100 năm từ ngày
lập xứ, th́ một nửa thời gian không có cha xứ trực tiếp ở giáo xứ.
Đó lại là một thời kỳ có nhiều khó khăn phức tạp. Nên giáo xứ chịu
nhiều thiệt tḥi mất mát.
IV -
NHỮNG TRANG SỬ HÀO HÙNG
Trải qua bao thăng trầm của
lịch sử, những người con của Nam Lỗ vẫn giữ được hào khí của cha ông.
Quả vậy, ngay sau khi đón
nhận hạt giống Tin mừng, các bậc tiền nhân của cộng đoàn này đă làm
trổ sinh hoa trái. Các cộng đoàn phát triển. Các nhà giáo, nhà
nguyện, nhà thờ lần lượt mọc lên. Đời sống Đức Tin vững mạnh. Nơi
đây cũng là quê hương của biết bao anh hùng tử đạo, những người đă
đổ máu đào, hiến dâng mạng sống v́ Đức Tin. Bẩy phần mộ của các ngài
ở họ Khuốc, 13 bộ hài cốt có kèm thẻ ở họ Tăng là những bằng chứng.
Riêng tại phần đất khu vực thánh đường Nam Lỗ c̣n có hài cốt của một
số vị tử đạo có danh tánh mà hồ sơ của các Ngài hiện đang được lưu
giữ tại Bộ Phong Thánh ở Rôma chờ ngày cứu xét để phong Chân Phước.
Theo tra cứu của Cha cố Sơn
th́:
Trong số 1264 hồ sơ các vị
Tử đạo Việt nam tại Bộ Phong Thánh Rôma sẽ được cứu xét, có 5 vị
sinh quán tại giáo xứ Nam Lỗ, giáo phận Thái B́nh, miền Bắc Việt
Nam:
1. Ông Vincentê Quỳnh 70
tuổi, người cha có 2 con tử đạo. (hồ sơ số 834)
2. Ông Phêrô Quân, con cả ông Quỳnh (hồ sơ số 800)
3. Ông Đaminh Đệ, con thứ. (hồ sơ số 252)
4. Thầy Đaminh Chiêu, Thầy giảng. (hồ sơ số 176)
5. Ông Phêrô Đán 50 tuổi,
có gia đ́nh (hồ sơ số 219)
Tất cả các vị đă có đầy đủ
hồ sơ cần thiết, xin sốt sắng cầu cho các Ngài chóng được phong lên
chân phước (Á thánh). (Trích thư của Cha quư hương, cố Lm. Polycarpo
Trần Thái Sơn, CMC)
Đó mới chỉ là 5 vị trong số
14 Hiền phúc Tử Đạo của Nam Lỗ đă được công nhận là chết v́ Đạo và
đang thỉnh cầu phong Chân phước. Theo cuốn VƯỜN VẠN TUẾ THÁI B̀NH (
tủ sách Họ Hoàng Bồ Ngọc xuất bản năm 2006), Nam Lỗ có các vị Tử đạo
sau đây:
1 - Hiền phúc Linh Mục Vinh
Sơn TRÍ, họ Nhà Xứ.
2 - Hiền phúc Thầy giảng Đaminh CHIÊU, họ Nhà Xứ
3 - Hiền phúc Vinh Sơn QUỲNH, họ Nhà Xứ,
4 - Hiền phúc Đaminh ĐỆ, họ Nhà Xứ,
5 - Hiền phúc Phêrô QUÂN, họ Nhà Xứ,
6 - Hiền phúc Phêrô ĐÁN, họ Nhà Xứ,
7 - Hiền phúc Phêrô THỊNH, họ Tăng.
8 - Hiền phúc Phêrô MÂY, họ Tăng.
9 - Hiền phúc Đaminh DI, họ Tăng.
10 - Hiền phúc Đa minh NGHIÊM, họ Tăng.
11 - Hiền phúc Đaminh HUỆ, họ Tăng.
12.- Hiền phúc Đaminh PHƯƠNG, họ Tăng.
13 - Hiền phúc Đaminh KHANG, họ Khuốc
14 - Hiền phúc Đaminh HIẾN, họ Cốc
Rước GX Nam
Lỗ
Thừa hưởng gia tài Đức tin
của tiền nhân, những người con Nam Lỗ các thế hệ luôn phát huy
truyền thống hào hùng của cha ông. Quả vậy, ngay sau khi đạo được
b́nh an, với số giáo dân không nhiều, phương tiện thô sơ, mọi sự tự
lực, thế mà các nhà thờ lớn nhỏ được mọc lên. Trước nhỏ rồi sau to.
Trước đơn sơ rạ lá, rồi sau cột gỗ tường xây, cứ thế tiến lên.
Kể từ ngày lập xứ (1908)
với số giáo dân toàn xứ có hơn một ngh́n người, thế mà các nhà thờ
mới trong xứ liên tiếp được xây dựng:
Năm 1911, họ nhà xứ với số
giáo dân chưa được 500 người đă hoàn thành ngôi thánh đường to đẹp
và vững chắc mà chúng ta đang thừa hưởng đây.
Cùng năm ấy, họ Cốc với số
dân khoảng 50 người cũng đă khánh thành ngôi nhà thờ mà nay vẫn c̣n
giữ được một phần di sản quư giá đó.
Năm 1912, họ Khuốc với
khoảng 100 nhân danh cũng xây dựng ngôi nhà thờ và năm 1932 được tái
thiết. Nhà thờ này đă bị hoả hoạn thiêu rụi năm 1960, duy ngọn tháp
đến hôm nay vẫn c̣n đang vươn thẳng.
Năm 1914, họ Phạm với hơn
30 nhân danh cũng đă xây dựng ngôi thánh đường mà ngày nay vẫn c̣n
chắc chắn.
Cùng năm đó, họ Sổ Làng với
khoảng 50 nhân danh cũng xây dựng nhà thờ, và nay c̣n giữ lại một
phần các v́ kèo gỗ khi xây dựng lại ngôi thánh đường mới năm 1998.
Năm 1916, với 232 nhân danh,
họ đàn anh Lác Làng xây dựng ngôi nhà thờ gỗ kiên cố chẳng thua kém
ǵ nhà xứ, nay vẫn c̣n vững chắc.
Họ Kinh Môn với 135 nhân
danh khi lập xứ cũng xây dựng được ngôi nhà thờ gỗ to đẹp và bị tháo
dỡ năm 1978, nay ai cũng hối tiếc.
Năm 1944 họ bổn đạo mới An
Thái xây dựng ngôi thánh đường khang trang, c̣n tới ngày nay.
Năm 1948 họ nhà xứ lập Đền
Đức Mẹ tại khu Sốc.
Các họ khác cũng gắng công
xây dựng nhà thờ tùy sức của ḿnh. Tuy nhiên, v́ hoàn cảnh thời cuộc
và thời tiết các nhà thờ này đă phải tái thiết nhiều lần, một vài
nhà thờ bị xóa sổ. Đó là 3 họ Lộ Xá, Phú Điền và Kim Ngọc.
V -
TRANG SỬ MỚI
Sau biến cố năm 1954, số
giáo dân c̣n lại quá ít ỏi, thời thế không thuận lợi, thời tiết
nhiều khi khắc nghiệt, gây nhiều khó khăn cho những người con dân
trong xứ.
Tuy khó khăn nhưng những
người con Nam Lỗ tại quê hương vẫn giữ được truyền thống cha ông,
sống đạo, bảo toàn đức tin, bảo tồn những di sản tinh thần, vật chất
của tổ tiên để lại. Cho dù có một vài họ bị mất mát đất đai trong
nơi thờ tự nhưng nh́n chung vẫn giữ được tương đối vẹn toàn. Được
như vậy là nhờ sự hy sinh quên ḿnh và ḷng nhiệt thành của con dân
trong xứ.
Một điều rất đáng tự hào là
suốt 48 năm (1954 – 2002) Giáo xứ không có Cha xứ ở trực tiếp, nhưng
đời sống đức tin vẫn tốt, mọi sinh hoạt vẫn diễn tiến đều đặn. Các
nhà thờ vẫn được bảo dưỡng, tu sửa. Một vài nhà thờ nhỏ của các họ
cũng như các công tŕnh nhỏ khác vẫn được xây dựng. Những thành quả
đó nhờ sự hỗ trợ của các đấng bậc coi sóc giáo xứ, nhưng cũng là sự
hy sinh không mệt mỏi của dân xứ, nhất là trong những thời điểm khó
khăn.
Rước trong
Khuôn Viên Nhà Thờ
VI -
NAM LỖ HÔM NAY
Nh́n lại 100 năm từ khi lập
xứ th́ 46 năm Nam Lỗ có Cha xứ ở trực tiếp (1908 - 1954). Tiếp đó là
48 năm nhà xứ trống vắng (1954 – 2002), và sáu năm trở lại đây, nhờ
ơn Chúa lại có cha xứ.
Sáu năm qua, giáo xứ được
phục sức nhanh chóng. Mọi người cố gắng, bà con đồng hương, anh em
xa gần giúp đỡ nên bộ mặt giáo xứ đă có được như ngày hôm nay. Tuy
vậy, kết quả vẫn c̣n quá khiêm tốn và công việc phải làm c̣n rất
nhiều, từ nhà xứ đến các họ.
Hiện tại Nam Lỗ có 1377
nhân danh, 13 nóc nhà thờ, gồm họ nhà xứ, 11 họ lẻ và Đền Đức Mẹ
thuộc nhà xứ. Con số thực tế của các họ như sau:
TT |
Tên họ |
Quan thầy |
Nhân danh |
1 |
Nhà xứ |
Đức Bà Rosa |
590 |
2 |
Lác làng |
Đức Mẹ dâng ḿnh trong Đền
thờ |
155 |
3 |
Lác trại |
Thánh Vincentê |
154 |
4 |
An thái |
Thánh Giuse công nhân |
165 |
5 |
Khuốc |
Đức Mẹ Bảy sự |
94 |
6 |
Sổ làng |
Thánh Gioan Baotixita |
84 |
7 |
Tăng |
Đức Mẹ Vô nhiễm |
36 |
8 |
Cốc |
Thánh Thômasô tiến sỹ |
21 |
9 |
Phạm |
Thánh Gioankim |
8 |
10 |
Ngói |
Th. Phêrô Nguyễn Bá Tuần
Tử đạo |
33 |
11 |
Hoàng nông |
Thánh Giuse bầu cử (19-3) |
7 |
12 |
Y đún |
Thánh Têrêxa Hài đồng
Giêsu |
30 |
|
Tổng Cộng |
|
1377 |
Giáo xứ luôn có:
- Hội Đồng Mục Vụ giáo xứ
và Ban trùm các họ: đây là những người ṇng cốt, hy sinh phục vụ
trong các cộng đoàn. Một số phải gánh vác trách nhiệm lâu dài (v́
không có người thay thế) và đă trải qua nhiều khó khăn phức tạp.
- Hội gia trưởng với trên
100 thành viên
- Hội con Đức Mẹ cũng xấp
xỉ 100 thành viên.
- Huynh đoàn giáo dân Đa
Minh với gần 200 đoàn viên mà tiền thân là “các ông ḍng bà ḍng”.
Đây là nhóm người ṇng cốt của việc cầu nguyện trong các cộng đoàn.
- Thêm vào đó c̣n có hội
Tân ṭng, quy tụ hơn 70 anh chị em tân ṭng trong cả xứ.
- Giáo xứ vẫn duy tŕ được
đội kèn, đội trống, tuy có nhiều khó khăn về tài chánh và nhân sự.
- Giới trẻ của giáo xứ cũng
phát triển về nhiều mặt:
Việc học giáo lư vẫn duy
tŕ thường xuyên, đều đặn. Mỗi Chúa nhật trước thánh lễ ban chiều, 7
lớp học với trên 200 học sinh trong toàn xứ. Nhiều cháu ở các họ xa
phải đạp xe 7- 8 km, lại c̣n phải qua đ̣ qua sông. Rất vất vả.
Học văn hóa mỗi ngày một
nâng cao, số học sinh theo học cấp III ngày một tăng. Toàn giáo xứ
có trên 20 em vào Đại học, Cao đẳng và Trung cấp chuyên nghiệp,
trong đó một số đă thành đạt và có công ăn việc làm tốt.
Rước qua các
làng và Đồng Quê
VII -
DẤN THÂN PHỤC VỤ
Phát huy truyền thống của
tiền nhân trong đời sống đức tin, những người con Nam Lỗ dấn bước
theo Chúa lên đường phục vụ tha nhân trong đời sống tu tŕ, và luôn
có mặt trong các giai đoạn.
Chúng ta c̣n ghi lại được
nhờ sử liệu, th́ ngay buổi đầu Nam Lỗ đă có một Linh mục và một Thầy
giảng tử đạo: cha Vinh-Sơn Trí, thầy Đaminh Chiêu.
Những thế hệ kế tiếp, rất
tiếc chúng ta không có sử liệu để xác định. Nhưng gần đây Nam Lỗ đă
có một số đóng góp đáng kể cho Giáo Hội:
A. Có 10 Linh mục và 1 Phó
tế, đó là:
1. Cha Đaminh Bùi Duy Hưng,
họ Khuốc, qua đời tại trại Thanh Hoá.
2. Cha Cố Polycarpo Maria
Trần Thái Sơn (họ Nhà xứ), ḍng Đồng Công, qua đời tại hoa Kỳ ngày
20-6-2003.
3. Cha Tôma Trần Thiên Định
(Lác Làng), đang phục vụ tại Hoa Kỳ.
4. Cha Giuse Nguyễn Thanh
Liêm (An Thái), đang phục vụ tại Úc.
5. Cha Giuse Trần Duy Kim (Lác
Làng), đang phục vụ tại Hoa Kỳ.
6. Cha Vincentê Phạm Ngọc
Anh Tuấn (họ Phạm), đang phục vụ tại Giáo phận Xuân Lộc.
7. Cha Vincentê Nguyễn Xuân
Tuấn, (Nhà xứ), giáo phận Phú Cường, đang du học tại Roma.
8. Cha Giuse Nguyễn Văn
Nhật, (Kinh Môn), đang phục vụ tại Giáo phận Mỹ Tho.
9. Cha Vincentê Trần Thanh
Thoả, (quê ngoại Nam Lỗ) đang phục vụ tại giáo phận Long Xuyên.
10. Cha Đaminh Bùi Ngọc Hải,
(quê ngoại Nam Lỗ), cha xứ Vơng Phan, giáo phận Thái B́nh.
11. Phó tế Đaminh Vũ Công
Khương (Nam Lỗ), Tu viện Lời Chúa, Phú Cường.
B. Tu sĩ :
* Có các thầy:
1. Thầy FX Đặng Văn Hậu, (sổ
Làng), Ḍng Đồng Công. Qua đời năm 1974.
2. Thầy Gioan. Baotixita
Bùi Quang Tâm, (Sổ Làng), đang phục vụ tại giáo phận Mỹ Tho.
3. Thầy Đaminh Trần Ngọc
Nam, (Lác Làng), Ḍng Bệnh Viện Thánh Gioan Thiên Chúa.
4. Thầy Vincentê Trần Trung
Bảo (Lác Làng), Ḍng Ngôi Lời, Hoa Kỳ.
5. Tu Sinh Đaminh Nguyễn
Đức Trụ (Họ An Thái), đang tu học tại Úc trong Ḍng Truyền Giáo
Thánh Tâm (Missions of Sacred Heart’s Congregation).
• Các nữ tu:
1. D́ Maria Đặng Thị Kính (Sổ
Làng, em Thầy Hậu), qua đời 1953.
2. D́ Maria Trần Thị Nhường,
(Sổ Làng), Ḍng nữ Đaminh Thánh Tâm, qua đời năm 2005
3. D́ Têrêsa Trần Thị Tuyết
Trinh, (Nhà xứ), Ḍng nữ Đaminh Thánh Tâm, Hố nai
4. D́ M.Têrêsa Trần Thị
Hiền, (Nhà xứ), Ḍng nữ Đaminh Thánh Tâm, Hố nai.
5. D́ Têrêsa M.Trần Thị Hải,
(Nhà xứ), Ḍng nữ Đaminh Thánh Tâm, Hố nai.
6. D́ Cêcilia Nguyễn Thị
Thanh Thuỷ, (An Thái), Ḍng Đức Mẹ Từ Bi, (Congregation of the
Sisters of Mercy), đang phục vụ tại Africa, Phi châu.
7. D́ Mary Vũ Thuỳ Linh,
(An Thái), Ḍng Trinh Vương Việt Nam tại Úc, đang phục vụ tại
Sydney.
8. D́ Maria Phạm Thị Hiên,
(Lác trại), MTG Tân Lập, đang phục vụ tại Thái B́nh.
9. D́ Maria Đặng Thị Nụ, (Lác
làng), MTG Tân Lập, đang phục vụ tại Thái B́nh.
10. D́ Maria Phạm Thị Dung,
(Nhà xứ), MTG Tân Lập.
11. D́ Maria Nguyễn Thị Thu
Hảo, (Kinh Môn), Ḍng Chúa Quan Pḥng, Cần Thơ.
Ngoài ra c̣n một số ứng
sinh chủng viện và đê tử các ḍng tu nam nữ gốc Nam lỗ tại quê hương
cũng như hải ngoại.
Chúng ta cầu nguyện cho ơn
gọi tu tŕ của giáo xứ ngày thêm phát triển để có thêm nhiều người
con Nam Lỗ đóng góp trong cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội.
VIII -
HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI
Điều đáng quan tâm là ngày
nay hoàn cảnh cuộc sống xă hội chi phối, các thế hệ trẻ của giáo xứ
phải xa xứ nhiều. Những phức tạp đến với họ, và những khó khăn cho
người ở nhà là không nhỏ. Đời sống đạo đức nói chung bị đe dọa,
xuống cấp.
Một số nhà thờ trong giáo
xứ đă cao niên, cần phải tu sửa hoặc tái thiết. Hạ tầng cơ sở cũng
như trang thiết bị trong nhà thờ của các họ c̣n thô sơ và một số họ
kể như chưa có ǵ. Trong khi số dân quá ít ỏi lại không có khả năng
nhiều trong lănh vực kinh tế cũng như xă hội.
Trước thực tế đó, định
hướng của giáo xứ là tăng cường việc giáo dục Đức Tin cho giới trẻ
qua việc học hỏi Giáo lư, tích cực tham gia các sinh hoạt tôn giáo.
Đồng thời đẩy mạnh việc học văn hóa. Mặt khác, cổ vũ các việc đạo
đức cho các giới. Kể cả những việc đạo đức b́nh dân. Đặc biệt hướng
tới việc bác ái xă hội để góp phần loan báo Tin Mừng.
Công việc nhiều, ước mơ lớn.
Nhưng khả năng rất giới hạn. Ước mong được lời cầu nguyện, sự chỉ
bảo và giúp đỡ của các đấng bậc cũng như mọi người thân yêu để với
truyền thống hào hùng của cha ông, những người con của Nam Lỗ hôm
nay quyết vươn lên vượt qua trở ngại để luôn sống tốt đạo đẹp đời,
góp phần xây dựng Hội thánh và Quê hương.
CÁC HIỀN PHÚC
TỬ ĐẠO NAM LỖ
(Trích từ VƯỜN
VẠN TUẾ THÁI B̀NH)
GIÁO
XỨ NAM LỖ
Nam lỗ cũng gọi là Sổ,
trước đây thuộc tổng Cao Mỗ, phủ Tiên Hưng, tỉnh Thái B́nh. Ngày nay
Nam Lỗ thuộc xă Hợp Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái B́nh.
Nam Lỗ được các thừa sai
Đaminh từ Sa Cát đến truyền giáo vào đầu thế kỷ thứ 18, rồi trở
thành một họ lẻ thuộc xứ Sa Cát, nhận Đức Mẹ Mân Côi là Quan Thầy.
Năm 1908, Đức Cha Phêrô
Trung (Pierre Munagorri y Obineta) chia xứ Sa Cát thành ba xứ, xứ
Nam Lỗ được thành lập, gồm 10 họ lẻ bổn đạo gốc và 7 họ giáo tân
ṭng. Cha xứ đầu tiên là linh mục Phêrô Trứ, chịu chức năm 1891. khi
cha Trứ đổi về Tiên Chu th́ cha Phêrô Thiêm, chịu chức năm 1897, về
coi sóc.
Thời kỳ bắt đạo, tín hữu
Nam Lỗ vẫn trung kiên giữ đức tin. Vùng Nam Lỗ thời đó có hai nơi
giam giữ các tù đạo là Thổ Khối và Trinh Nguyên, nhiều vị tử đạo bị
xử tại hai nơi ấy. Nhờ gương sáng các tù đạo, người Thổ Khối đă xin
ṭng giáo, trở thành một họ lẻ ( họ Ngói) của giáo xứ bây giờ.
Nam Lỗ cũng có nhiều tín
hữu hy sinh mạng sống để minh chứng đạo Chúa, trong số đó có 14 Hiền
Phúc đă được Hội Thánh công nhận là chết v́ đạo Chúa, đă có hồ sơ
làm án xin phong Chân Phúc. Các ngài là những nghành lá thắm tươi
trong vườn vạn tuế Thái B́nh.
1.- Hiền
phúc Linh Mục Vinh Sơn TRÍ (505)
Xứ Nam Lỗ (Sổ), Thái B́nh.
Hiền phúc Linh Mục Vinh Sơn
Trí, Ḍng Đaminh, người Nam Lỗ(Sổ), tỉnh Thái B́nh, 61 tuổi, con ông
Cố Sen. Từ nhỏ đă vào Nhà Chúa, chịu chức Linh Mục và khấn ḍng năm
1830. cha coi xứ Quần Cống, phải trốn ẩn nhiều thời gian. Sau khi
thánh An Khảm và các vị tử đạo Quần Cống bị bắt, quân lính càng ráo
riết tầm nă cha. Sau cùng, ngày 1-3-1859, Cha bị bắt giải nộp cho
tổng đốc Nam Định, Cha liền bị bỏ tù. Trong tù Cha viết thư cho Đức
Cha thánh Vinh vui mừng tỏ ư muốn phúc tử đạo. Quan đ̣i Cha ra toà,
bắt khoá quá, cha hết sức sốt sắng hôn tượng Thánh Gía đặt dưới đất
và trang trọng giảng thuyết về đạo Chúa. V́ thế tổng đốc Hưng tức
giận nói với Cha: “tao có quyền xử tử mày, không cần đợi sắc chỉ của
Vua”. Những quan khác th́ cần sắc chỉ ấy, nhưng Thượng Hưng Nguyễn
Đ́nh Tân v́ là nhạc phụ Vua Tự Đức ( ông có con gái được tuyển vào
cung, phong đến bậc Châu phi), nên tự tiện lên án các vị tử đạo. Cha
bị trảm quyết tại Nam Định ngày 24-3-1859.
2.- Hiền
phúc Thầy giảng Đaminh CHIÊU (506)
Xứ Nam Lỗ (Sổ), Thái B́nh.
Hiền phúc Thầy giảng Đaminh
Chiêu, người Nam Lỗ, hơn 20 tuổi, con ông Diên hay Duyên, hiền lành
đạo đức và rất nết na. Thầy giúp việc Cha Gioan An, cho tới ngày cả
hai bị bắt ở Bái Bồ Trang cùng với hai Thầy giảng khác là Lăng và
Tựu, bị giải lên Hưng Yên và chịu giam cầm. Thầy mạnh mẽ xưng đạo ra
trước mặt các quan. V́ thế phải lên án xử tử. Ba Thầy bị trảm quyết
đầu năm 1862.
3- Hiền
phúc Vinh Sơn QUỲNH (518)
xứ Nam Lỗ, Thái B́nh.
Hiền phúc Vinh Sơn Quỳnh,
người Nam Lỗ, gần 70 tuổi, con ông Khiết. Hiền phúc Quỳnh là cha của
hiền phúc Quân và Đệ sẽ nói sau. Hiền phúc là trùm họ đạo, là nông
dân, rất sốt sắng giữ đạo. Năm 1859. ông bị bắt v́ là chức dịch
trong họ đạo, bị giải lên Hưng Yên, bị giam tù cùng với Hiền phúc
Đán (số522). Ơ đấy hai năm hay hơn, ông phải chịu vô số h́nh khổ,
nhất là v́ già cả nên càng đau đớn. Nhưng ông luôn vui tươi, năng
sốt săng đọc kinh Văn Côi với Hiền phúc Đán bạn tù, vững vàng xưng
đức tin ra luôn luôn. Không bao giờ ông chịu khoá quá, mặc dầu bị
quan quân xui giục ráo riết và lôi mạnh qua Thánh giá. V́ thế ông
chịu trảm quyết ngày 31-5-1861.
4- Hiền
phúc Đaminh ĐỆ (519)
Xứ Nam Lỗ, Thái B́nh.
Hiền phúc Đaminh Đệ, người
Nam Lỗ, Thái B́nh, con của Hiền phúc Quỳnh. Ông hơn 20 tuổi, nhưng
không muốn lập gia đ́nh, để có thể cùng với các học tṛ Nhà Chúa học
hành chữ nghĩa, cùng với họ, ông năng đi nhà thờ, ông cùng với anh
là Phêrô Quân (số 520) bị bắt và bị giam ở ngục Hưng Yên.
Những người biết ông đều
hết sức ca tụng ông, v́ ông rất can đảm chịu đ̣n vọt và những khổ
h́nh khác, do ông không chịu khoá quá. Ông chịu trảm quyết năm 1861.
5 - Hiền
phúc Phêrô QUÂN (520)
Xứ Nam Lỗ, Thái B́nh.
Hiền phúc Phêrô Quân, người
Nam Lỗ, chừng 40 tuổi, là con của Hiền phúc Quỳnh ( số 518) và là
anh của Hiền phúc Đệ ( số 519). Ông bị bắt cùng với em ḿnh, nhưng
khi bị giải lên phủ, v́ quân lính phủ hành hạ ông quá lẽ nên ông
ngất đi ở dọc đường, quan phủ bắt lính vác ông lên mà đưa qua Thánh
giá, sau đó cười nhạo ông là thằng dại mà tha về. Sau ít lâu, ông
phủ ấy chết, ông kế quyền thấy tên ông trong sổ, nên truyền bắt ông
mà đầy lên các làng Phú La và Bông Cói, tỉnh Hưng Yên. Bấy giờ Hiền
phúc đă lành mạnh, nên lại bị giục khoá quá. Ông không chịu, nên
phải chịu nhiều h́nh khổ khác, mà vẫn luôn vững vàng. V́ thế ông
phải trảm quyết ở Hưng Yên, có lẽ cùng với em Đệ của ông.
6 - Hiền
phúc Phêrô ĐÁN (522)
xứ Nam Lỗ, Thái B́nh.
Hiền phúc Phêrô Đán người
Nam Lỗ, trên 50 tuổi, con ông Hiền, đă có vợ con. Ông bị bắt v́ là
một hương chức trong làng. Ông phải giải lên phủ Tiên Hưng, rồi sang
Hưng Yên mà chịu giam cầm. Trong tù ông năng xưng tội với một Linh
Mục cũng bị giam ở đó. Ít là hai lần ông bị đánh đ̣n rất dữ v́ không
chịu khoá quá. Và v́ thế mà chịu trảm quyết ở Hưng Yên, không t́m
thấy thi hài ông.
7- Hiền
phúc Phêrô THỊNH (513)
Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ.
Hiền phúc Phêrô Thịnh,
người họ Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ, con ông Trí và là anh của Hiền phúc
Phêrô Mây (số 514), hai anh em cùng bị bắt với bốn người làng v́ đi
đạo, bị đầy lên làng Bông và Suôi tỉnh Hưng Yên chín tháng. Hai
tháng đầu, ḷng các vị hơi bối rối, nhưng về sau lấy lại được sự
b́nh an, các vị càng ngày càng tỏ ra tinh tường, lớn tiếng đọc kinh
với nhau, không c̣n sợ sệt ǵ ai nữa, nhưng sẵn sàng chịu chết v́
đạo. Hiền phúc Thịnh là thanh niên tốt, bị bắt cùng với cha mẹ và
anh chị em, nhưng phải đi đày với em và bốn người khác như đă nói
trên. Ông hoàn toàn noi gương các bạn ḿnh, nên vui vẻ chịu chém
cùng với Hiền phúc Di (số 523) ở làng Suôi, vào chính ngày bốn bạn
kia chịu chém ở làng Bông.
8 - Hiền
phúc Phêrô MÂY (514)
Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ.
Hiền phúc Phêrô Mây, người
Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ, con ông Trí và là em Hiền phúc Thịnh (số 513).
Ong là thanh niên c̣n độc thân, làm ruộng, có những tư chất tốt. Ông
bị bắt cùng với cả gia đ́nh cũng như anh Thịnh, nhưng trốn thoát
được. Sau bị bắt lại, người ta truyền ông khoá quá, ông hoàn toàn
không chịu. V́ thế ông phải đeo gông rất lớn, đầy lên hàng Bông, nơi
cha mẹ ông đang bị cầm giữ, v́ ông nói với quan huyện là ḿnh muốn
đi theo cha mẹ. Bị giam ở đó chín tháng mà vẫn vững vàng, nên ông bị
án trảm quyết v́ cùng một duyên cớ như anh ông và các bạn tử đạo
khác. (xem thêm số 513).
9.- Hiền
phúc Đaminh DI (523)
Lũ Đăng, Xứ Nam Lỗ.
Hiền phúc Đaminh Di, người
Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ. Ông rất khiêm nhu, ăn ở hiền lành, không làm hại
ai, là nông dân, đă có vợ và một con gái. Ông bị bắt v́ đạo với ông
Thịnh (số 513), cùng với nhiều người khác sẽ nói sau. Cùng với các
vị ấy, ông đă luôn hăng hái vững vàng xưng đạo ra, nên ông phải chịu
nhiều h́nh khổ. Nhưng các ông không cùng bị hành xử với nhau. Hiền
phúc Di bị trảm quyết với Hiền phúc Thịnh tại làng Suôi (xem số
513).
10.-
Hiền phúc Đaminh NGHIÊM (524)
Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ.
Hiền phúc Đaminh Nghiêm,
người họ Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ, c̣n trẻ, mới 16 tuổi, con ông Uẩn. Tính
cậu tốt lành, hiền hoà, cong đang đi học. Cậu cũng là bạn tử đạo với
ông Thịnh nói trên, chịu nhiều khổ h́nh như nhau và vẫn vững bền
xưng đạo. Nhưng cậu bị giết ở làng Bông ( các điều khác như ở số
513).
11.-
Hiền phúc Đaminh HUỆ (528)
Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ.
Hiền phúc Đaminh Huệ, người
Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ, con ông Thoan, là thanh niên c̣n độc thân. Ông
là bạn tử đạo với ông Thịnh (số 513), nhưng bị trảm quyết tại làng
Bông với ông Nghiêm (số 524) và ông Phương (số 529). Các điều khác
nói ở số 513.
12.-
Hiền phúc Đaminh PHƯƠNG(529)
Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ.
Hiền phúc Đaminh Phương,
người Lũ Đăng, không biết tên cha mẹ và niên tuế, nhưng biết rằng
ông là thanh niên làm ruộng, c̣n độc thân, không mắc tiếng xấu ǵ,
ông là bạn tù đạo với ông Thịnh, nhưng lại rất dũng cảm chịu trảm
quyết v́ đức tin với ông Huệ tại làng Bông ( các điều kiện khác như
ở số 518).
13-
Hiền phúc Đaminh KHANG (527)
Cổ Khúc, xứ Nam Lỗ.
Hiền phúc Đaminh Khang,
người Cổ Khúc, xứ Nam Lỗ, con ông Thịnh. Cậu là học tṛ Nhà Chúa, v́
bệnh phải về gia đ́nh uống thuốc mà bị bắt v́ đức tin tại nhà. Cha
cậu là Thịnh, anh cậu là Sĩ và chính cậu bị đầy lên làng Bông Cói. Ơ
đây cha con cậu luôn đọc kinh cầu nguyện và đan thúng đan rá. Vợ ông
Sĩ đem thúng rá ấy ra chợ bán, lấy tiền nuôi ba cha con suốt mười
tháng như vậy. Các nhân chứng không nói ǵ hơn nữa về các hiền phúc
Thịnh và Sĩ. Nhưng về hiền phúc Khang th́ họ quả quyết rằng: cậu học
sinh Nhà Chúa đó luôn vững vàng trong đức tin, sốt sắng khuyến khích
các kitô hữu bị giam ở đấy hăy vững ḷng giữ đạo cho đến chết. Mặt
khác c̣n được biết rằng: hiền phuíc Khang khi đứng trước mặt viên
quan tên Riễn, nổi tiếng độc ác, nhận được tin phải chết v́ đạo,
hiền phúc đă rất vui mừng và sốt sắng dọn ḿnh chịu chết. V́ không
chịu khoá quá nên hiền phúc Khang phải trảm quyết năm 1862 tại Lang
Lô, làng Thanh Cù.
14.-
Hiền phúc Đaminh HIẾN (530)
Cổ Cốc, xứ Nam Lỗ.
Hiền phúc Đaminh Hiến,
người Cổ Cốc, xứ Nam Lỗ, con ông Tri, 18 tuổi, c̣n độc thân, ngoan
ngoăn, hiền lành. Theo lệnh viên quan tri phủ Riễn rất độc ác, tất
cả giáo hữu ít oi ở Cổ Cốc đều bị bắt, trong đó có cậu Hiến. Các vị
bị đưa đến làng Quán Dâu, sau sang làng Thanh Cầm, xứ Ngọc Đồng,
Hưng Yên. Xem ra cư dân ở đây là kitô hữu kín đáo, v́ họ đối xử với
những kitô hữu bị giam ở đây rất nhân đạo. Mặt khác, các tín hữu bị
lưu đày của làng Cổ Cốc không bị đưa ra toà nào, nhưng chỉ do lệnh
vua mà phải giết nếu c̣n trong tù. Cậu Hiến và người cùng làng bị
đem đi xử với rất nhiều người khác trong trường hợp như sau:
Thượng Hưng từ Nam Định và
các viên quan khác đến nơi gọi là Rồng Chầu ( Long Triều chăng?),
truyền đem tất cả các kitô hữu bị giam ở các nơi lân cận đến. Các
kitô hữu biết ḿnh bị đem đi xử, nên vui mừng hát kinh cầu các thánh
và đọc nhiều kinh khác mà đi, người làng lấy làm lạ lắm. Thế rồi
không một án quyết, những con chiên hiền lành ấy, con số tới hơn hai
trăm người, theo lệnh Thượng Hưng, bị gươm chém tất cả ở Rồng Chầu,
ngày 2-6-1862.
Hiền phúc Hiến v́ tỏ ra sốt
sắng hơn mọi người nên giơ cổ ra trước nhất. Chứng nhân Khoan kể lại
rằng: chính hiền phúc đă quỳ xuống hai ba lần để chịu chém, nhưng lư
h́nh bảo: “thằng này gầy nhom và c̣n nhỏ, chạy đi, chúng tao không
muốn giết mày”.. Khi đă thảm sát hết hơn hai trăm người, lính tráng
đào những huyệt lớn, xô lẫn lộn thi hài các vị xuống mà chôn tập thể.
Ông Khoan là chứng nhân mục kích đă nói như vậy.
Đội Trắc GX
Nam Lỗ
Kính thưa Quư vị,
Trên đây là mấy ḍng phác
thảo, mạo muội tŕnh bày đôi nét về giáo xứ Nam Lỗ, nhân dịp BÁCH
CHU NIÊN THÀNH LẬP GIÁO XỨ. V́ khả năng giới hạn, tư liệu thiếu và
nói chung mọi mặt hạn chế, nên chắc chắn c̣n nhiều khiếm khuyết.
Kính xin Quư đấng bậc, quư vị cao minh, cao niên đồng hương hiểu
biết nhiều về Nam lỗ, vui ḷng chỉ giáo, bổ sung và góp thêm bài vở
để cuốn KỶ YẾU của Giáo xứ được thêm hoàn thiện và phong phú.
Rất mong có những bài Hồi
Kư về các cộng đoàn giáo họ trong toàn xứ, để các thế hệ trẻ biết
thêm về các bậc tiền nhân của ḿnh.
Nhà thờ Nam Lỗ, Hợp tiến,
Đông Hưng, Thái B́nh, Việt nam
Xin chân thành cám ơn và
xin Thiên Chúa trả công bội hâu cho ḷng quảng đại và những hy sinh
của qúy vị.
Nam lỗ, Xuân Mậu Tư - 2008
NHÓM BIÊN SOẠN
=================================================
Lịch
Sử Giáo Họ An Thái
Giáo
Xứ Nam Lỗ
Sông Tiên
Hưng
Nằm trên triền sông Tiên
Hưng, và bờ bên kia là Nhà xứ Nam Lỗ, làng An Thái trải dài như cùng
con sông uốn ḿnh bao quanh nhà thờ xứ. Trong ngôi làng an b́nh và
thư thái này có một họ đạo và một ngôi nhà thờ rất nên thơ. Nhà thờ
họ An Thái.
Làng An Thái thuộc tổng An
Lạc, huyện Tiên Hưng, tỉnh Thái B́nh. Nay là thôn An Thái, xă Mê
Linh, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái B́nh.
Hạt giống Tin Mừng mới được
gieo vào nơi đây và trổ sinh rất tốt đẹp. Cuối Thế kỷ 19, mới có một
gia đ́nh công giáọ, gia đ́nh cụ Đaminh Trần Văn Thứ (cụ Hậu Thứ), cụ
bà là Maria Nguyễn Thị Đang, với hai người con trai là cụ Lang Khiêm
và cụ Chánh Lễ. Các cụ làm nghề lang thuốc, cứu chữa được nhiều
ngườị. Vả lại các cụ là người phúc đức, nên được dân làng mến chuộng.
Cụ bà lại rửa tội được nhiều trẻ em và người lớn hấp hốị. Một số sau
này b́nh phục đă theo Đạọ, ít lâu sau lại có gia đ́nh cụ Đaminh Bội
và Đaminh Nghĩa từ Tịnh Xuyên đến định cư. Tiếp đó lại có một số gia
đ́nh các cụ khác nữa tới đâỵ. Đó là các cụ phó Tằng, cụ trùm Trinh,
cụ trùm Chi, cụ Dựa, cụ Nhị, cụ cán Viêng, cụ cai Tề, cụ Hảo, cụ Thử
và cụ Chuyên v.v…
Theo sử kư địa phận Trung
xuất bản năm 1916, th́ năm 1908 nơi đây đă h́nh thành một họ giáo
tân ṭng, họ An Thái thuộc về xứ Nam Lỗ. Cụ Hậu Thứ làm trùm và ngôi
nhà thờ nhỏ bằng gỗ được dựng lên, trên mảnh đất diện tích 5 sào, do
gia đ́nh cụ tiến cúng. Nhà thờ này kính thánh Đaminh.
Năm 1916, họ tân ṭng An
Thái có 33 nhân danh. Cộng đoàn phát triển tốt đẹp. Sau cụ Hậu Thứ,
đến các cụ trùm Thử, cụ trùm Khiêm, cụ trùm Nhung, cụ trùm Lễ, cụ
trùm Trinh, cụ trùm Chi, cụ trùm Linh, cụ trùm Khoát, cụ trùm Huyên,
cụ trùm Nghị…
Năm 1944, dân họ đă lên tới
45 gia đ́nh và gần 200 nhân danh. Ngôi nhà thờ đă trở nên chật hẹp.
Với sự giúp đỡ của gia đ́nh
và con cái của cụ Hậu Thứ, ngôi nhà thờ mới được xây dựng. Ngôi nhà
thờ cũ được bán cho Ninh Cường, Bùi Chụ và mua nếp nhà thờ mới của
Sâm Bồ ở Hải Pḥng. Các cụ kể lại: Nhà thờ Sâm Bồ đang xây dựng th́
người Nhật bắt phá, để xây dựng sân bay Cát Bi.
Khi xây dựng nhà thờ An
Thái, th́ gặp nạn đóị Họ giáo gặp khó khăn. Dân làng cũng như dân họ
giáo chết đói và phiêu bạt đến 1/3. Thợ làm phải ăn cháo, thật là
gian truân. Lúc đó cụ trùm Linh làm trùm họ và ngôi nhà thờ mới này
đă nhận Ông Thánh Giuse Công Nhân làm bổn mạng.
Nhà thờ vừa xây xong th́
gặp nạn vỡ đê Hà Xá (1945), nước ngập hết móng, nhà thờ bị ngâm
nhiều ngày nước mới rút. Tiếp đó, Nhật đảo chính Pháp. Người Nhật đă
đưa muối đem vào để trong nhà thờ An Thái cũng như nhà thờ Khuốc.
Thời điểm này cụ trùm Khoát đương nhiệm. Cụ Huyên làm chánh kiểm
hàng xứ. Cụ Huyên đă mạnh dạn ra can thiệp với người Nhật, đề nghị
họ để muối xa chân tường và chân cột. Họ chấp nhận. Tuy vậy muối vẫn
làm hư hại lớn đến công tŕnh nhà thờ. Ảnh hưởng của nó vẫn kéo dài
cho đến ngày hôm naỵ, tường vẫn bị muối phá huỷ, áo bị rữa, mặc dù
đă sửa chữa nhiều lần. Thêm vào đó, do sự rung chuyển của bom đạn
thời chiến tranh, tường bị nứt, kèo bị giăn. Độ đứng của tường đă bị
ră ra ngoài ở hai gian cuối tới vài chục phân mét.
Đ̣ Ngang
Sông Tiên Hưng
Năm 1954, biến cố di cư vào
Nam. Cụ trùm Nghị đương nhiệm và giáo dân họ giáo ra đi quá đông.
Chỉ c̣n lại 17 gia đ́nh, với 85 nhân khẩu. Ông quản Lịch lên làm
trùm chánh, ông Đức làm trùm phó.
Tuy chỉ c̣n ít người, nhưng
trong họ vẫn duy tŕ sinh hoạt kinh sách hàng ngày và ǵn giữ nguyên
vẹn ngôi thánh đường cũng như 5 gian Nhà pḥng, cho dù có gặp khắc
nghiệt của thời tiết và nhiều khó khăn khác.
Năm 1958-1959, lát gạch nền
nhà thờ và xây sân khấu cuối nhà thờ.
Năm 1963, các v́ cuốn trong
nhà thờ bị giăn, cha già Uyên và Đức cha Trụ cho họ giáo 6 cây sắt
phi 30 để khoá giằng các đầu cột lạị, lúc đó cụ Tạo làm trùm họ.
Năm 1968, nhà thờ bị sập
cột và đổ hai gian đầụ, lại gặp chiến tranh bắn phá miền Bắc, Ông
trùm Nghiên đương chức bị bệnh nặng và qua đờị. Giáo dân phải chuyển
tượng ảnh và đọc kinh dưới nhà pḥng suốt 2 năm trờị. Cụ Lâm lên làm
trùm và phải 2 năm sau mới sửa lại được 2 gian đầu nhà thờ.
Một điều cũng lấy làm lạ,
là khi giáo dân đang đọc kinh cầu nguyện trong nhà thờ khá đông, th́
những miếng chắp mê bằng gỗ nặng hàng tạ, từ trên đầu cột rớt xuống
mà không trúng vào ai.
Năm 1978, ông trùm Trắc
đương nhiệm, th́ trong họ lại có 4 hộ với 17 khẩu bỏ làng đi kinh tế
mới ở Đắc Lắc. Cụ Tạo lại tiếp tục làm trùm. Thời điểm này có chính
sách quy hoặch dân cư. Một số gia đ́nh xung quanh nhà thờ phải
chuyển qua đê bên bờ sông. Các Miếu, Đ́nh cũng phải chuyển hết đi
nơi khác. Nhà nước đưa một đội máy ủi, máy gạt về san phẳng khu vực
này thành ruộng cấỵ. Riêng ngôi nhà thờ th́ khi máy ủi vào ủi sát
chân móng tường và đưa đất xuống lấp ao nhà thờ, đến đường ủi thứ
hai th́ máy đi quá đà nên chúc đầu xuống ao, không thể nào lùi lên
được và bị chết máỵ Nhân cơ hội đó, cụ Tạo đă đề nghị với lănh đạo
của đội máy về việc san ủi như vậy sẽ đổ mất nhà thờ. Họ trả lời là
chỉ làm theo lệnh cấp trên, ông lên tỉnh mà hỏị. Cụ Tạo đă lên ngay
huyện Đông Hưng gặp Công an và Mặt Trận huyện. Các vị trả lời, ông
cứ về, đề nghị của ông chúng tôi sẽ điện về ngaỵ. Khi cụ Tạo về đến
nhà thờ th́ mọi sự đă được yên ổn. Vài ngày sau, đội máy cho chiếc
máy khác đến kéo chiếc máy chết lên. Nhưng không phải kéo, chiếc máy
ủi lại nổ máy và tự lùi lên được. Từ đấy đến nay khu vực thánh đường
được ổn định. Riêng có ruộng ở ngoài đồng th́ bị xung công mất 2 sào
ở bờ La và 1 sào ở bờ sông gọi là Vườn Vải Ông Thánh.
Năm 1983, nhà thờ bị giột
nát nhiều và hư hỏng nặng. Cha chính Cẩm và Đức cha Bỉnh đă giúp họ
giáo, đảo lại toàn bộ mái ngói nhà thờ.
Năm 1984-1989 ông Cường làm
trùm, đă cho đảo mái ngói Nhà pḥng.
Đầu năm 1990, ông Hiện làm
trùm. Họ giáo gặp khó khăn. Vốn quỹ không c̣n ǵ. Trong khi nhà thờ
lại hư hỏng nặng: Mối xông toàn bộ hoành rui, không có khả năng đứng
vững được nữạ. Dân họ ra công làm gạch, ngói để sửa nhà thờ. Với sự
giúp đỡ của cha chính Cẩm và Đức cha Phanxicô, họ giáo đốt được 5
vạn gạch và 2 vạn ngói, mua được 5 khối rưỡi gỗ lim. Nhờ vậy đă thay
sửa được hoành rui hư hỏng và đảo lại được mái ngói.
Năm 1991, xây hai bờ tường
bao khuôn viên nhà thờ.
Năm 1992 làm thêm 7 vạn
gạch và năm 1993 xây 800m2 sân xung quanh nhà thờ cùng với dậu xung
quanh sân.
Năm 1994, mua được quả
chuông Tây nặng 180 Kg. Thời điểm này họ giáo có 31 gia đ́nh và 131
nhân danh. Lúc này họ giáo hàng tuần thường xuyên có Thánh lễ.
Năm 1996, ông Thấu lên làm
trùm. Thời kỳ này cha Giuse M. Trần Đức Hạnh từ Thuần Tuư sang phụ
trách giáo xứ. Họ giáo lại làm thêm 6 vạn gạch nữa để chuẩn bị xây
Nhà giáo lư.
Năm 1997, đặt tượng Thánh
Quan Thầy trên trước cuối nhà thờ, do ông bà Kỷ phúng.
Năm 1998, ông trùm Hiện lại
tái nhiệm đến 15-8-2004.
Năm 2000 đúc lại chuông và
mua thêm một quả chuông mới, xây Nhà Giáo lư.
Năm 2004 lát toàn bộ gạch
men trong nền nhà thờ, sửa sân khấu cuối nhà thờ, với sự hỗ trợ của
gia đ́nh cụ cố Vượng bên Úc. Lúc này cha xứ Đaminh Nguyễn Văn Quát
đă về xứ. Ông trùm Oanh đương nhiệm khoá này, từ 15-8-2004 đến
15-8-2008.
Vài ḍng sơ lược về họ giáo,
không thể nói hết được những nét đẹp của cộng đoàn nàỵ. Chúng ta có
thể nói rằng: Họ giáo có được như ngày hôm nay, ngoài sự giúp đỡ của
các đấng bậc, các ân nhân xa gần, c̣n có một yếu tố quan trọng là sự
hy sinh cố gắng cao độ của các ban trùm cũng như bà con trong họ
giáo qua mọi thời kỳ. Nhất là trong những giai đoạn khó khăn.
Nhờ ḷng đạo đức nhiệt
thành của tiền nhân và dân họ mà họ giáo tuy nhỏ và là tân ṭng, mà
nay cũng đă đóng góp cho Hội Thánh được một số những người con ưu tú.
Đó là:
-Linh mục Giuse Nguyễn
Thanh Liêm, đang phục vụ tại TGP Brisbane, Úc Châu.
-Tu Sinh Đaminh Nguyễn Đức
Trụ, đang tu học Ḍng Thánh Tâm tại Sydney, Úc Châu
Các nữ tu:
-D́ Cecilia Nguyễn Thị
Thanh Thủy RSM, Ḍng Đức Mẹ Từ Bi, Brisbane, Úc Châu, đang phục tại
Africa, Phi Châu.
-D́ Mary Vũ Thùy Linh, Ḍng
Trinh Vương Việt Nam tại Úc Châu đang phục vụ tại Sydney.
Ngoài ra c̣n một số mầm non
ơn gọi đang phát triển.
Hy vọng với truyền thống
tốt đẹp sẵn có, cộng đoàn An Thái sẽ lớn lên trong t́nh yêu Chúa mỗi
ngàỵ.
Lm. Dom Nguyễn Văn Quát
Quản Nhiệm giáo xứ Nam Lỗ
&
Joseph Vĩnh Nguyễn of
Resource
********************
PHẦN
HỒI KƯ
Kư
ức về quê Ngọai:
Chiếc xe đang bon bon trên
đường gần tới Nam Lỗ, th́ một người trên xe hỏi tôi:
Ông cố Cha Thỏa ở Vơng Phan,
Hưng Yên. Vơng Phan - Nam Lỗ đường xá xa xôi như vậy, sao Ông cố lại
quen được Bà cố mà cưới nhau, chắc mối t́nh phải lâm ly lắm nhỉ ?
Tôi trả lời: Hồi đó tôi làm
mai cho Ông cố tôi đó. Cả xe cười rộ lên. Một người hỏi:
Hồi đó Cha ở nơi mô mà làm
mai rứa?
Cả xe lại được dịp cười
thỏai mái. Trên xe hôm đó có một số Việt Kiều Úc, cha Liêm, bà cố
Vượng và tôi về thăm quê ngọai lần thứ hai vào đầu tháng 12 năm
2000. Từ đó h́nh ảnh quê ngoại đă khơi dậy trong trí tôi biết bao kỷ
niệm ấu th. Hồi c̣n bé tôi đă được theo Ba Má về thăm quê ngọai mấy
lần. V́ c̣n nhỏ nên tôi thấy quê ngọai bao la, làng mạc nằm trên
cánh đồng lúa, bên cạnh là con đê lớn song song với con sông rộng và
sâu. Tôi nhớ nhà ông Kiểm Lâm là em ruột Bà ngoại, ở sát bên cạnh bờ
sông và con đê. Nhà ông có một vườn cây, tôi rất thích thú được trèo
lên cây để hái ổi hái táo. Rồi từ đó đi vào làng phải xuống một con
dốc. Bờ tre quanh làng xen lẫn hàng hoa giấy và hoa Tầm xuân nở rộ
quanh năm đỏ rực. Con đường làng quanh co qua nhiều cái ao rộng,
trồng hoa sen hoa súng. Trong đầm ǵ đẹp bằng sen, lá xanh bông
trắng lại chen nhụy vàng. Đi sâu vào giữa làng, một ngôi nhà thờ
nguy nga, ngọn tháp cao vút, khu nhà xứ rất rộng. Bà ngoại tôi là bà
Nguyễn Thị Sinh, ông ngoại đă chết lâu rồi, sau khi sanh được hai
người con la Bác Tuệ ở Tuộc, và bà Nguyễn Thị Ṭng là bà cố tôi. Hai
con đi ở riêng nên bà ngoại về ở với ông cậu út là ông Kiểm Xuyên.
Nhà ông Cậu cạnh nhà xứ và nhà thờ, trước cửa có trồng nhiều cây dâu
tằm. Tôi thường leo lên cây dâu để hái quả và đẽo sâu dâu về nướng
ăn.
Ôi quê ngoại sao đẹp và vĩ
đại thế. Quê hương là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày. Quê
hương là con đ̣ nhỏ, Mẹ về nón lá nghiêng che. Quê hương nếu ai
không hiểu sẽ không lớn nổi thành người.
Ngoài mấy lần theo cha mẹ
về thăm quê ngoại, sau tôi c̣n được diễm phúc về sống hai năm trên
mảnh đất quê ngoại. Cha già Vinh Sơn Nguyễn Hữu Thụy là em ruột bà
nội tôi, Ngài về hưu ở họ An Lạc (Lác Làng) thuộc xứ Nam Lỗ năm 1949
– 195, Ngài bắt tôi theo Ngài và nói:
Tao muốn gây dựng cho mày
để sau này trở thành giống má. Tôi chẳng hiểu “ giống má” là ǵ.
Chỉ nhớ nhà và đ̣i về.
Thỉnh thoảng Ngài lại cho tôi sang bên ngoại để chơi khuây khỏa. Rồi
hôm ngoại qua đời, tôi được đại diện thay mặt Ba Má theo tiễn đưa
ngoại đến nơi an nghỉ.
Lúc bấy giờ thời thế chia
làm hai vùn, Tự do và làng Tề. Ba má tôi ở vùng Tề nên không thể về
dự lễ an táng được.
Tôi được nghe người ta kể
lại: Cha già Thụy là em ruột của bà nội tôi. Hồi Ngài đang coi xứ
Tuộc, Ngài đă mai mối để Ba Má tôi cưới nhau. Trong gia đ́nh bên nội,
có nhiều anh em, nhưng ngài thương Ba tôi nhất. Mỗi khi về thăm quê,
Ngài thường ở nhà Ba Má tôi. Có lẽ v́ thế mà Ngài đă lưu tâm gây
dựng cho tôi trở thành “giống má”.
Kính thưa Cha già kính yêu,
Con đang viết những gịng
chữ này, con xin chắp tay lạy Cha ba lậy một qùy để tạ lỗi, v́ hồi
đó c̣n thơ dại, con chẳng hiểu biết ǵ. Sau lớn lên con mới biết Cha
già thương con lắm.
Con nhớ một hôm con nằng
nặc đ̣i về, v́ nhớ nhà, con cứ khóc và vùng vằn. Đường xá xa xôi
cách trở, làm sao mà đưa con về được. Cha già khuyên bảo con, con
không chịu nghe cha già không dám đánh con, v́ ngài thương đứa cháu
nhỏ phải xa cha mẹ. Ngài quay mặt đi và cho Thày Thông con Ngài đánh
con ba roi. Thế là con giận cha già măi..... .
Tháng 7 năm 1950 ban đêm
con ngủ ở ngoài hè với mấy đứa trẻ, người ta đánh thức con dậy và
nói: “dậy đi, dậy đi mau lên, để đưa cha già xuống nhà ngang dưới”.
Con chẳng biết ǵ tưởng người ta dắt cha già xuống nhà dưới, sau đó
con mới biết cha già vừa mới qua đời. Thế mà con chẳng có một giọt
nước mắt để khóc thương cha già. Ngày hôm sau Thày Thông may cho con
một bộ quần áo vải sô và một cái khăn tang. Thày dặn con: “Ngày mai
khi đưa đám tang cha già, phải mặc quần áo sô và đội khăn tang đi
trứơc Quan Tài, thay mặt cho Ba Má và họ hàng”. Không ai đến dự đám
tang được, đường xá xa xôi cách trở v́ hai vùng tề và tự do khác
nhau, không đi lại được.
Cha già ơi; thật là vinh
hạnh cho con được đại diện cho cả ḍng họ để đưa tiễn cha già. Nhưng
lại thật tệ bạc v́ con chẳng biết ǵ. Con đă không nghe lời Thày
Thông, và con đă bỏ trốn không mặc áo sô, để tang v́ sợ mắc cở với
chúng bạn.
Sau mấy ngày an táng cha
già xong Thày Thông mới tính tội con. Thày chỉ cho con thấy những
lỗi lầm và sự tệ bạc. Thày đánh con 5 roi, rồi cho bà cụ Luận đưa
con về quê để báo tin cha già đă qua đời. Dù phải đ̣n đau nhưng sắp
được về quê con thấy sung sướng và quên hết đau.
Về tới quê Vơng Phan, mấy
ngày sau th́ trong xứ làm lễ phát tang cha già tại sân nhà thờ thật
long trọng. Cụ Trần Bát Đẩu thay họ hàng đọc bài điếu văn khóc cha
ǵa:
Than rằng:
Thấy h́nh Tử đạo treo ra
Nh́n xem sự tích xót xa ḷng vàng.
Ngán thay sinh tử đôi đàng
Ai ân cắt rẽ can tràng làm hai.
Kính nhớ cha già bản quán
Thánh hiệu Vinh thiêng
Vốn xưa tính nết khoan hoà
Kiệm cần bác ái thật là khôn ngoan.
Nhà thờ nhà xứ lo toan.
Tài cao khéo vá vận hàn nổi danh.
Trải bao nhiêu xứ chung quanh
Thuộc trong ba tỉnh rành rành đến nay.
Ư trên mầu nhiệm ai hay?
Tám mươi lăm tuổi vừa đầy can chi.
Cha già sao đă vội đi
Để cho đâu đấy sầu bi rầu rầu.
Mộ phần AN LẠC đới sầu
VƠNG PHAN cây cỏ trăm chiều ủ ê.
Họ hàng thương cảm tiếng ve
Cháu con cảm động canh kê ngập ngừng.
Cây muốn lặn, gió chẳng đừng,
Hiếu chung hai chữ nửa chừng đắng cay.
Cha ơi có thấu chăng hay?
Muốn đem hiếu nghĩa mà xây bên mồ
Chẳng may đang lúc nhậm mù
VƠNG PHAN NAM LỖ đường cù xa xôi.
Cha về chầu Chúa Ba Ngôi,
Để cho quê quán ngậm ngùi nhớ thương.
Cầu xin Rất Thánh Nữ Vương
Rước Cha về nước Thiên Đàng Amen.
Thời thế biến đổi, tháng Tư
năm 1954 mọi người kéo nhau vào miền Nam, tưởng chẳng bao giờ được
về thăm quê ngoại và viếng mộ cha già nữa.
Tháng năm 1975 đất nước
giải phóng hai miền Nam Bắc sum họp một nhà, thế là lại có dịp về
quê ngoại và thăm mộ cha già. Từ năm 1995 đến nay tôi đă trở về thăm
quê hương 5 lần và ba lần về quê ngoại, và viếng mộ cha già, và đă
sửa lại mộ phần Cha già.
Cây có cội, nước có nguồn,
con người có tổ có tông Quê ngoại dù không phải nơi chôn rau cắt rốn,
nhưng có phần mộ Tổ Tiên của Ngoại, hơn nữa lại có Mộ phần của Cha
già bên Nội, nên đời con cháu làm sao có thể quên được. “Quê Hương
nếu ai không hiểu, sẽ không lớn nổi thành người “.
Lm. Vinh Sơn Trần Thanh
Thoả
========
NHỚ VỀ QUÊ
HƯƠNG NAM LỖ
Vài cảm nghĩ lần đầu tiên
về thăm quê ngoại GIÁO XỨ NAM LỖ
Quê nội tôi là giáo xứ Vơng
Phan: ba tôi vẫn nói VƠNG PHAN NAM LỖ ĐƯỜNG CÙ XA XÔI..
Ra đi từ khi tôi lên 5 tuổi,
tôi đă về quê nội hai lần, nhưng lần đầu tiên được về thăm quê ngoại
và cũng là quê hương của chồng tôi.
Ngồi trên ôtô từ xa xa nh́n
vào đă thấy tháp chuông cao vút của những nhà thờ giáo họ thuộc giáo
xứ Nam Lỗ.
Cha xứ Đa Minh Nguyễn Văn
Quát đă ra đón chúng tôi từ ngă ba D́nh Thuong, có Cha Anh và anh em
chúng tôi.
Về tới nhà thờ Lác Làng một
hồi chuông vang lên, tôi đă thấy từ các ngơ đường dẫn đến nhà thờ
các cụ già, người lớn, em bé mấy phút sau đă chật ních pḥng khách
giáo họ. Tôi cảm động vô cùng về ḷng hiếu khách của cha xứ và giáo
dân.
Chúng tôi được cha xứ dẫn
về thăm giáo họ An Thái, nơi có các phần mộ tổ nội gia đ́nh chồng
năm an nghỉ bên cạnh giáo đường.
Nh́n ngôi thánh đường giáo
họ An Thái, tôi nhớ lại hồi mới về làm dâu bà Nội chồng kể cho nghe
về những ngày xây dựng ngôi thánh đường năm 1945 là năm đói. Các cụ
đang xây th́ có những người thợ đến xin làm không công, họ chỉ cần
được ăn no. Ở nhà có một cót thóc lớn ngày nào cũng xúc thóc xay gạo
cho thợ ăn mà sao cót thóc vẫn cứ đầy. Rồi con sông trước mặt tiền
nhà thờ, tự nhiên nổi lên một cồn cát, thợ và giáo dân cứ ra xúc cát
về xây. Khi hoàn thàhn xong ngôi thánh đường th́ cồn cát cũng biến
mất.
Trải qua 60 năm nhà thờ vẫn
hiên ngang xừng xững với thời gian vẫn đẹp về lối kiến trúc cổ kính.
Về đến giáo họ Lác làng,
Cha xứ dẫn chúng tôi viếng mộ Cha già Thụy là ông Cậu Nội của chúng
tôi, đă an nghỉ bên cạnh đầu nhà thờ, tôi đă rơi lệ khi bao năm qua
mà giáo dân ở đây vẫn có ḷng kính mến cha già, người đă có những
năm tháng quản nhiệm giáo họ Lác làng và gắn bó quăng đời về hưu ở
đây. Tôi không nhớ được h́nh dáng của cha già cố. Nhưng ba tôi vẫn
kể khi c̣n nhỏ anh em chúng tôi hay chơi chốn t́m, tôi là người hay
chạy vào ẩn nấp trong áo chùng thâm của cha già ( v́ cha già hay về
nhà ba mẹ của tôi chơi hoặc dưỡng bệnh.)
Giáo họ Lác Làng cũng là
nơi có phần mộ cố ngoại của ông xă tôi nằm an nghỉ bên cạnh giáo
đường. V́ các ngài là những vị ân nhân của giáo họ.
Chúng tôi về là vào dịp lễ
mừng bổn mạng của giáo họ Lác làng (Lễ Đức mẹ Dâng Ḿnh) Chúng tôi
được tham dự thanh lễ trọng thể, co ken tây va trong.
V́ thời gian eo hẹp, chúng
tôi lại được Cha xứ đưa về giáo xứ Nam Lỗ nơi quê ngoại cúa chúng
tôi bao la cánh đồng lúa và những vườn chè, nơi mà mẹ tôi đă sinh ra
và lớn lên từ giáo xứ này, nơi mà mẹ tôi đă được dạy dỗ và học bao
điều ở đó, hiền ḥa, chân thật và nhẫn nại để mẹ về làm dâu giáo xứ
Vơng Phan và đă dạy dỗ anh chị em chúng tôi nên người.
Từ biệt giáo xứ Nam Lỗ,
giáo họ An Thái, giáo họ Lác Làng, chúng tôi cứ luyến tiếc ngẩn ngơ
và mong sẽ có ngày về quê hương để thăm lại.
Xin cảm ơn tiền nhân những
người đă hy sinh và dùng cuộc đời ḿnh như những viên gạch để xây
nên một giáo xứ Nam lỗ.
Cuối cùng để tất cả chúng
ta những người hậu duệ c̣n ở nơi quê nhà hay làm ăn phương xa luôn
luôn nhớ đến và tự hào về mảnh đất thân thương này./.
Maria Thanh Nguyên
***
Hồi Kư Một
Giáo Dân An Thái, Gốc Xứ Nam Lỗ
Quê Hương
Tôi sinh trưởng trong một
gia đ́nh trung lưu, thuộc làng An Thái, huyện Tiên Hưng, tỉnh Thái
B́nh Bắc Việt. Nhà tôi nằm trong một thửa đất rộng cỡ khoảng 1 mẫu
Tây, có 2 cổng ra vào, chung quanh nhà có hàng rào tre, trúc và dậu
găng, bao bọc chung quanh. Nhà tôi đối diện với nhà thờ giáo họ An
Thái, chỉ cách bên này bờ và bên kia con đường làng
Tổ tiên của tôi đă xây cất
lên những dăy nhà ngói đồ sộ nguy nga h́nh chữ U vuông nằm ngược.
Khu nhà tôi ở có 2 cổng ra vào. Một cổng chính c̣n gọi là cổng (1)
đi vào sân nhà ông bà Nội của tôi là Cụ Lang Khiêm và một cổng (2)
đi vào sân nhà Cụ Chánh Lễ em ruột Cụ Lang Khiêm. Phía bên trong các
cổng đều có sân lát gạch rất rộng, nối liền từ cổng vào nhà. Bên
trái sân gạch cổng (1) là một dăy nhà ngói dài 5 gian của Cụ Lang
Khiêm có nền cao chừng 1 thước rưỡi, muốn vào nhà phải bước lên
nhiều bậc. Bên phải sân gạch là nhà bếp, chuồng trâu và bể chứa nước
mưa, hứng từ cây mít chảy xuống. Bể nước mưa và nhà bếp được xây cất
dọc theo bên bờ, hồ cá, ao bèo lớn. Bờ hồ có 4 mặt, 2 mặt giáp 2 con
đường làng, 2 mặt c̣n lại giáp với nhà tôi và nhà ông phó Chuyên. Hồ
có hàng rào găng cao, mọc lên theo hai bên bờ hồ, song song với 2
con đường làng, để đề pḥng kẻ gian vào bắt trộm cá.
Nhà Thờ An
Thái
Cùng dùng chung hồ cá, ao
bèo rộng lớn này với gia đ́nh tôi là gia đ́nh nhà ông bà phó Chuyên.
Nhà ông bà Chuyên nằm ngay góc ngă ba từ đường cái đổ dốc xuống
đường làng và từ bờ sông quẹo trái xuống nhà thờ An Thái. Gia đ́nh
nhà ông bà Chuyên có anh Cần, anh Lập và chị Huê. Nhà họ nằm phía
bên phải bờ hồ đối diện với nhà tôi.
Cổng (2) vào khu nhà Cụ
Chánh Lễ, phía bên trái cổng (2) có một dăy nhà ngói, sau nhà Cụ
Chánh Lễ có hàng rào găng, được trồng để ngăn cách giữa nhà cụ Chánh
Lễ với nhà ông bà Chuẩn bên cạnh. Cổng (2) đi thẳng vào sân gạch
phía trước nhà chú thím Nghị. Hai dăy nhà này th́ nền thấp, từ sân
bước lên chỉ cao khoảng 1 hay 2 bậc. Dăy nhà Cụ Chánh Lễ và dăy nhà
chú thím Nghị, nối liền góc vuông thước thợ với nhau theo h́nh chữ L
ngược.
Mồ Mả Tổ
Tiên tác giả
Nhà Thờ An
Thái
Giáo Họ An
Thái
Dọc theo bờ sông có con
đường Cái nối liền các làng, từ Hoàng Nông sang Lác Trại. Làng An
Thái của tôi nằm ở giữa khoảng đường này và có con đường rẽ xuống
nhà tôi và nhà thờ An Thái. Vừa rẽ xuống đường làng th́ gặp ngay cái
hồ sen ông Thánh phía bên trái cuối nhà thờ giáo họ. An Thái nhận
Thánh Giuse thợ làm quan thầy, lễ kính hàng năm vào tháng Năm. Do đó
gia đ́nh chúng tôi cũng nhận Thánh Giuse làm Thánh Bổn Mạng.
Quê tôi là một họ lẻ của
giáo xứ Nam Lỗ, thuộc giáo phận Thái B́nh và có cái tên rất hiền ḥa
là An Thái. Theo lời kể của Bố Mẹ tôi. Tổ tiên tôi là những người
tân ṭng Công Giáo, nhưng v́ nhờ phước đức ông bà, cho nên gịng họ
làm ăn khá giả. V́ thế cụ Hậu Thứ là ông Cố Nội của tôi và là thân
sinh của các các Cụ Lang Khiêm và Cụ Chánh Lễ đă tự xuất tiền túi ra
xây nhà thờ An Thái để cảm tạ Thiên Chúa v́ đă cho các cụ t́m biết
Chúa. Nhà thờ được 2 cụ Lang Khiêm, cụ Chánh Lễ và Bố tôi trông coi,
bảo quản cho đến ngày di cư vào Nam 1954, th́ bỏ nhà thờ và tất cả
tài sản lại sau lưng.
Gia đ́nh chúng tôi cũng có
ruộng đất thâm canh và thuê mướn người canh tác. Thỉnh thoảng tôi
theo Bố Mẹ và các chị ra ruộng đạp guồng, tát nước lên ruộng và đem
cơm nước cho các cô, chú canh nông. Nhưng đồng ruộng chỉ là nghề phụ,
c̣n gia đ́nh chúng tôi sống bằng nghề chính là nghề thầy thuốc Đông
Y, chuyên bào chế thuốc gia truyền, chữa trị cho các bệnh nhân để
“Cứu nhân độ thế”.
Nội tôi, được song than là
Cụ Hậu Thứ gửi sang Tàu theo học ngành Đông Y. Cụ Lang Khiêm có 3
người con là: Bác Trùm Dậu gái, nhà ở gần nhà thờ Nam Lỗ, bác Lư
Việt gái nhà ở Phục Lễ và Bố tôi. Nội tôi là người đức độ nổi tiếng,
mát tay đă cứu chữa cho nhiều bệnh nhân. Dân làng, xă, huyện nhiều
người kính nể. Cụ là Thầy thuốc giỏi, chuyên bắt mạch, khám bệnh,
phê toa. C̣n Bố tôi th́ trông coi pḥng thuốc, chuyên bốc thuốc theo
toa cho các bệnh nhân từ pḥng mạch ông Nội chuyển qua. Bà Nội và Mẹ
tôi th́ lo luyện thuốc hoàn tán và thuốc tễ. Ông Nội và Bố tôi đều
thông thạo nho học, đọc thông viết thạo Hán văn.
Ngày c̣n nhỏ, cha Liêm và
tôi, hai anh em chúng tôi lén bốc trộm thuốc tễ đang phơi của bà Nội
và Mẹ tôi ăn vụng, suưt chết. Cha Liêm bị trúng thuốc, lở hết cả
người, c̣n tôi th́ bị tiêu chảy đến nỗi lơm sâu cả 2 con mắt. May
nhờ có ông Nội cho uống thuốc giải kịp thời, nên đă thoát khỏi lưỡi
hái tử thần.
Ông Nội tôi là Cụ Lang
Khiêm qua đời khi tuổi c̣n trẻ, v́ bị Tây càn, bắt đi tải đạn nặng
nề và bị đánh đập tàn nhẫn, khiến Cụ bị chấn thương, bệnh nặng rồi
qua đời, trong lúc đó Bố tôi cũng bị Tây càn, bắt đi lao động biệt
tăm tích gần 2 năm trên vùng cao. Khi ông Nội tôi chết, Bố tôi c̣n
đang bị giam ở Yên Phụ, Yên Tử, Bắc Giang.. Sau này Bố tôi vượt tù,
chạy bán sống, bán chết, trốn về được đến nhà.
Ngày an táng Ông Nội tôi là
một ngày rất đau buồn, v́ lối xóm không ai dám tụ tập đông người, sợ
Tây về làng càn quét bắt đi. Mẹ tôi thắt cho tôi chiếc khăn tang,
quấn tṛn trên đầu, rồi tôi cũng ngẩn ngơ khóc như mọi người, đi
theo sau quan tài của Ông lên nhà thờ, cùng với mọi người đọc kinh
cầu nguyện, rồi đem Ông ra chôn cất phía bên hông trái nhà thờ An
Thái, kế bên mộ song thân của Ông là 2 cụ Hậu Thứ.
Qua nhiều biến cố thời đại,
sau 1975 nhà thờ An Thái bị xuống cấp trầm trọng. Ban Hành Giáo của
giáo họ đă gửi thư sang Úc, đề nghị gia đ́nh chúng tôi trợ giúp
trùng tu lại Thánh Đường và bốc hài cốt các Cụ, cải táng lên khuôn
viên phía bên phải nhà thờ An Thái chôn cất lại như ngày nay, để ǵn
giữ di tích lịch sử, ghi nhớ công ơn của các Cụ đă xây dựng lên nhà
thờ giáo họ An Thái. Chúng tôi đă làm theo lời yêu cầu của Ban Hành
Giáo An Thái.
Khi c̣n nhỏ, tôi vẫn theo
ông chú của tôi là Cụ Chánh Lễ vào nhà thờ An Thái vây lưới bắt chim
sẻ. Bày chim sẻ thường hay chui qua các lỗ cửa sổ, gần mái nhà thờ.
Chúng bay vào trong nhà thờ làm tổ và đậu trên các bàn thờ, tượng
ảnh, phóng uế bừa băi, dơ dáy các nơi thờ phượng, nên Cụ Chánh Lễ
thỉnh thoảng huy động con cháu, vây lưới bắt chim làm thịt đánh chén.
Cụ sai chúng tôi đóng hết các cửa lại, vây lưới chung quanh các cửa
sổ, rồi lùa cho chim bay, dính vào lưới. Chúng tôi bắt được cả 100
con, bỏ vào lồng đem d́m chúng xuống dưới nước cho chết, rồi nhúng
vào nước sôi nhổ lông, mổ bụng làm sạch sẽ, thịt bằm nhuyễn với hành
tiêu, mộc nhĩ, rồi vo lại thành viên, bỏ vào nồi nấu măng miến cùng
với tim, gan, ḷng ruột. Món chim sẻ nấu miến ăn rất ngon và khóai
khẩu.
Ngày nay, mặc dù ở một
phương trời xa, dưới tận cùng của trái đất, cách quê nhà cả hàng
chục ngàn dặm, nhưng cứ mỗi lần nhắc nhớ đến quê hương, tổ tiên, là
tôi lại thèm “món chim sẻ nấu măng miến và mút những trái vải, nhăn
lồng, có vỏ bóng láng trong khu vườn của gia đ́nh tôi, quê hương An
Thái”
Hồi đó, mỗi sáng Chúa Nhật
chúng tôi phải sang quê ngoại, nhà xứ Nam Lỗ để tham dự Thánh Lễ,
đường sang quê ngoại phải qua sông bằng con đ̣ ngang của nhà ông
Thận, hay c̣n gọi là bến đ̣ Sổ. Có khi chị em chúng tôi rủ nhau đi
sang nhà Ngoại sớm vào chiều thứ Bảy chơi, rồi ngủ tối bên đó, để
sáng Chúa Nhật đi Lễ cho tiện và gần. V́ Lễ sáng Chúa Nhật được cử
hành rất sớm khoảng 4 hoặc 5 giờ sáng. Lễ xong, mà trời vẫn c̣n tối.
Tôi c̣n nhớ, sau khi tan Lễ,
ra khỏi nhà thờ, th́ nh́n thấy hai bên đường đi vào nhà thờ, người
ta bày rất nhiều nia, thúng để bán hàng, trong các nia có để các
thức ăn và rau, quả như: Thịt trâu, ḅ hay thịt lợn, bánh, rau qủa,
cá múa, tôm tép mới bắt được. Trên những chiếc nia được lót một lớp
lá chuối xanh, bày bán thịt, tiết canh ḷng lợn, tôi nh́n thấy mà
phát thèm, nhỏ răi. Các tô tiết canh được mấy ông hàng xáo, đánh rất
nghệ thuật, tiết đông đến nỗi họ úp ngược tô xuống nia mà tiết vẫn
không rớt ra khỏi tô.
Mỗi lần sang nhà ông Ngoại,
chúng tôi thường ra sân cuối nhà thờ Nam Lỗ vui chơi đuà giỡn. Phía
cuối nhà thờ Nam Lỗ có một bức tường và tháp chuông cao, dưới bức
tường có những cái cửa, phía trên h́nh tṛn. Chúng tôi rủ nhau chui
qua, chui lại và chơi tṛ năm mười, ẩn núp, t́m bắt.
Thỉnh thoảng chúng tôi được
quan sát ông Cận giật chuông, ông Cận có tật ở chân, nên ông phải đi
khập khễnh. Mỗi khi ông kéo dây chuông xuống, th́ quả chuông lại
văng lên, kéo theo sợi dây chuông và người ông cũng đu lên theo quả
chuông, nh́n rất buồn cười.
Theo Bố Mẹ tôi kể lại, th́
tôi chào đời tại quê hương An Thái và được bế sang nhà thờ xứ Nam Lỗ
cho cha Giuse Phạm Hữu Đoàn rửa tội, lúc đó có thầy Điều con thiêng
liêng của cha Đoàn c̣n đang giúp xứ, thầy Điều hiện nay là cha già
cố Đa Minh Nguyễn Trinh Đức đă cao tuổi và bị lăng trí, đang nghỉ
hưu dưỡng ở giáo xứ Thánh Tâm, kênh B2, Cái Sắn, giáo phận Long
Xuyên.
Lúc chị em chúng tôi lớn
khoảng 4 hay 5 tuổi, th́ Bố Mẹ cho chúng tôi gia nhập vào đoàn nghĩa
binh của giáo xứ, do ông Quản Bột làm quản giáo nghĩa binh, coi sóc
chúng tôi. Ông Bột có liên hệ bà con với Mẹ tôi, tôi gọi bằng bác
Bột, ông cũng là là em ruột của bà Chánh Lễ, bà thím của tôi. Tướng
tá bác Bột cao ráo giống như Tây lai. Thời kỳ cải cách ruộng đất sau
1954, bác bị ṭa án nhân dân địa phương kết tội ǵ đó.....rồi đem
Bác đi xử bắn. Bác bị chết oan. Nghe đâu sau này, nhà nước xin lỗi
và phục hồi nhân phẩm cho Bác. Cũng tội nghiệp cho bác Bột của tôi.
Những năm gần di cư vào Nam
1954, th́ bác Trùm Viêm, bố của Cha Sơn làm trùm chánh trương xứ Nam
Lỗ, bác trùm Viêm gái là con của bà Lư Ngàn. Bà Ngoại tôi và bà Lư
Ngàn là chị em ruột, bác trùm Viêm gái với Mẹ tôi là chị em đôi con
d́. C̣n bác trùm Viêm trai là con cả của Cụ Chánh Chuẩn, nhà bác ở
phía bên phải, đối diện nhà thờ Nam Lỗ, Đồng Mư. Nhà Ông Ngoại tôi
th́ ở phía bên trái, gần góc sân, cuối nhà thờ xứ. Đối diện nhà ông
Ngoại tôi là nhà bác Báo. Bác Báo và Mẹ tôi cũng là con d́. Đàng sau
nhà ông Ngoại tôi là nhà ông phó Đoán, rồi đến nhà bác Bột có các
anh Quyền, Hy, Vọng …con bác.
Bà Ngoại tôi mất khi Mẹ tôi
c̣n rất nhỏ, lúc đó cậu Huấn, cậu út của tôi chưa đầy một tuổi. Bà
Ngoại tôi qua đời, ông Ngoại tôi hăy c̣n ở lứa tuổi thanh niên, mới
có 27 tuổi. Cụ ở vậy, gà trống nuôi con, nuôi 3 chị em Mẹ tôi là:
bác Hữu gái 5 tuổi, Mẹ tôi 3 tuổi và cậu Huấn chưa đầy 1 tuổi. Ông
Ngoại tôi tần tảo, vất vả nuôi con, sau này ông phải nhờ cậy đến bà
Sinh là bà chị ruột của Ông Ngoại, cũng là bà Ngoại của cha Thỏa và
bà Cần vào phụ giúp trông coi 3 chị em Mẹ tôi. Tôi cảm phục Ông
Ngoại tôi, một thanh niên có chí khí nam nhi với ḷng chung thủy phu
thê đáng khâm phục. Ông thủ tiết nuôi các con cho đến ngày lâm trọng
bệnh, qua đời tại nhà tôi trên Sàig̣n năm 1971, thọ 79 tuổi.
Đi học
miền Bắc
Khi lớn lên khoảng 3 hay 4
tuổi, chị em chúng tôi được Bố chở lên tỉnh Thái B́nh mua cho mỗi
đứa một cái cặp gỗ, loại cặp như cái hộp nhỏ chừng 4 tấc vuông, có
chân gấp xéo, giống cái bàn của mấy anh bán kẹo kéo.
Mỗi buổi sáng chị em chúng
tôi, ăn cơm nước xong, đeo cặp, đi bộ sang làng Lác học, chúng tôi
phải đi qua Mả Vừa (nghĩa địa) làng Lác. V́ c̣n nhỏ hay sợ ma, cho
nên mỗi khi đi qua nghĩa địa, tôi cảm thấy người hơi rờn rợn tóc gáy.
Trường làng là một căn nhà
ngói, thô sơ của thầy giáo Sánh, căn nhà này đă từng bị bom của Tây
đánh sập. Tất cả các học sinh đều phải ngồi xếp bằng trên các manh
chiếu rách để học, ḅ chổng mông lên viết bài, ngoại trừ mấy chị em
tôi có bàn viết. Sau giờ học chúng tôi về nhà đóng cổng, chơi với
nhau trong sân, không được ra ngoài lêu lổng.
Hồi đó, trong làng chỉ ḿnh
Bố tôi có chiếc xe đạp, nên Bố tôi giữ rất kỹ. Lúc bấy giờ, xe đạp
là loại hiếm quí, nó được coi là vật xa xỉ, giống như nhà giầu có
cái xe hơi hiệu Mercedes bây giờ và c̣n qúi hơn nữa.
Với những kỷ niệm lưu luyến,
Bố tôi thường dùng xe đạp, đèo 2 anh em chúng tôi lên tỉnh Thái B́nh
dạo chơi và mua sắm các đồ dùng cần thiết cho gia đ́nh. Xe đạp kiểu
đàn ông, được Bố tôi buộc thêm một cái ghế mây nhỏ, cột chặt vào
khung phía trước xe, gần sát ghi đông (tay lái). Ghế loại trẻ con
này dành cho tôi ngồi. C̣n chiếc bargar phía sau dành cho cha Liêm.
Mấy Bố con chúng tôi cũng thường hay lên Thái B́nh vào tiệm chụp
h́nh, chụp những tấm h́nh kiểu với chiếc xe đạp, để kỷ niệm. Khi di
cư vào Nam, gia đ́nh chúng tôi mang theo được những tấm h́nh này,
nhưng một thời gian sau, căn nhà ở dinh điền Cái Sắn, tỉnh Long
Xuyên của chúng tôi bị băo lụt, nên những tấm h́nh quí giá này bị
hủy hoại hoàn toàn. Năm 1954, lúc trốn khỏi làng, di cư, gia tài Bố
con tôi chỉ đem theo độc nhất có chiếc xe đạp. Ra đến tỉnh Hải Dương,
Bố tôi đă phải bán nó, để lấy tiền độ đường, mua vé tàu hỏa xuống
Hải Pḥng.
Di cư
Cũng 1954, sau vụ cải cách
ruộng đất, có những kẻ ác cảm muốn chiếm đoạt tài sản của gia đ́nh
chúng tôi, chúng đă xếp gia đ́nh chúng tôi vào loại địa chủ, chuẩn
bị đưa gia đ́nh chúng tôi ra đấu tố. Mặc dầu Cha, Ông chúng tôi chỉ
là những thầy thuốc Đông Y chuyên lo “Cứu Nhân Độ Thế”. Hơn nữa Ông
Nội và Bố tôi đă bị Tây càn, bắt đi lao động, giam giữ gần 2 năm tại
vùng rừng sâu nước độc măi tận Bắc Giang..
Trong thời điểm 1954. Dân
chúng được thông tin, ai muốn đi vào Nam th́ tập trung, rồi sẽ có
cán bộ hướng dẫn ra đi, do đó dân làng kéo nhau xuống bến đ̣ Gồ Láo,
làng Lác, bên kia sông là làng Sốc để vượt sông di cư. Nhưng trên
thực tế, các cán bộ thôn, xă đă được chỉ thị bằng mọi cách giữ dân
lại. Khi dân chúng tập trung tại bến đ̣ ngang để qua sông t́m đường
ra Hải Dương, Hải Pḥng, th́ cán bộ cho dấu đ̣ ngang và tuyên truyền
để đồng bào giải tán trở về nhà làm ăn, xóa bỏ ư định dời quê hương.
Bố tôi trốn trại tù của Tây
về nhà được vài tháng th́ lại bị Ủy Ban thôn xă, bắt đi nhân công
tải đạn tiếp tế vào Nam. Sau nhiều lần tập trung họp tại đ́nh làng
An Thái để xác định bổ xung công tác. Vào một đêm không trăng sao,
khoảng 1 hay 2 giờ sáng, bố tôi đă xé rào, trốn khỏi làng, chỉ dẫn
có một ḿnh tôi đi theo. Lư do chúng tôi phải xé rào trốn đi, v́ dân
quân họ gác chặn các nơi đầu làng, xó chợ, để giữ dân lại.
Cha con tôi vượt thoát khỏi
làng, đạp xe đến cầu đổ Quỳnh Côi, lúc đó trời mới tờ mờ sáng, th́
ngă xe xuống ruộng, ướt hết cả người, tôi rét run cầm cập. Bố tôi
cởi hết quần áo của tôi ra, vắt sạch nước cho khô, rồi mặc lại cho
tôi. Ra tới Hải Dương th́ đă trưa, Bố tôi vào đồn Tây xin cơm cho
tôi ăn. Tôi nh́n thấy tên Tây đen th́ khóc thét, ôm chặt lấy Bố tôi.
Sau đó Bố tôi đi t́m người mua, gạ bán chiếc xe đạp để lấy tiền độ
đường, mua vé tàu hỏa đi xuống Hải Pḥng.
Tới Hải Pḥng, hai cha con
tôi vào tạm trú ở trại tỵ nạn, căng Thượng Lư để đợi Mẹ tôi. Chừng 1
tuần sau, th́ Mẹ tôi dẫn được bà Nội, chị Lạc tôi, cha Liêm và em
trai tôi 1 tuổi và người chị họ cùng trốn thoát được đến Hải Pḥng.
Hai cha con tôi gặp lại gia đ́nh th́ mừng rỡ. Thế là ngày hôm sau
chúng tôi bồng bế nhau xuống tàu “Há Mồm” di cư vào Nam ngay, v́ sợ
ở lại Hải Pḥng lâu, có thể sẽ bị đuổi về An Thái.
Lên Tàu Thủy dời bến Hải
Pḥng, sau 3 ngày, 3 đêm lênh đênh trên biển cả, tàu chúng tôi đă
cặp bến cảng Sàig̣n. Mọi người xuống tàu, được đoàn xe cam nhông chờ
sẵn, chở chúng tôi lên trại định cư Lạc An, Tân Uyên, Biên Ḥa. Nơi
đây đă có sẵn nhà cửa, được làm bằng cỏ tranh do chính phủ Việt Nam
Cộng Ḥa miền Nam xây dựng sẵn cho đồng bào di cư.
Xuống xe chúng tôi phải qua
phà để sang trại Lạc An phía bờ bên kia thượng nguồn sông Đồng Nai.
Nơi đây đă có hàng chục ngàn người di cư đến trước chúng tôi. Chúng
tôi t́m kiếm những người gốc giáo xứ Nam Lỗ như: Sổ làng, Lác Làng,
An Thái, Sốc v.vv.. tụ họp nhau lại, rồi đi vào xa và sâu hơn để
nhận nhà. V́ chúng tôi đến sau các giáo xứ khác.
Đến trại Lạc An, Tân Uyên,
Biên Ḥa, chúng tôi như rắn không đầu, cố gắng qui tụ lại với nhau,
lập thành nhóm đồng hương giáo dân gốc xứ Nam Lỗ, rồi cùng nhau xây
dựng lên nhà thờ, lập thành giáo họ Nam Lỗ, Lạc An để tưởng nhớ quê
hương. Tôi thấy chưa bao giờ chúng tôi có sự đoàn kết, thân t́nh
đồng hương, như những lúc phải xa quê hương như thế này..Giáo họ Nam
Lỗ, Lạc An chúng tôi được sát nhập vào giáo xứ Vạn Đồn, Lạc An do
cha Phêrô Mai Trí Thuật làm quản xứ. Kế bên giáo họ Nam Lỗ là giáo
xứ Cao Xá, Lạc An do Cha già Khuông quản xứ, Ngài ghiền ăn trầu. Tôi
c̣n nhớ Cha già Khuông có 2 người con linh tông là thầy Khang và
thầy Khải. Thầy Khang đỗ linh mục vào thập niên 60, h́nh như sau đó
được về làm quản xứ giáo xứ Thái B́nh, Xóm Mới, G̣ Gấp, Sàig̣n và
thầy Khải sẹo, xuống Cái sắn Kinh B theo cha Tân giúp xứ B́nh Cát (Thái
B́nh, Sa Cát) vài năm, thầy Khải đỗ linh mục thuộc giáo phận Cần Thơ
rồi được cử đi làm quản xứ giáo xứ Ḥa Tú, Cổ C̣, Sóc Trăng.
Ngoài ra Cha Đoàn c̣n dẫn
theo một số đông giáo dân gốc nhà xứ Nam Lổ vào vùng rừng núi Bà Nhă,
Bời Lời, Trảng Bảng, Tây Ninh định cư, thành lập lên giáo xứ mới Nam
Lỗ, Bời Lời, Tây Ninh.
Xuống
miền cực Nam lập nghiệp
Định cư ở 2 vùng Lạc An và
Bà Nhă, Bời Lời được gần 2 năm. T́nh h́nh kinh tế làm ăn khó khăn,
chỉ trông cậy vào nghề thủ công nghệ. Thanh niên, đàn ông phải vào
tận rừng sâu nguy hiểm: chặt tre, đốn giang, đóng bè lao xuống sông,
thả trôi theo ḍng nước về trại, vớt lên: chẻ tre, vót nan, đan, lát,
thành thúng mủng, rổ rá, giao cho con buôn đem về Sàig̣n bán. Hàng
ngày dân chúng chỉ ngóng cổ, trông cậy vào viện trợ lương thực của
giáo hội Công Giáo Hoa Kỳ, nên Đức Cha Phạm Ngọc Chi giám đốc đặc
trách phong trào di cư, đă liên lạc với Phủ Tổng Ủy Di Cư của chính
quyền miền Nam, xin cho di dân xuống các dinh điền thuộc vùng đồng
bằng sông Cửu Long, miền Tây như: Mộc Hóa, Sóc Trăng, hay Cái Sắn,
Rạch Giá, Long Xuyên.
Thế là cuộc di cư vĩ đại
lần thứ 2 lại được thực hiện vào năm 1956. Tât cả bà con đồng bào
thuộc trại Lạc An ai muốn đi xuống vùng nông thôn lập nghiệp th́
chuẩn bị xuống tàu, di cư xuống tận cùng của miền Nam nước Việt. Gia
đ́nh chúng tôi cũng nằm trong diện của hàng chục ngàn dân di cư này.
Lại bảo nhau thu dọn, bồng bế xuống chành lúa do chính phủ thuê bao
để xuôi Nam.
Miền Nam gọi là “Chành Lúa”
là những chiếc thuyền khổng lồ chở thóc, lúa. Mỗi chiếc có trọng tải
được hàng ngàn tấn thóc. Cứ mỗi chiếc chở được khoảng 100 gia đ́nh.
Mỗi một đoàn Chành Lúa gồm 10 chiếc, do một chiếc tàu thủy có máy
lớn kéo đi. Vị chi cứ mỗi lần 10 chành luá như vậy, th́ đă di chuyển
được cả ngàn gia đ́nh xuống Cái Sắn, Long Xuyên, Rạch Giá.
Xuống Cái Sắn vào đầu năm
1956, nh́n thấy sông ng̣i, kênh rạch chằng chịt, cánh đồng bát ngát,
bao la, ai nấy được thở một không khí trong lành mát mẻ tự do. Chính
phủ miền Nam đă đào kênh dẫn nước, chia cắt ruộng đất và làm nhà cửa
sẵn sàng cho dân. Họ cấp phát tiền và viện trợ lương thực hàng ngày
cho từng nhân khẩu và chia cho mỗi gia đ́nh một thửa đất chiều ngang
30 mét tây, chiều dài 1 cây số 200 mét, (30m x 1,200m = 36,000m
vuông) khoảng gần 4 mẫu tây ruộng, độ chừng 26 công tầm cắt, (kiểu
đo ruộng của người dân miền Nam. Mỗi công tầm cắt rộng khoảng 3 sào
6 miền bắc) và cứ 3 gia đ́nh th́ được cấp phát cho một con trâu.
Ruộng đồng thẳng cánh c̣
bay, ai nh́n cũng ngán. So sánh với miền bắc, mọi người ai cũng thắc
mắc, sao mà chính phủ cho ruộng nhiều thế, làm sao mà cày cấy cho
hết, chắc phải bỏ hoang.
Người dân di cư c̣n đang
hoang mang v́ nhiều ruộng đất, th́ chính phủ cho đội máy cày cả 100
chiếc xuống, cầy ruộng khai hoang cho đồng bào, phát thóc giống cho
bà con gieo mạ cấy cày. Đội cán bộ canh nông đến hướng dẫn bà con xạ
lúa theo kiểu miền Nam, chứ không cấy lúa theo kiểu miền bắc và cũng
không phải tát nước be bờ. Chỉ cần cầy ruộng lên, rắc thóc xuống
ruộng, cho máy bừa lại một lần, trời mưa xuống là lúa mọc lên. Lúa
mùa mọc lên theo mực nước sông Cửu Long, nước dâng lên tới đâu, lúa
mọc lên tới đó. Nước dâng lên tràn ngập cánh đồng trong 6 tháng. Khi
nước rút xuống th́ lúa chín, người dân chuẩn bị gặt lúa. Họ chỉ cần
dùng cái liềm cắt bông lúa, c̣n rạ bỏ lại cánh đồng, đốt làm phân
tro.
Dân di cư cảm thấy vui mừng
phấn khởi, v́ cách làm ruộng của nông dân miền Nam thật dễ dàng,
không vất vả như làm ruộng ở miền bắc, mà lại gặt được nhiều thóc
luá. Mỗi năm, trung b́nh mỗi gia đ́nh có thể thu hoạch được 400 dạ
lúa (Mỗi dạ 2 thùng, mỗi thùng 20 lít) khoảng 800 thùng thóc. Nếu
đem so sánh với một gia đ́nh miền bắc th́ người di cư giầu có và
sung sướng. Chẳng bao lâu người dân di cư vào Nam đă tái lập lại đời
sống, trở nên phồn vinh. Các nhà xứ và giáo đường bắt đầu mọc lên
nguy nga và tráng lệ. Song song với sự phát triển đó, giáo dân gốc
giáo xứ Nam Lỗ đă qui tụ lại với nhau thành lập lên những giáo họ,
hoặc giáo xứ gốc Nam Lỗ.
Riêng kênh B2 vùng Cái Sắn,
các gia đ́nh gốc Nam Lỗ đă qui tụ lại thành một khu, xây cất lên nhà
thờ giáo họ Nam Lỗ, kênh B.
Sau khi Đức Cha Nguyễn Khắc
Ngữ về thành lập giáo phận Long Xuyên, Ngài chia cắt, phân định lại
ranh giới các giáo xứ cho rơ ràng, mạch lạc. Ngài phân chia mỗi kênh
làm 2 giáo xứ (Mỗi kênh dài 12 cây số, Đức Cha phân chia mỗi giáo xứ
6 cây số chiều dài, cắt ngang kênh bằng Kênh Đ̣n Giông). Do đó giáo
họ Nam Lỗ kênh B phải lệ thuộc theo giáo xứ có tên mới là Thánh Tâm.
Kinh B có đông giáo dân từ nhiều giáo xứ gốc giáo phận Thái B́nh.
Nên Giáo họ Nam Lỗ theo qui định ranh giới mới, qui tụ giáo dân của
nhiều xứ khác miền Bắc gom lại, nên giáo dân đă bầu lại Ban Hành
Giáo và biểu quyết đổi tên mới là giáo họ Hợp Tiến, để thể hiện tinh
thần đoàn kết, xóa bỏ tên cũ Nam Lỗ từ đấy. Giáo họ Hợp Tiến có một
½ số giáo dân là gốc Nam Lỗ di cư, bây giờ trực thuộc giáo xứ mới
Thánh Tâm do cha Đa Minh Nguyễn Trinh Đức (thầy Điều) con cha già
Đoàn Nam Lỗ làm chánh xứ.
Đối diện kênh B là kênh
Rivera, giáo dân gốc Nam Lỗ cũng đông, do cha Đoàn dẫn dắt, đă thành
lập nên giáo xứ Nam Lỗ, nhưng giáo xứ này lại có đông giáo dân thuộc
các giáo xứ khác ngoài miền bắc di cư cũng thuộc giáo phận Thái B́nh
cùng chung một khu, nên Cha Đoàn phải họp Hội Đồng Giáo Xứ lại, đổi
tên mới là B́nh Nam (do cái tên Nam Lỗ và Thái B́nh gom lại) cho có
sự thống nhất và đoàn kết. Giáo dân kênh Rivera theo chân cha Đoàn,
th́ đa phần là gốc thuộc họ nhà xứ Nam Lỗ ngoài bắc..
Khi Đức Cha Ngữ phân chia
lại giáo xứ. Gx B́nh Nam không nằm trong địa bàn qui định, nên bị
mất xứ, xóa sổ. Cha Đoàn phải ra đi xuống kinh 8, gần tỉnh Rạch Giá,
Kiên Giang để thành lập giáo xứ mới. Một vài gia đ́nh gốc Nam Lỗ
cũng theo Cha Đoàn xuống kênh 8 và kênh 7 lập nghiệp.
Hàng năm các con chiên gốc
giáo xứ Nam Lỗ như kinh B, kinh Rivera tổ chức thuê đ̣ máy, rủ nhau
xuống chúc Tết cha già Đoàn. Đặc biệt Cha già Đoàn, Ngài ghiền thuốc
lào, nên lúc nào cũng có cái điếu để trên bàn nơi pḥng khách. Ai
vào thăm, Ngài chào một câu, rồi kéo ngay cái điếu lại, bắn một bi
thuốc lào xong, khà một cái cho đă, rồi mới nói chuyện tiếp khách.
Lên
Sàig̣n
Sinh sống ở Cái Sắn, Long
Xuyên được vài năm, đến năm 1962, một trận đại hồng thủy đă tràn
ngập khắp nơi trên vùng đồng bằng miền Tây sông Cửu Long, tàn phá
hoa màu, nhà cửa ruộng vườn của người dân nông thôn. Gia đ́nh chúng
tôi đành bỏ Cái Sắn bồng bế nhau lên Sài G̣n lập nghiệp và buôn bán,
để lại ruộng đồng cho người thân trông coi, một chốn hai nơi. Tuy
sinh sống ở Sàig̣n nhưng hàng năm chúng tôi vẫn về Cái Sắn ăn Tết và
thu hoạch lúa mùa.
Đến năm 1975, sau biến cố
30 tháng Tư. Th́ gia đ́nh tôi từ từ chuyển nhượng tất cả nhà cửa,
ruộng đất Cái Sắn cho cậu Huấn em út của Mẹ tôi.
Vượt
biển đến Úc
Sau biên cố 30 tháng 4 năm
1975. Gia đ́nh chúng tôi có cửa hàng buôn bán tạp hóa tại Sàig̣n,
nhưng đă bị chính quyền giải phóng tịch thu, xếp vào loại tư sản,
nên họ đă cho đội dân pḥng đến niêm phong cửa hàng và tịch thu, lấy
đi tất cả hàng hóa của gia đ́nh tôi.
Thế là sau hơn 20 năm thắt
lưng buộc bụng, làm ăn buôn bán ở miền Nam, gia đ́nh chúng tôi bây
giờ lại trở nên trắng tay, vô sản. Anh em chúng tôi không được tiếp
tục đi học nữa, mà phải tham gia vào lực lượng lao động, đi kinh tế
mới. Chúng tôi đă bôn ba lên các vùng kinh tế mới, để t́m nơi lập
nghiệp dung thân, nhưng chúng tôi đă hoàn toàn thất vọng.
Người dân kinh tế mới sau
1975 phải dùng sức lao động, tự tay phá hoang rừng rẫy, bằng những
dụng cụ thô sơ thời đồ đá, không máy móc, không được sự giúp đỡ của
chính quyền hay bất cứ cơ quan nào. Chỉ ra sức lao động cật lực để
phá hoang, kiếm sống, t́m cây dựng lều, che nắng, che mưa, nằm gai
nếm mật, trong nỗi buồn tuyệt vọng.
Tôi quyết định trở về thành
phố và t́m đường vượt biển đi t́m tự do. Sau những tháng năm, lặn
lội, trốn tránh, lùng kiếm mua ghe, thuyền, đem vào ụ thuê người sửa
chữa, lắp máy, rồi kín đáo cất dấu kỹ lưỡng một nơi, chờ thời cơ,
chọn một đêm tối tăm, mù mịt không trăng sao, hẹn giờ tụ tập xuống
thuyền vượt biển trốn thoát, cũng như lúc di cư năm 1954.
Vượt thoát khỏi Việt Nam
cuối năm 1979. Chúng tôi cập vào bến bờ đất nước Mă Lai và được Cao
Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đón tiếp, rồi cho chúng tôi xuống tàu, đưa
sang trại tỵ nạn trên đảo Pulau Bidong, Mă Lai tạm trú và bao bọc
trợ cấp. Ở trên đảo Pulau Bidong khoảng 3 tháng, th́ chúng tôi được
phái đoàn Cao Ủy Tỵ Nạn Úc nhận, cho sang Úc Châu định cư.
Đặt chân xuống phi trường
thành phố Adelaide, Nam Úc, như từ đáy giếng được vớt lên. Chúng tôi
được nhân viên Bộ Di Trú và các cơ quan Từ Thiện di cư ra đón tiếp
rất nồng hậu. Họ đưa chúng tôi vào trại tạm cư Pennington Hostel,
tạm trú. Cứ 2 người độc thân th́ nhận 1 pḥng ngủ riêng biệt, sau đó
lên hội trường làm thủ tục tái khám sức khỏe và lănh tiền trợ cấp xă
hội. Họ nuôi nấng và phát tiền cho chúng tôi hàng tuần. Ăn uống hàng
ngày đă có Canteen, giống như nhà hàng nấu nướng sẵn cho, cứ việc
xắp hàng đến lấy thức ăn ra bàn ngồi ăn, chẳng khác ǵ một
restaurant sang trọng. Họ giúp đỡ chúng tôi, cho đến khi đủ sức hội
nhập vào xă hội Úc, có thể kiếm được công ăn việc làm.
Hàng ngày chúng tôi được
gửi đến trường, học Anh Văn để giao tiếp với người dân bản xứ. Mỗi
buổi sáng, chúng tôi dậy sớm kéo nhau xuống Canteen ăn sáng rồi đi
học. Chúng tôi vào canteen lựa chọn các thức ăn và nước uống nào mà
ḿnh thích, sau đó nhận phần ăn trưa đem theo đi học. Chiều đi học
về, chúng tôi nghỉ ngơi tắm rửa đi dạo phố, rồi lại kéo nhau xuống
canteen ăn tối.
Thời gian ở Hostel là thời
gian rảnh rỗi, phè phỡn nhất, chúng tôi cảm thấy thật sự sung sướng.
So sánh với đất nước Việt Nam th́ đây là một Thiên Đàng hạ giới, vừa
có cơm ăn, áo mặc lại c̣n được phát tiền tiêu sài hàng tuần. Nhưng
chỉ có một nỗi buồn là nhớ quê hương, thương Cha Mẹ, anh chị em c̣n
bỏ lại VN, thật là đau đớn xót xa.
Anh em chúng tôi ở trong
Hostel một thời gian ngắn, th́ Cha Thụ ḍng Tên Việt Nam, Ngài sang
Úc du học trước kia, đă giúp đỡ, thuê nhà cho chúng tôi ra ngoài ở,
nhường lại các pḥng trong trại tạm cư Hostel cho những đồng bào đến
sau. Chúng tôi mướn một căn nhà có 3 pḥng ngủ, 1 pḥng khách, một
pḥng giải trí với 2 toilets trong nhà, giá thuê $25 dollars/một
tuần, được chính phủ trợ cấp chu đáo, tiền nhà, tiền ăn phát hàng
tuần. Đối với người Việt, th́ dư giả để sống và có thể tiếp tục đi
học lại, hoặc đi t́m việc làm. Vốn liếng Anh Văn của chúng tôi bây
giờ cũng tạm đủ để hội nhập với xă hội Úc. Tôi trở lại trường học,
đi học nghề một thời gian ngắn, sau đó kiếm việc làm. Anh em chúng
tôi đều kiếm được việc làm, trong các công xưởng, ngoại trừ cô em út
Thủy c̣n nhỏ phải tiếp tục đi học.
Khi đă có việc làm, chúng
tôi đủ điều kiện bảo lănh thân nhân sang Úc đoàn tụ. Người đầu tiên
chúng tôi bảo lănh là Bố Mẹ tôi.
Chỉ 2 năm sau ngày tôi đến
Úc, th́ một niềm vui vô tận lại đến cho anh em chúng tôi là nhận
được thư của Bộ Di Trú thông báo, Bố Mẹ của chúng tôi đă được chính
phủ chấp nhận cho sang Úc đoàn tụ và sẽ được đến Úc một ngày rất gần.
Tháng Ba năm 1982. Cả 4 anh
em chúng tôi cùng với một đoàn xe gồm những bạn bè thân quen và gia
đ́nh những người bạn Úc ân nhân, đă hồ hởi lũ lượt kéo nhau ra phi
trường Adelaide chào đón Bố Mẹ tôi sang đoàn tụ, trong nỗi vui mừng,
hân hoan xúc động. Không c̣n nỗi vui mừng nào khôn tả hơn lúc này.
Bố Mẹ tôi đặt chân đến Úc
cũng được hưởng tiền trợ cấp xă hội như mọi người. Đến Úc được vài
tuần, tôi ghi danh cho 2 cụ đi học Anh Văn để bập bẹ chào hỏi, hội
nhập vào xă hội mới, có thể tṛ chuyện với những người bạn Úc láng
giềng chung quanh. Ở bên Úc, thỉnh thoảng Bố tôi cũng giúp đỡ đồng
hương, bắt mạch phê toa cắt thuốc theo đông y cho những ai cần thuốc
Nam để chữa bệnh, tránh sử dụng nhiều thuốc Tây làm cho bệnh nhân
nôn nóng khó chịu. Bố tôi bắt mạch phê toa, hốt thuốc cho họ, lưu
truyền nghề tổ tiên xưa. Bên Úc thuốc bắc, nam rất nhiều, nhưng v́
Tây y hiện đại, đă trấn át ngành Đông Y, nên Bố tôi từ từ lui dần
vào bóng tối. Đến đời chúng tôi th́ tịt luôn mất gốc.
Một bộ sách thuốc của Ông
Nội tôi viết bằng Hán tự cách nay cả 100 năm, bỏ lại miền bắc sau
ngày di cư vào Nam năm 1954, bác Phúc bên nhà xứ Nam Lỗ đă sang An
Thái thu gom về nhà và lưu giữ cho đến khi Bố Mẹ tôi từ Úc về thăm
lại quê hương An Thái lần đầu tiên sau hơn 40 năm xa cách. Bác Phúc
đă trao lại toàn bộ sách qúi này cho Bố tôi đem về Úc làm gia phả.
Hiện nay Bố tôi c̣n lưu giữ trong nhà. Có lẽ đến đời chúng tôi, th́
chỉ c̣n nước đóng ḥm, cất làm kỷ vật.
Nghĩ lại thời xa xưa, lúc
chúng tôi đến Úc chỉ vỏn vẹn có một cái giỏ nhỏ và mỗi một bộ quần
áo do Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ phát, trước ngày lên máy bay dời Mă Lai. Thế
mà giờ đây chúng tôi đă an cư lạc nghiệp và làm lại cuộc đời, c̣n
hơn cả lúc ở bên Việt Nam với tuổi trẻ thanh xuân đầy sức lực. Chắc
có lẽ chúng tôi được may mắn là nhờ phúc ấm của Ông Bà Tổ Tiên, đă
bỏ công sức xây dựng nhà thờ An Thái để cảm tạ hồng ân Chúa, một cái
Zen trong máu lưu truyền lại cho chúng tôi được hưởng.
Giờ đây nh́n lại khoảng
thời gian trôi qua, bước sang tuổi lục tuần, thời thanh xuân đă hết.
Sư nghiệp đă ổn định trên xứ lạ, quê người. Nỗi niềm hoài hương vẫn
ray rứt trong ḷng chẳng khi nào nhạt phai.
Ôn lại kư ức, dĩ văng: Chôn
rau, cắt rốn từ An Thái. Rèn luyên đức tin và sống đạo thuở ấu thơ
từ giáo xứ Nam Lỗ. Lớn lên từ Cái Sắn, Long Xuyên. Thành nhân từ phố
thị Sàig̣n. Bôn ba tạo lập sự nghiệp ở Úc Châu và c̣n ǵ nữa....
Cuộc đời của gia đ́nh tôi
là những chuỗi thời gian lưu vong biệt xứ. Với tôi chắc cũng sẽ nằm
xuống nơi vùng trời đất Úc cách xa quê hương thăm thẳm. Cái Gen Cha
bỏ xứ, Con bỏ nước ra đi vẫn c̣n tiềm ẩn trong tôi.
“Bố tôi bỏ quê
An Thái, d́u dắt gia đ́nh di cư, xuống măi tận miền cực Nam của đất
Việt định cư”.
“C̣n tôi phải
bỏ nước ra đi, xuống măi tận miền cực Nam của Địa Cầu lập nghiệp”.
Nghĩ về quê hương xứ sở,
thỉnh thoảng tôi mở DVD coi lại chương tŕnh Paris By Night, rồi
ngâm nga, hát bản nhạc:
1954 Cha Bỏ
Quê
1975 Con Bỏ
Nước
Bản nhạc này, ca sĩ Elvis
Phương đă hát cách nay trên 10 năm, để tưởng nhớ lại những ngày dời
xa quê hương.
Một ngày Năm
Bốn (54) Cha bỏ quê xa
Chốn đất chôn
nhau, cắt rốn bao nhiêu đời
…………
Một ngày 54
Cha bỏ Đất Bắc vô Nam,
Dắt díu theo
nhau, vô sống nơi Biên Ḥa
……
Một ngày Bảy
Lăm (75) Con bỏ nước ra đi
Hai mươi năm
là Hai lần ta biệt xứ
……
Và giờ này con
lưu lạc nơi xứ lạ
……………..
Jo. Vĩnh
Lm. Dom Nguyễn Văn Quát
Nguồn : VietCatholic
.........................
Tư liệu Giáo xứ Nam Lỗ
Vài links liên quan đến
Giáo xứ Nam Lỗ
Web Site Giáo Xứ :
http://namlo.conggiao.net Email :
giaoxunamlo@gmail.com
Kỷ
yếu giáo xứ Nam Lỗ
Bấm vào đây
Video Kỷ
yếu giáo xứ Nam Lỗ
Bấm vào đây
Sơ
lược Giáo Xứ - họ nhà xứ
Bấm vào đây
Kỷ
yếu, và hoạt động 11 Giáo họ - Giáo xứ Nam Lỗ
Bấm vào đây
H́nh ảnh các họ giáo, thuộc Nam Lỗ
Bấm vào đây
Hoan ca cảm tạ
Bấm vào đây
Khu vực chia sẻ video
Bấm vào đây
Khu vực h́nh ảnh chính
Bấm vào đây
hay
Bấm vào đây
Các albums chia sẻ h́nh ảnh khác
Bấm vào đây
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
Facebook
Bấm vào đây
Maps - Bản đồ Giáo Xứ Nam Lỗ, và 11 họ giáo thuộc giáo xứ Nam Lỗ
Bấm vào đây
Liên lạc với
Giáo xứ Nam Lỗ
Liên lạc viên : TT Nam Lỗ -
Jos Trần Đức Dũng :
bantruyenthongnl@gmail.com
Liên lạc viên 2 - Jos jHr :
hoahairau@yahoo.com
Liên lạc viên Úc Châu - Jos
Vĩnh :
jovinh_aussie@yahoo.com.au
..............
Tư liệu
của Giáo phận Thái B́nh
I - VỊ TRÍ
Nam Lỗ, c̣n gọi là Sổ,
trước đây thuộc tổng Cao Mỗ, phủ Tiên Hưng, tỉnh Thái B́nh. Ngày
nay, Nam Lỗ thuộc thôn Ái Quốc, xă Hợp Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh
Thái B́nh; cách Ṭa giám mục Thái B́nh khoảng 18 km về hướng Đông
Bắc.
Ngày thành lập: 17.8.1908
Bổn mạng: Đức Mẹ Mân Côi
Số giáo dân : 1420 (9/2014)
Số giáo họ : 11 (9/2014)
Linh mục chính xứ: Phêrô Ch. Trần Duy Điển (9/2014)
Điện thoại:
036-358-3128
Địa chỉ: thôn Ái Quốc, xă Hợp Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh
Thái B́nh.
II - QUÁ
TR̀NH H̀NH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Nam lỗ được các thừa sai
Đaminh từ Sa Cát đến truyền giáo vào đầu thế kỷ thứ XVIII, rồi h́nh
thành nên họ giáo thuộc xứ Sa Cát.
Năm 1908, Đức cha Phêrô
Munagorri Trung chia Sa Cát thành 3 giáo xứ là Nam Lỗ, Sa Cát và
Thái B́nh. Xứ Nam Lỗ gồm 17 họ trên địa bàn 13 xă của hai huyện Đông
Quan và Tiên Hưng.
Năm 1929, Đức cha Phêrô
Trung nâng Giáo họ Duyên Tục thuộc Nam Lỗ lên hàng giáo xứ và cắt
giáo họ Duyên Trang và Kim Ngọc về đó. Năm 1932, Nam Lỗ lập thêm
giáo họ Y Đún.
Sau 1954, họ giáo Lô Xá,
Phú Điền và Kinh Môn thuộc xứ Nam Lỗ bị xoá sổ. Khi đó, Nam Lỗ chỉ
c̣n 12 họ giáo, một đền Đức Mẹ Fatima, với 1.377 giáo dân rải rác
trên bảy xă thuộc hai huyện Đông Hưng và Hưng Hà.
Thời kỳ bách hại đạo, Nam
Lỗ có hai nơi giam giữ các Kitô hữu là Thổ Khối và Trinh Nguyên.
Nhiều tín hữu đă bị xử tại đây. Nhờ gương sáng các vị tử đạo, người
Thổ Khối đă xin ṭng giáo và thành lập Giáo họ Ngói.
Nam Lỗ là một trong những
nơi đóng góp nhiều chứng nhân anh dũng tử đạo, có 14 Hiền phúc đă có
hồ sơ làm án xin phong chân phước. Các ngài là những ngành lá thắm
tưới trong vườn Vạn Tuế Thái B́nh.
Từ 1722 - 2008, Nam Lỗ đă
xây dựng nhiều công tŕnh lớn như: nhà nguyện(1722), nhà thờ (1911),
nhà giáo lư (2008).
Giáo xứ Nam Lỗ gồm có: Giáo
họ Lác Làng, Lác Trại, An Thái, Hoàng Nông, Y Đún, Ngói, Khuốc, Tăng,
Cốc, Sổ Làng và Giáo họ Phạm.
Từ năm 1908 -1954, Nam Lỗ
có các cha coi sóc: cha Phêrô Trứ, cha Phêrô Thiêm, cha Tôma Vũ
Nguyên Sùng, cha Giuse Khuông, cha Giuse Phạm Hữu Đoàn, cha Đaminh
Đinh Đức Trụ.
Từ năm 1954 đến nay có các
cha coi sóc: cha Vinh sơn Nguyễn Khắc Hiếu, cha Gioakim Trần Trọng
Uyên, cha Gioan Baotixita Phạm Ngọc Châu, cha Giuse Bùi Văn Cẩm, cha
Giuse Trần Đức Hạnh, cha Phêrô Nguyễn Kim Toàn, hiện nay là cha
Đaminh Nguyễn Văn Quát.
Giáo xứ Nam Lỗ rất tự hào
v́ đă cống hiến cho cánh đồng truyền giáo nhiều linh mục, tu sĩ đang
phục vụ trong và ngoài giáo phận.
III - TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
Giáo xứ Nam Lỗ được hưởng
nhờ ḍng máu anh hùng tử đạo tại quê hương, v́ thế đời sống đức tin
của giáo xứ luôn vững mạnh.
Các đoàn hội trong giáo xứ
gồm có: hội Gia trưởng, hội Con Đức Mẹ, Huynh đoàn Đaminh, hội Kèn,
hội Trống. Các đoàn hội tích cực hoạt động góp phần thăng tiến đời
sống đức tin.
* Nguồn : Trang Web
Giáo Phận Thái B́nh
|