HOÀNG THÀNH THĂNG LONG 

GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VĂN HOÁ VIỆT

 

 

Phát lộ di tích Hoàng Thành năm 2003 đă gây nên một chấn động lớn trong dư luận xă hội và nhận được sự quan tâm sâu sắc của nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Nhiều báo chí coi phát hiện khảo cổ này là một trong những sự kiện văn hóa trọng đại năm 2003. Một số di vật được trưng bày tại Văn Miếu  Quốc Tử Giám ở Hà Nội và sau đó chuyển vào trưng bày tại Bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh được khách tham quan trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Trong Thư chúc Tết năm Giáp Thân năm 2004, chủ tịch nước Trần Đức Lương có đoạn viết: “... tiến hành khảo cổ ở khu vực Ba Đ́nh Hà Nội làm xuất lộ nhiều di tích lịch sử - văn hóa vô giá về kinh thành Thăng Long cổ xưa. Những thành tựu đó đang tiếp tục khích lệ, cổ vũ ḷng tự hào dân tộc và ư chí vươn lên của nhân dân ta...”

Trên cơ sở nhận thức giá trị của khu di tích lịch sử văn hoá do khảo cổ học phát hiện, ngày 24/9/2003 Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đă trân trọng đề nghị các đồng chí lănh đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ cho phép giới khảo cổ học tiếp tục mở rộng diện khai quật để có cơ sở khoa học đầy đủ hơn trong đánh giá cũng như trong các giải pháp bảo tồn. Hai cuộc hội thảo khoa học do Trung tâm Khoa học xă hội và nhân văn quốc gia và do Bộ Văn hoá thông tin tổ chức, tuy có một số ư kiến khác nhau trong thảo luận những vấn đề cụ thể, nhưng không ai có thể phủ nhận được giá trị lớn lao của di sản văn hoá này và nguyện vọng của hầu hết các nhà khoa học là mong muốn được bảo tồn lâu dài.

Bộ Chính trị đă có một phiên họp sáng ngày 1/11/2003 để bàn về sự phát hiện di sản văn hoá được giới khoa học và cả xă hội đặc biệt quan tâm này. Theo thông báo số 126-TB/TW ngày 5/11/2003, Bộ Chính trị đă quyết định cho phép tiếp tục khai quật khảo cổ học trên diện tích được Chính phủ phê duyệt để có cơ sở khoa học định giá và kết luận đầy đủ hơn về quần thể di tích này, trên cơ sở đó xây dựng phương án bảo tồn và phát huy ư nghĩa lịch sử của di tích. Thông báo cũng cho biết Hội trường Ba Đ́nh mới sẽ chuyển đến một địa điểm khác với tên mới là Trung tâm Hội nghị quốc gia. C̣n Hội trường Ba Đ́nh hiện nay sẽ được lưu giữ như một di tích lịch sử và Nhà quốc hội sẽ được xem xét, quyết định sau khi có báo cáo kết quả khai quật khảo cổ học.

Hiện nay Viện Khảo cổ học đang tiếp tục công việc khai quật khảo cổ học và với diện tích khai quật được mở rộng, chắc chắn nhiều di tích và di vật mới sẽ được phát lộ và nhận thức về giá trị khu di tích sẽ được nâng cao hơn. Tuy nhiên công việc khai quật cũng như bảo quản trước mắt và bảo tồn lâu dài đang đặt ra không ít nhiệm vụ nặng nề mà dư luận hết sức quan tâm. Công việc bảo quản những di vật thu thập cần được thực hiện với những kho hiện vật có đủ tiện nghi bảo vệ theo từng loại chất liệu và sắp xếp khoa học. UBND Hà Nội đă chọn địa điểm để xây dựng một kho bảo quản hiện vật như vậy. Đặc biệt khó khăn là công việc bảo tồn tạm thời những di tích ngoài trời trong điều kiện đất đai, khí hậu vùng này, nhất là khi mùa mưa đến, để tiến tới một kế hoạch bảo tồn lâu dài toàn bộ khu di tích. Chính phủ đă  giao cho các cơ quan chức năng và chuyên môn tập hợp lực lượng chuyên gia trong nước và tranh thủ sự hợp tác quốc tế để nghiên cứu và đề xuất những giải pháp khoa học và công nghệ phù hợp, hữu hiệu nhằm bảo tồn di sản văn hoá này.

Một di sản văn hoá vô giá mà bao nhiêu thế hệ tổ tiên đă sáng tạo nên và ḷng đất này đă ǵn giữ chúng được cho đến hôm nay, v́ thế chúng ta phải gánh vác trách nhiệm này tiếp tục bảo tồn, phát huy rồi chuyển giao lại cho các thế hệ mai sau  với  nhiệm vụ cao cả là G̀N GIỮ BẢO TỒN MỘT DI SẢN VĂN HOÁ VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.

 

Nội dung chính

Hoàng Thành Thăng Long – những  phát hiện khảo cổ học

 
 

Hoàng Thành Thăng Long – Góc nh́n của người trong cuộc

 
 
 
 
 

 

HOÀNG THÀNH THĂNG LONG – NHỮNG  PHÁT HIỆN KHẢO CỔ HỌC

 

I. CỘI NGUỒN LỊCH SỬ

 

1.Vài nét về lịch sử định đô và kiến tạo Hoàng Thành Thăng Long
2.Phát lộ di tích Hoàng thành Thăng Long

3.Sự thăng trầm của Hoàng thành

1. Vài nét về lịch sử định đô và kiến tạo Hoàng Thành Thăng Long

Lư Công Uẩn lên ngôi vua, sáng lập vương triều Lư (1009 - 1225) tại kinh đô Hoa Lư (Ninh B́nh) ngày 2-11 Kỷ Dậu (21 – 11 - 1009). Tháng 7 mùa thu năm 1010, nhà vua dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên là Thăng Long. Ngay trong mùa thu năm đó, nhà Lư đă khẩn trương xây dựng một số cung điện làm nơi ở và làm việc của vua, triều đ́nh và hoàng gia. Trung tâm là điện Càn Nguyên, nơi thiết triều của nhà vua, hai bên có điện Tập Hiền và Giảng Vơ, phía sau là điện Long An, Long Thụy làm nơi vua nghỉ. Đến cuối năm 1010, 8 điện 3 cung đă hoàn thành. Những năm sau, một số cung điện và chùa tháp được xây dựng thêm. Một ṿng thành bao quanh các cung điện cũng được xây đắp trong năm đầu, gọi là Long Thành hay Phượng Thành. Đó chính là Hoàng Thành theo cách gọi phổ biến về sau này. Thành đắp bằng đất, phía ngoài có hào, mở 4 cửa: Tường Phù ở phía đông, Quảng Phúc ở phía tây, Đại Hưng ở phía nam, Diệu Đức ở phía bắc. Tuy c̣n những ư kiến khác nhau, nhưng căn cứ vào sử liệu và di tích c̣n lại, có thể xác định cửa Tường Phù mở ra phía Chợ Đông và khu phố buôn bán tấp nập của phường Giang Khẩu và đền Bạch Mă. Cửa Quảng Phúc mở ra phía chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) và chợ Tây Nhai (chợ Ngọc Hà). Cửa Đại Hưng ở khoảng gần Cửa Nam hiện nay. Cửa Diệu Đức nh́n ra trước sông Tô Lịch, khoảng đường Phan Đ́nh Phùng hiện nay. Trong Long Thành có một khu vực được đặc biệt bảo vệ gọi là Cấm Thành là nơi ở và nghỉ ngơi của vua và hoàng gia. Trong đời Lư, các kiến trúc trong Hoàng Thành c̣n qua nhiều lần tu sửa và xây dựng thêm.

Long Thành và Cấm Thành là trung tâm chính trị của Kinh Thành. Phía ngoài, cùng với một số cung điện và chùa tháp là khu vực cư trú, buôn bán, làm ăn của dân chúng gồm các bến chợ, phố phường và thôn trại nông nghiệp. Một ṿng thành bao bọc toàn bộ khu vực này bắt đầu được xây đắp từ năm 1014, gọi là thành Đại La hay La Thành.

  Bản đồ Thăng Long thời Hồng Đức (1490)

 Ṿng thành này vừa làm chức năng thành luỹ bảo vệ, vừa là đê ngăn lũ lụt. Thành được đắp mới và có tận dụng, tu bổ một phần thành Đại La cũ đời Đường. Thành Đại La phía đông chạy dọc theo hữu ngạn sông Nhị như một đoạn đê của sông này từ Bến Nứa đến Ô Đống Mác, phía bắc dựa theo hữu ngạn sông Tô Lịch phía nam Hồ Tây từ Bưởi đến Hàng Buồm ngày nay, phía tây theo tả ngạn sông Tô Lịch từ Bưởi đến Ô Cầu Giấy, phía nam theo sông Kim Ngưu qua Giảng Vơ, Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Dền, đến Ô Đống Mác. Thành Đại La đời Lư mở các cửa: Triều Đông (dốc Ḥe Nhai), Tây Dương (Cầu Giấy), Trường Quảng (Ô Chợ Dừa), Cửa Nam (Ô Cầu Dền), Vạn Xuân (Ô Đống Mác). Thành Đại La được bao bọc mặt ngoài bởi ba con sông: sông Nhị, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu và được tận dụng như những con hào tự nhiên. Một đặc điểm nổi bật của cảnh quan thiên nhiên của thành Thăng Long là nhiều sông hồ. Có thể nói Thăng Long - Hà Nội là một thành phố sông-hồ và ngay từ khi kiến lập, nhà Lư đă biết tận dụng địa thế tự nhiên này trong qui hoạch xây dựng nhằm biến những sông, hồ đó thành những con hào tự nhiên, những giao thông đường thuỷ tiện lợi và một hệ thống thoát nước, điều tiết môi trường, bảo vệ sinh thái. V́ vậy mặt bằng các ṿng thành Thăng Long không coi trọng tính kỷ hà, đối xứng, vuông vắn mà uốn ḿnh theo địa h́nh, thích nghi và tận dụng điều kiện thiên nhiên.

Trong những biến loạn cuối đời Lư, Hoàng Thành bị tàn phá nặng nề. Sau khi thành lập, nhà Trần phải đắp lại thành, xây lại các cung điện, nhưng vị trí, qui mô của Hoàng Thành, thường gọi là Long Phượng Thành, không thay đổi.

Thời Lê sơ, Hoàng Thành nhiều lần được tu bổ và mở rộng thêm mà trung tâm điểm là điện Kính Thiên dựng năm 1428, xây lại năm 1465 với lan can bằng đá chạm rồng năm 1467 nay vẫn c̣n trong thành Hà Nội. Năm Hồng Đức thứ 21 (1490), vua Lê Thánh Tông định bản đồ cả nước gồm 13 thừa tuyên và phủ Trung Đô tức thành Đông Kinh thời Lê sơ. Tập Bản đồ Hồng Đức c̣n lại đến nay đă qua nhiều lần sao chép lại về sau, nhưng vẫn là tập bản đồ xưa nhất của nước Đại Việt, trong đó có bản đồ thành Đông Kinh. Qua bản đồ này, có thể h́nh dung được qui mô và cấu trúc của Hoàng Thành và Cấm Thành của thành Thăng Long thế kỷ XV cùng một số cung điện đương thời

Sang thời Nguyễn, thành Hà Nội do vua Gia Long xây năm 1805 theo kiểu Vauban không những hạ thấp độ cao mà c̣n thu nhỏ về qui mô so với Hoàng Thành của Thăng Long xưa. Tuy nhiên trục trung tâm Đoan Môn  Kính Thiên của Hoàng Thành Thăng Long thời Lê vẫn không thay đổi và trên trục này thêm Cột Cờ, Cửa Bắc thời Nguyễn.

H́nh vuông trên bản đồ là Hoàng thành Hà nội trong bản đồ Hà Nội năm 1885.

 
Đầu trang    Quay lại

 

 

2. Phát lộ di tích Hoàng thành Thăng Long

Theo Luật di sản văn hoá, trước khi thực hiện dự án xây dựng Nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đ́nh, trên khu vực nằm giữa các đường phố Hoàng Diệu, Hoàng Văn Thụ, Độc Lập, Bắc Sơn, Chính phủ cho phép Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật trên diện rộng. Từ tháng 12/2002 đến nay, đă khai quật trên diện tích hơn 19.000 m2. Đây là quy mô khai quật khảo cổ học lớn nhất ở Việt Nam và cũng vào loại lớn nhất ở Đông Nam Á. Từ đó đă phát lộ một phức hệ di tích – di vật rất phong phú, đa dạng từ thành Đại La (thế kỷ VII - IX) đến thành Thăng Long (thế kỷ Xl -XVIII) và thành Hà Nội (thế kỷ XIX).

Trên cơ sở phát hiện khảo cổ học này, các nhà khảo cổ học c̣n phải dành nhiều thời gian để chỉnh lư hiện vật và hoàn chỉnh hồ sơ khoa học về các di tích, di vật. Về phương diện khoa học, các nhà khoa học thuộc nhiều chuyên ngành liên quan như khảo cổ học, sử học, kiến trúc, văn hoá, địa lư, địa chất, môi trường,,, cũng cần có nhiều thời gian để nghiên cứu, thảo luận hàng loạt vấn đề như cảnh quan tự nhiên, cấu tạo của các sông, hồ, quan hệ giữa các lớp đất; tên gọi, chức năng, niên đại của các di tích kiến trúc; cấu trúc của khu di tích và sự biến đổi qua các thời kỳ lịch sử; phân loại và xác định nguồn gốc, niên đại các di vật. V́ vậy không có ǵ ngạc nhiên, trong một vài hội thảo khoa học hay trên báo chí, xuất hiện một số ư kiến khác nhau về những vấn đề khoa học cụ thể này. Tuy nhiên, trên tổng thể đă có đủ cơ sở khoa học để đưa ra những đánh giá khái quát về giá trị lịch sử văn hoá của khu di tích đă phát hiện.

 

Dấu tích kiến trúc thời Lư - Trần ở hố D4 - D6 (khu D)

Chụp lại từ cuốn Hoàng Thành Thăng Long, quà tặng cho các đại biểu quốc tế tham dự Hội nghị APEC 2006.

Dấu vết nền cung điện thời Lư ở Hố A20

Khu vực khai quật hiện nay nằm về phía tây của điện Kính Thiên trong Hoàng Thành thời Lê sơ. Rơ ràng đây là di tích của một phần phía tây Hoàng Thành Thăng Long thời Lư, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hưng thế kỷ XI - XVIII, ngược lên thành Đại La thế kỷ VII - IX và kéo dài đến thành Hà Nội thế kỷ XIX. Khu di tích bộc lộ một bề dày lịch sử từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIX gồm thời tiền Thăng Long, thời Thăng Long và Hà Nội. Các di tích và tầng văn hóa chồng xếp lên nhau qua nhiều thời kỳ lịch sử một cách khá liên tục. Thật hiếm có một khu di tích lịch sử-văn hoá trải dài qua nhiều thời kỳ lịch sử như vậy giữa vùng đất trung tâm của thủ đô và cũng thật hiếm có thủ đô một nước có lịch sử lâu đời lại phát hiện một quần thể di tích chảy dài suốt bề dày lịch sử như vậy.

Các di tích kiến trúc và một khối lượng rất lớn di vật cho thấy một phần qui mô và diện mạo của Hoàng Thành cùng đời sống cung đ́nh của vua quan, quư tộc qua các thời kỳ lịch sử. Tầng tầng lớp lớp di tích - di vật hiện lên như một bộ sử ngh́n năm văn hiến của Thăng Long – Hà Nội phản chiếu tŕnh độ và bản sắc dân tộc của một trung tâm văn hóa lớn nhất và lâu đời nhất của đất nước.

Về phương diện lịch sử, phát hiện khảo cổ học này cung cấp nhiều cứ liệu khoa học để xác định vị trí trung tâm của thành Thăng Long - Đông Đô - Đông Kinh, để hiểu thêm mối quan hệ giữa thành Đại La với thành Thăng Long thời Lư, Trần, Lê và thành Hà Nội thời Nguyễn. Thành Đại La qua nhiều lần xây dựng, từ Tử Thành do Khâu Hoà xây năm 618 chỉ 900 bộ (khoảng 1,65 km), La Thành do Trương Bá Nghi xây năm 767 rồi Triệu Xương đắp thêm năm 791, thành Đại La do Trương Chu xây năm 808 mà La Thành bên ngoài dài 2000 bộ (khoảng 3,70 km) rồi Lư Nguyên Gia dời thành và Cao Biền mở rộng thêm thành 1982 trượng (khoảng 6,5 km), ngoài có đê dài 2125 trượng (khoảng 7 km). Đó là toà thành có qui mô lớn nhất trong thời Bắc thuộc. Tại khu vực khai quật, đă t́m thấy dấu tích thành Đại La trên cả bốn khu A, B, C, D, chứng tỏ vùng này nằm trong thành Đại La. Bên trên dấu tích Đại La là di tích kiến trúc và các di vật thời Lư. Điều đó chứng tỏ vua Lư Thái Tổ đă dời đô từ Hoa Lư về đô cũ của Cao Vương ở thành Đại La đúng như Chiếu dời đô, đổi tên là thành Thăng Long và buổi đầu đă sử dụng toà thành này cùng một số kiến trúc có sẵn rồi sửa sang, xây dựng thêm những cung điện mới. Phạm vi của Hoàng Thành từ thời Lư, Trần sang Lê sơ thay đổi như thế nào c̣n phải nghiên cứu thêm, nhưng qua phát hiện khảo cổ học ở Ba Đ́nh th́ rơ ràng khu vực này là một bộ phận phía tây của Hoàng Thành xưa và không thay đổi. Hơn nữa, theo bản đồ thành Đông Kinh thời Hồng Đức th́ khu vực khai quật này nằm trong phạm vi cấm thành của Hoàng Thành. Kết quả khai quật khảo cổ học kết hợp với tư liệu thư tịch và bản đồ cổ cho phép h́nh dung khu trung tâm của Hoàng Thành rơ nét hơn.

Phát hiện này c̣n cung cấp thông tin cho biết trong ḷng đất Hoàng thành Thăng Long xưa c̣n bảo tồn nhiều di tích di vật quư. Từ đây có thể đưa ra khả năng mở rộng diện điều tra và khai quật, xây dựng quy hoạch bảo tồn một khu vực di tích lịch sử  văn hoá của kinh thành Thăng Long, thành Hà Nội cổ và mở rộng đến các di tích cách mạng và kháng chiến thời đại Hồ Chí Minh như Hội trường Ba Đ́nh, Lăng và Nhà sàn Bác Hồ, Tổng hành dinh Quân đội nhân dân Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ, Hội trường Ba Đ́nh, kéo dài từ thế kỷ thứ VII (hi vọng có thể phát hiện những di tích, di vật sớm hơn) đến thế kỷ XX. Đây là một di sản văn hóa vô giá của dân tộc nằm giữa thủ đô Hà Nội và nếu nghiên cứu, bảo tồn tốt, có thể được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Một di sản văn hoá như vậy sẽ tăng thêm vị thế của thủ đô Hà Nội, phát huy tác dụng sâu sắc trong giáo dục truyền thống dân tộc cũng như trong các hoạt động giao lưu văn hoá và du lịch. Chỉ một bộ phận di sản đă được phát hiện ở Ba Đ́nh hiện nay đă làm xúc động biết bao những người có dịp đến tham quan, chiêm ngưỡng và cả những người chỉ mới được nghe tin và xem ảnh qua các phương tiện thông tin đại chúng.

 

Đầu trang    Quay lại

 

 

3. Sự thăng trầm của Hoàng thành

Tô Lịch - Nùng Sơn theo phong thủy xưa là hai biểu tượng của nước non Thăng Long - Hà Nội. Nói theo sinh thái học nhân văn th́ Thăng Long - Hà Nội là một đô thị sông - hồ được bao bọc bởi một “tứ giác nước” 30 km “đường đê La Thành”:

 Nhị Hà quanh bắc sang đông

Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này.

Tô Lịch tách ra khỏi Nhị Hà ở khoảng chợ Gạo, chảy qua giữa Ngơ Gạch - Hàng Buồm, luồn qua Cầu Đông - Hàng Đường - Hàng Cá - Cống Chéo Hàng Lược, ngoằn ngoèo theo đường Quán Thánh rồi chảy xuống Thụy Khuê - Hồ Khẩu...

Kim Ngưu mở cửa vào Hồ Tây (cũng có tên khác là hồ Kim Ngưu), chảy theo chiều bắc – nam thành Ngọc Hà, dọc dài đường Ông Ích Khiêm - Lê Trực (nay là cống ngầm) luồn qua đường Cát Linh mà chảy xuống Hào Nam

Thích nghi tối ưu - tối đa với môi trường tự nhiên sông nước trên đại thể được vạch ra tóm gọn như trên, ta dễ dàng hiểu nhà phong thủy Cao Biền (thế kỷ IX) và các nhà quy hoạch La Thành - Đại La Thành - Long Phượng Thành sẽ lấy núi Nùng làm trung điểm và các đường - vệt nước sông hồ Tô Lịch - Kim Ngưu (Ngọc Hà) làm “hào” mà đắp xây các lũy thành. Các tấm bản đồ Thăng Long thành đời Lê, tuy không vẽ theo họa pháp địa lư học tân thời, về cơ bản cũng cho ta h́nh dung được điều đó (trong bài này tôi xin phép được sử dụng bản đồ do PGS.TS Ngô Đức Thọ vừa sưu tầm được trong cuốn Thiên tải nhàn đàm của Đàm Nghĩa Am viết và vẽ lại năm Gia Long thứ 9 - 1810).

Theo “thủ chiếu” của Lư Thái Tổ th́ ngài muốn dời đô từ Hoa Lư ra “thành Đại La cố đô của Cao Vương”. Cố nhiên Ngài và các vua kế vị về sau cũng xây dựng thêm nhiều cung điện,cầu cống.

Cửa Bắc của thành Hà Nội thời Nguyễn (xây trên nền Cửa Bắc thời Lê)

 Nhà Trần thay ngôi nhà Lư một cách ḥa b́nh cũng sử dụng lại Hoàng thành Thăng Long và có xây dựng, sửa chữa thêm, nhất là sau những cơn binh hỏa chống Mông - Nguyên. Nhà Hồ dựng Tây Đô ở xứ Thanh, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô và có dỡ một vài cung điện ở Thăng Long đưa vào Tây Đô. Sau 20 năm Minh thuộc và chống Minh, tháng 4/1428, Lê Lợi, người sáng nghiệp triều Lê vào yên vị ở Đông Đô (1430 đổi là Đông Kinh, nhưng cái tên tuyệt đẹp Thăng Long vẫn tồn tại dài dài). Nhà Mạc xây Dương Kinh ở quê nhà gần biển, ít xây dựng ở Đông Kinh ngoài việc đắp thêm nhiều lũy thành ở phía nam kinh thành để chống Trịnh. Thời Lê Trung Hưng, chúa Trịnh xây Vương phủ riêng bên bờ tả - hữu Vọng Hồ (Hồ Hoàn Kiếm). Vua Lê vẫn ngồi trên ngôi hư vị ở hoàng thành cũ, có đổ nát đi hơn là xây dựng thêm.

Rồi Gia Long và Minh Mạng phá Hoàng Thành cũ, xây Bắc Thành, tỉnh thành Hà Nội mới theo kiểu Vauban. Thi hào Nguyễn Du than thở:

Thiên niên cự thất thành quan đạo

Nhất phiến tân thành một cố cung.

Tạm dịch:

Cung điện ngàn năm thành đường cái

Một ṭa thành mới mất cung xưa.

Bà Huyện Thanh Quan hoài cổ Thăng Long Thành:

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Nửa cuối thế kỷ XIX, Việt Nam - Hà Nội rơi vào tay thực dân Pháp. Pháp phá thành Hà Nội để xây “khu phố Tây”, khu nhà binh Pháp, sân vận động Mangin (nay là Trung tâm Thể dục thể thao quân đội)... Cái thiêng “Nùng Sơn chính khí” với ṭa điện Kính Thiên xây bên trên đă bị giải thiêng.

Kính Thiên ngai ngự thếp vàng

Tây ngồi đánh chén cùng đoàn thanh lâu.

Điện Kính Thiên c̣n 4 bệ 9 bậc (cửu trùng) Rồng đá thời đầu Lê. “Cô Tư Hồng” đấu thầu phá thành, chỉ dùng gạch của thành cũ đă xây được vài khu phố mới ở đường Nguyễn Biểu - Đặng Dung nay, sau khi dùng phế tích lấp hồ Cổ Ngựa - cái hồ kéo dài Hồ Tây - hồ Trúc Bạch với hồ Hàng Đậu - hồ Hàng Khoai - hồ Hàng Đào nối với hồ Hoàn Kiếm qua Cầu Gỗ (cái cầu gỗ ấy năm 1901 vẫn c̣n - nay th́ chỉ c̣n cái tên “Phố Cầu Gỗ”).

  Những dấu vết c̣n lại

Ở phía bắc th́ c̣n Chính Bắc Môn với một vết đạn chưa mờ trên Cửa Bắc. Vết tích trận giặc 1882 và việc ngài Hoàng Diệu tử tiết. Lùi vào một chút th́ c̣n Hậu Lâu, Pháp gọi là “Lầu Công Chúa” mà kiến trúc đă bị làm biến dạng, lai căng đi rất nhiều rồi.

Năm 2001, giới khảo cổ học được phép đào ở khu vực quanh Hậu Lâu và Cửa Bắc. Phía dưới Cửa Bắc hiện tồn, các nhà khảo cổ đă t́m thấy một Cửa Bắc khác thời Lê, rộng hơn, ch́m sâu hơn, đang rải nylon lấp cát vùi lại, chờ công cuộc khai quật quy mô lớn hơn. C̣n ở quanh Hậu Lâu, đă t́m thấy tảng đá kê chân cột chạm hoa sen thời Lư cùng nhiều hiện vật khác thời Lê, nhưng đă được “dùng lại” với công năng khác. Khảo cổ học xác định đây có thể là một cái bến đợi ở Hoàng Thành bắc, thông với sông Tô Lịch (đường Quán Thánh - Thụy Khuê). Cũng đă giăng nylon vùi cát lấp lại chờ khai quật tiếp.

Ở phía nam, may mà c̣n Đoan Môn, năm cổng xây bằng đá, phía ngoài là cửa Tam Môn khoảng 1812 - 1814, triều Nguyễn Gia Long phá, xây Cột Cờ (nay vẫn c̣n sừng sững). Năm 2002, giới khảo cổ học Việt Nam được phép đào phía trong Đoan Môn đă t́m thấy “lối xưa xe ngựa” thuộc thời Trần, dùng lại nhiều gạch Lư. Nếu khai quật tiếp, sẽ có thể thấy cả con đường từ Đoan Môn. Phía nam nữa là chợ Cửa Nam (may c̣n cái tên, cửa Đại Hưng (Nam) đă bị phá). Ngoài cửa Nam, c̣n có mấy cái tên đất Đ́nh Ngang (nơi dừng lại để soát xét giấy tờ, thẻ bài trước khi vào Hoàng Thành), Cấm Chỉ (dừng nơi khu cấm) và cái vườn hoa, thời Pháp thuộc có dựng tượng “Bà đầm x̣e”. Căn cứ vào câu thơ của nho sĩ Hà Thành cuối thế kỷ XIX:

Tới Quảng Minh đ́nh tớ muốn nghe

Quang Minh không thấy, thấy Đầm X̣e!

Cột cờ thành Hà Nội thời Nguyễn. Quang cảnh trước khi doanh trại binh lính Pháp được dựng lên xung quanh

Quảng Minh đ́nh đời Minh Mạng, là nơi hàng tháng có quan tới giảng “Thập điều” (10 điều trung hiếu tiết nghĩa) bắt dân đi nghe.

Quảng Minh đ́nh, như sử chép là xây dựng trên nền Quảng Văn đ́nh đời Lê Thánh Tông, là nơi dán bố cáo, mệnh lệnh của vua quan, cho dân biết mà thi hành.

Nếu được phép khai quật vườn hoa Cửa Nam, nhà khảo cổ có thể t́m thấy nền cũ Quảng Minh đ́nh rồi Quảng Văn đ́nh. Sẽ cũng là điều lư thú.

Ở phía đông, th́ trên mặt đất c̣n di tích Đông Môn đ́nh (Đ́nh Cửa Đông) nay đeo biển số nhà 10 Hàng Cân và Đông Môn tự (Chùa Cửa Đông), nay đeo biển số nhà 38b Hàng Đường mà nhiều tấm bia cổ c̣n giữ được ở trong chùa có niên đại Lê - Nguyễn khẳng định là chùa được xây dựng ngay phía ngoài cửa Đông Hoa, Hoàng Thành Lê. Cuộc điền dă khảo cổ - nhân học văn hóa cuối năm 2002 đă xác định được cửa Đông Hoa giữa số 4 (Đông Cung) và số 5 (Càn (Kiền) điện trên bản đồ, nay đánh số 4b) là ở nền nhà Hội quán Phúc Kiến phố Lăn Ông hiện nay. Các bia Gia Long, Tự Đức c̣n giữ trong nhà hội quán nói là “Mân thuyền” (thuyền đất Mân Phúc Kiến) đến Thăng Long buôn bán, mua được khu đất hoang, thuộc cửa Đông Hoa thời Lê cũ, xây nhà hội quán.

 

Tượng đầu chim phượng và lá đề trang trí đôi chim phượng t́m thấy ở hố A2,A3

Chi tiết di vật đầu phượng

 

Một dải đồ gốm sứ thời Lê dùng trong hoàng triều t́m thấy bên ḍng sông cổ ở hố A11 

Về phía tây Hoàng Thành Lê, th́ c̣n chứng cứ: Khán Sơn. Toàn thư chép là ở góc tây bắc Hoàng Thành, nơi vua Lê Thánh Tông và các đại quan ngự xem (khán) quân sĩ tập trận (số 11 trên bản đồ). Thời Pháp thuộc, chính quyền Pháp sai san phẳng Khán Sơn làm nền, trên đó xây dựng trường trung học mang tên viên toàn quyền Albert Sarraut, nay được cải tạo, sửa thành trụ sở TƯ Đảng CSVN.

Chùa Một Cột (tên chữ là chùa Diên Hựu), vẫn theo sử chép là được xây dựng thời Lư Thánh Tông (1049) cầu cho vua sống lâu. Tấm bia Thiên phù duệ vũ (1 121) trên chùa Đọi (Hà Nam - “Sùng thiện diên linh tháp bi kư”) nói chùa Diên Hựu được xây dựng lại hoành tráng vào thời Lư Nhân Tông.

Hướng tây cấm chi danh viên,

Quyết Diên Hựu chi ngự tự

(Hướng về khu vườn nổi tiếng phía tây cấm thành

Xây dựng ngôi chùa ngự (của vua sai xây - Diên Hựu).

Chùa Một Cột nay, trải bao lần tàn phá, xây dựng lại (cái hiện thể chùa Một Cột là được dựng lại tháng 4/1955) nhưng vẫn ở địa điểm nguyên sơ.

Vậy chùa Một Cột là một điểm mốc ghi dấu Cấm thành thời Lư.

Chùa Am Cây Đề (Thanh Ninh tự) hiện c̣n ở cuối đường Ông Ích Khiêm, đầu đường Sơn Tây. Hai tấm bia Gia Long c̣n giữ lại được trong chùa cho ta biết: Chùa ở ngay sát phía ngoài hành lang phía tây của Hoàng Thành Thăng Long thời Lê. Thời đầu Lê Cảnh Hưng (1740 - 1786) có một vị cư sĩ ở Bắc Giang tới đây, xây một cái am dưới cây đề trong chùa để thờ và giải hóa đám cô hồn không nơi nương tựa. Cuối năm 2002, giới khảo cổ đă đến tận nơi (nay trong lănh thổ xí nghiệp may Chiến Thắng). Cây đề vẫn c̣n đó, cổ thụ mấy trăm năm, rễ gốc ôm vào ḷng một cái am diện tích khoảng 9m2, xây hoàn toàn bằng gạch vồ Lê Cảnh Hưng. Công nhân xí nghiệp may vẫn giữ nguyên vẹn cái am (thời chống Mỹ dùng làm nơi trú ẩn máy bay Mỹ ném bom), có ban thờ đèn nhang liên tục...

    Dấu tích dưới ḷng đất 

Thế là rơ! Căn cứ vào sách vở, bi kư, bản đồ, lời truyền miệng, một số di tích trên mặt đất, giới khảo cổ đă xác định được quy mô Hoàng Thành Thăng Long Lư - Trần - Lê khoảng 400ha. Đông là ở khoảng phố Lăn Ông, tây ở khoảng Ngọc Hà, nam ở khoảng Chợ Cửa Nam - Hàng Đẫy (Nguyễn Thái Học), bắc ở khoảng tiếp gần đường Quán Thánh.

Khu di tích khảo cổ vừa khai quật 14.000m2 đến 16.000m2 phía tây Hoàng thành Lư - Trần - Lê. Mùa hè năm 1973, sau Hiệp định Paris, Nhà nước ta mở công trường xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Trường Chinh, Trưởng ban chỉ đạo xây dựng Lăng, có dự cảm là nơi đây kề cận Hoàng Thành Trần - Lê nên yêu cầu t́m hỏi cán bộ khảo cổ có chút am hiểu về khu vực có thể có di tích lịch sử này. Tôi cùng với ông Đỗ Văn Ninh và một cán bộ kỹ thuật (đo vẽ khảo cổ) được thu nhận vào theo dơi công việc đào móng xây dựng công trường Lăng Bác. Chúng tôi đă thấy ǵ?

- Thấy được Cửa Tây - Dương Mă Thành - của cái thành đời Nguyễn cùng nhiều đoạn thành, nền là lớp đá ong rất dày, trên xây gạch Nguyễn lẫn lộn gạch vồ Lê.

- Thấy nhiều di vật (gạch, ngói lưu li xanh vàng, đồ gốm sứ Lư - Trần - Lê - Nguyễn...).

- Thấy những đống xương: người, thú (trâu ḅ, lợn, gà...), có xương bả vai trâu có một đinh ba sắt xuyên qua (lễ hiến tế).

Vườn hoa Cửa Nam, nơi xưa kia có tượng "Bà Đầm Xoè"

Giếng cổ thời Đại La và dấu vết cung điện thời Lư Trần ở hố B9-B5

Gạch "Đại Việt quốc quân thành chuyền" (gạch xây thành nước  Đại Việt) thời  Đinh - Lê, thế kỷ 10, t́m thấy ở hố A1  

Gạch "Lư gia đệ tam đế Long Thụy Thái B́nh tứ niên tạo"  (chế tạo năm Long Thụy Thái B́nh 4 (1057) thời vua Lư Thánh Tông t́m thấy ở hố B1

 

 

Thấy một vài cái giếng xây bằng gạch ''Giang Tây quân'' (chữ in trên gạch, niên đại thuộc Đường thế kỷ VII - IX), có gạch in chữ ''Lư gia đệ tam đế Long Thụy thái b́nh tứ niên tạo'' (làm năm Long Thụy thái b́nh thứ tư, đời vua thứ 3 nhà Lư - 1057) v.v... (thời ấy phải nghiêm ngặt tuân thủ định chế của công trường: Không được mang vào và mang ra bất cứ hiện vật ǵ, không được hỏi, được nói bất cứ cái ǵ ḿnh biết và không biết, không được đi ra khỏi nơi quy định...)

Với công trường Lăng Bác (cũng như việc t́m thấy bộ xương voi ở 42 Trần Phú khi sửa đường), chưa thể nói là đă có một nền khảo cổ học đô thị Việt Nam (khảo cổ học mới Việt Nam được phát sinh và phát triển từ cuối thập niên 50 và thập niên 60 của thế kỷ XX, song chủ yếu là khảo cổ ở vùng thôn dă - hang động - đồi g̣ (Ḥa B́nh, Bắc Sơn, Phùng Nguyên, Đông Sơn v.v... Có khảo cổ ở Cổ Loa, cố đô Âu Lạc, nhưng Cổ Loa đă trở thành làng - xă, chưa thể coi là khảo cổ học đô thị).

Phải chờ đến cuối năm 2002 và năm 2003, với việc Nhà nước cho mở công trường khảo cổ khu vực định xây dựng Nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đ́nh (mới) với diện tích khai quật lớn nhất từ trước đến nay, giữa trung tâm Hà Nội hiện thời (hàng chục ngh́n mét vuông), ta mới có thể nói là bắt đầu có một nền khảo cổ học đô thị Việt Nam (Có làm khảo cổ ở Hội An nhưng chủ yếu vẫn chỉ là khảo cổ vùng động cát ở khu vực ŕa thị xă và ở Cù Lao Chàm).

Với tư cách là người tư vấn của công trường của Ban chủ nhiệm dự án khảo cổ, chỉ xin nhấn mạnh mấy điều mà tôi cho là chủ chốt như sau:

 

·         Chưa từng có một công trường khảo cổ nào ở nước ta (và khu vực) mang một tầm cỡ lớn như vậy, không chỉ về quy mô (hàng vạn mét vuông) mà cả về tầm quan trọng: Ta đă đụng đến và, nói như ngôn ngữ khảo cổ học, nh́n thấy được, sờ mó được, sở hữu được một di sản văn hiến ngàn năm và trên cả ngàn năm của một Thủ đô - Kinh thành - Đất nước.

·         Mấy triệu hiện vật lịch sử t́m thấy - trên một diện tích c̣n quá nhỏ so với qui mô Hoàng Thành - Kinh Thành Thăng Long - Hà Nội.

·         Nay được phép của Bộ Chính trị cho giới khảo cổ tiếp tục đào t́m trên một diện tích lớn hơn nữa (khoảng trên 20.000m2 nữa), vẫn trong khu vực tây Hoàng Thành th́ tôi cả quyết rằng giới khảo cổ - với Viện Khảo cổ là trung tâm - sẽ nhất định t́m thấy nhiều di tích - di vật hiếm quư hơn nữa để góp phần làm sáng tỏ hơn cái sáng giá của nền văn hiến nhiều ngàn năm của đất nước.

Nó sẽ là cái khôn lường nếu ta muốn dùng một khái niệm Phật giáo: Vô lượng và vô biên. V́ như viện sĩ Nga Anutrin đă nói từ lâu, di vật, di tích khảo cổ chỉ không t́m thấy ở nơi nào nhà khảo cổ không chịu đến và không chịu - hay không đủ kinh phí để khai quật.

·         Cái quư nhất, cái quan trọng nhất, phát hiện có ư nghĩa nhất của cuộc khai quật này là các phế tích kiến trúc (cùng với các di vật - hiện vật có liên quan đến các kiến trúc) của các thời, từ Bắc thuộc (Tùy - Đường thế kỷ VII - IX) qua Lư - Trần - Lê, đến Nguyễn.

Khảo cổ học lịch sử việt Nam - nói rộng, và khảo cổ học kiến trúc, nói hẹp, trước - nay mới chỉ khẳng định được kiến trúc cổ truyền Việt là các kiến trúc thuộc “ḍng” chịu lực bằng khung gỗ liên kết (chứ không phải bằng tường chịu lực như truyền thống kiến trúc Tây Âu, châu Âu). Xương sống của hệ khung chịu lực ấy là hệ thống cột. Tất cả sức nặng của công tŕnh, của ngôi nhà dồn xuống các cây cột. Và, người Việt đă kê dưới chân các cây cột ấy những tảng đá lớn. Những chân tảng đá ấy vừa chịu lực vừa chống lún, chống nghiêng cho kiến trúc.

Cuộc khai quật này đă t́m thấy những chân tảng bằng đá. Nhưng, ở khu vực này nền đất yếu (v́ rất gần sông) nên bên dưới các chân tảng đă được gia cố rất cẩn thận bằng các hố/cột sỏi, được lèn - đầm chặt. Một số chân tảng c̣n nằm đúng vị trí trên các hố sỏi gia cố. Rất nhiều chân tảng khác đă mất, đă được tận dụng lại ở công tŕnh khác nên chúng ta chỉ c̣n thấy các “trụ sỏi”. Chỉ biết rằng, quy mô các kiến trúc ở đây là lớn. Hầu như các kiến trúc c̣n tồn tại trên mặt đất hiện nay không có bước gian, chiều dài, chiều rộng lớn đến như thế.

Do vậy, ta có thể kết luận rằng: Công tŕnh khảo cổ ở khu vực Ba Đ́nh đă thành công rực rỡ, đă lấy ra từ ḷng đất các di tích và di vật vô giá.

 

Đầu trang    Quay lại

 

II. NHẬN ĐỊNH BAN ĐẦU VỀ MỘT SỐ PHẾ TÍCH KIẾN TRÚC

Một kiến trúc nhiều gian
Các kiến trúc kiểu “ lầu lục giác”
Phế tích kiến trúc trong các hố thước phía nam khu A
Nhận dạng di tích
Đồ gốm trong Hoàng thành Thăng Long - Gốm thời Trần
Đồ gốm trong Hoàng thành Thăng Long - Gốm thời Lê

 

Khu A trong công trường khai quật khu vực xây dựng Nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đ́nh mới có chiều dài theo hướng Bắc – Nam 140,14m, chiều rộng theo hướng Đông Tây 37,85m, gồm các hố được kư hiệu từ A1 đến A22. Đây là khu vực có nhiều phế tích kiến trúc tiêu biểu đáng cho chúng ta lưu ư.

Một kiến trúc nhiều gian

 

 

Chân tảng đá kê cột đặt trên trụ sỏi ở kiến trúc thời Lư hố A20

Đoạn đuờng lát gạch ở phía Đông khu A 

Chi tiết "trụ móng sỏi" kê chân cột của kiến trúc nhỏ "lầu lục giác"

Giai đoạn đầu, tại các hố A1, A1MR, A2, A2MR, A3, A4, A9, A10, A11, A12, A13 trong các lớp đất ở độ sâu trung b́nh trên dưới – 1,50m so với “cốt” cao độ của mặt bậc thềm đá Đoan Môn, (được lấy làm “cốt” chuẩn 0.00 cho cả khu vực khai quật) xuất lộ những ô sỏi trộn lẫn đất sét. Sỏi ở đây khá thống nhất về kích thước, chỉ khoảng bằng hoặc to hơn đầu ngón chân cái, chứng tỏ đă được chọn lọc. Hiện vật thu được trong các lớp đất này được xác định có niên đại thời Lư. Các ô sỏi này thường có h́nh gần vuông, mỗi cạnh khoảng 1,30m và ăn sâu xuống các lớp dưới, dày trên dưới 1,00m. Điều này chứng tỏ đây là các hố đào có chủ đích để đầm - nhồi sỏi cuộn với đất sét. Đáy của các hố sỏi này nằm trong lớp đất chứa các hiện vật được xác định có niên đại Đinh - Tiền Lê.

 

Cửa và hệ thống cống thoát nước phía Đông kiến trúc lớn phía Bắc khu A

 Dấu vết con đường trải sỏi và hệ thống cống thoát nước của cung điện thời Lư - Trần ở hố B5

 Toàn cảnh di tích kiến trúc cung điện khu A1

Các ô sỏi nói trên xuất hiện trong các hố từ A1 đến A18. Tổng cộng có tất cả 40 ô sỏi, xếp thành 04 hàng dọc (hai hàng phía đông có 10 ô trong một hàng, hai hàng phía tây mỗi hàng chỉ có 09 ô). Chúng tôi cho rằng đây chính lá các hố sỏi gia cố dưới các chân tảng đá kê dưới chân các cột. Nói chính xác, theo ngôn ngữ kiến trúc – xây dựng, đó là các móng trụ. Kết quả đo đạc đă giúp khẳng định đây là phế tích của một kiến trúc có bộ khung chịu lực bằng gỗ có 04 hàng chân cột. Khoảng cách giữa các cột Quân với các cột Cái là khoảng 3,00m. Khoảng cách giữa các cột Cái là khoảng 6,00m. Từ Bắc xuống Nam đă xác định được 10 v́, nghĩa là ít nhất kiến trúc này có 09 gian. (Chúng tôi chưa thể khẳng định về số gian bởi dấu vết của kiến trúc này c̣n phát triển kéo dài về phía Bắc, ngoài khu vực khai quật).

Bước gian (khoảng cách giữa hai v́) của kiến trúc này rất lớn, khoảng 5,80m – 6,00m. Trên thực tế, bước gian của các di tích kiến trúc bằng gỗ cổ truyền hiện c̣n đứng vững trên mặt đất thường nhỏ hơn. Tuy nhiên, theo PGS. Trần Lâm Biền hai di tích chùa Thầy (Hà Tây) và đền Lê (Thanh Hoá) cũng có bước gian 6,00m.

 

Dấu tích kiến trúc lớn nhiều gian ở Bắc khu A. H́nh người đứng giả định cho các cột của kiến trúc

 Toàn cảnh dấu tích kiến trúc thời Lư - Trần - Lê ở hố D2
 

 Chi tiết đoạn cống thoát nước lớn thời Trần ở hố D7

Chưa lư giải được nguyên nhân của sự chênh lệch về số lượng các móng trụ của các hàng móng trụ phía Tây nhưng theo chúng tôi ở đây chắc chắn đă có 04 móng trụ sỏi gia cố cho 01 chân tảng cột Cái và 03 chân tảng cột Quân. Khoảng cách giữa hai hàng móng trụ sỏi cuối cùng chỉ là 4,1m chứng tỏ đây chính là không gian của chái phía Nam.

Cách tim của các móng trụ gia cố chân tảng cột Quân phía Đông khoảng 4,5m và chạy dài suốt chiều rộng của “toà nhà nhiều gian” nói trên c̣n thấy xuất lộ một cống thoát nước được xây-xếp bằng gạch (hoàn toàn không thấy dấu vết của chất kết dính dạng vôi vữa), ḷng cống rộng 0,17m – sâu 0,20m. Ngoài lớp gạch đặt nằm làm đáy, hai bên thành của rănh thoát nước này được xếp nghiêng hai lớp gạch. Kích thước trung b́nh của gạch ở đây là 0,36m x 0,20m x 0,05m). Về phía Đông, sát cạnh cống thoát nước này là một thềm gạch rộng 0,76m chạy dọc suốt chiều dài đường cống. Gạch lát thềm là gạch vuông 0,38m x 0,38m x 0,07m. Có chỗ c̣n lát lẫn cả gạch in hoa.

Cách tim của các móng trụ gia cố chân tảng cột Quân phía tây khoảng 2,5m cũng xuất lộ một cống thoát nước khác. Dấu vết của cống phía tây bị đứt quăng ở góc Tây Nam “toà nhà nhiều gian”, khu vực bị mất 04 móng trụ gia cố chân tảng. Gạch xây-xếp cống thoát nước này là loại chuyên dụng, được sản xuất chỉ để dùng làm cống-rănh. Các viên dùng lát đáy có mặt cắt h́nh thang cân (cạnh ngắn 0,16m - cạnh dài 0,22m - dầy 0,08). Những viên dựng hai bên thành có h́nh b́nh hành (cạnh ngắn 0,07m, cạnh dài 2,44m). Với h́nh dáng đặc biệt như vậy nên chỉ cần đào rănh, đặt các viên gạch chuyên dụng này xuống là thành cống (đáy rộng 0,22m - miệng rộng 0,32m – sâu 0,30m).

Cách tim của các hố sỏi gia cố chân tảng cột Quân phía nam khoảng 4,5m lại cũng xuất lộ một đoạn cống xây xếp bằng gạch chuyên dụng tương tự. Các đoạn cống xây xếp bằng gạch chuyên dụng phía tây và phía nam “toà nhà nhiều gian” nếu c̣n nguyên vẹn sẽ “bắt” vuông góc chái Tây Nam.

Theo chúng tôi, các đường cống này chính là các rănh thoát nước mưa của “toà nhà nhiều gian”. Các cống này đều không có nắp để có thể hứng nước mưa rơi thẳng xuống từ hàng ngói lợp cuối cùng của mái (dân gian thường gọi là giọt gianh). Nghĩa là các rănh thoát nước mưa này chính là giới hạn của mặt bằng mái. Nói cách khác, số đo giữa các rănh thoát nước này cho biết về chiều rộng và chiều dài của công tŕnh kiến trúc. Khoảng cách từ tim rănh thoát nước phía Tây đến tim rănh thoát nước phía Đông là 17,65m. Đó chính là kích thước chiều rộng của “toà nhà nhiều gian” này. Chiều dài của kiến trúc này hiện chưa khẳng định được. Nhưng nếu giả định “toà nhà nhiều gian” có 09 gian th́ kích thước này sẽ là khoảng 67m.

Theo số đo, phế tích này cho thấy một công tŕnh kiến trúc to lớn theo đúng nghĩa đen. Tuy nhiên chưa thể xác định công năng của kiến trúc này. Chỉ biết rằng “toà nhà nhiều gian” này chạy dài theo trục Bắc – Nam, mở cửa ra cả hai hướng Đông và Tây.

 

Đầu trang    Quay lại

 

 

Các kiến trúc kiểu “ lầu lục giác”

Về phía Tây của ''toà nhà nhiều gian'', cách tim các móng trụ sỏi gia cố hàng chân tảng cột Quân phía tây 4,90m, đă t́m thấy những móng trụ gia cố chân tảng khác. Vật liệu gia cố có phần đa dạng hơn, ngoài sỏi (tương tự như sỏi ở các hố đă nêu trên) c̣n có cả ngói vỡ vụn, được nhồi đầm theo chu kỳ 1 lớp sỏi lại 1 lớp ngói vụn. H́nh dạng của các hố đào cũng khác, có hố tṛn (đường kính từ 1,10m đến 1,30m), có hố vuông (1,20m x 1,20m). Bố cục của các móng trụ chân tảng này khá đặc biệt: 06 trụ móng tṛn quây quanh một số trụ móng ở chính giữa. Khoảng cách trung b́nh giữa tim của các móng trụ tṛn (làm thành một h́nh lục giác gần đều) là khoảng 1,30m. Tim móng trụ vuông trùng với tâm của đường tṛn ngoại tiếp h́nh lục giác, cách tim các móng trụ tṛn một khoảng 1,30m

Các cụm móng trụ gia cố chân tảng này trải dài suốt mặt phía tây của ''toà nhà nhiều gian''. Khoảng cách giữa các cụm (đếm được tất cả 11 cụm), không thật đều, xê xích từ 8,00m đến 12,00m. Chúng tôi cho rằng một cụm móng trụ gia cố chân tảng như vậy là phế tích của một kiểu ''lầu lục giác'' nhỏ, được dựng nhằm phục vụ nhu cầu thưởng ngoạn.

Theo GS. Trần Quốc Vượng, Việt Sử lược có ghi nhận về loại h́nh kiến trúc này, gọi là các Trà đ́nh.

 

Đầu trang    Quay lại

 

 

 

Phế tích kiến trúc trong các hố thước phía nam khu A

Chi tiết viên gạch trang trí in hoa mẫu đơn trong đoạn đường lát gạch phía đông khu A

Chi tiết một cửa cống thoát nước phía Đông
 

Trong các hố A19, A20, A20MR và A21 cũng xuất lộ nhiều móng trụ sỏi.

Ngay gần chái phía Nam của ''toà nhà nhiều gian'' thuộc phạm vi hố A19 có một số móng chân tảng nhưng kết quả đo đạc không xác định được thật rơ ràng về kiến trúc từng tồn tại ở đây. Phía Bắc hố A20 xuất lộ hai hàng móng trụ sỏi gia cố, mỗi hàng 05 móng trụ, khoảng cách giữa tim hai hàng là 3,40m. Hiện trạng và số đo cho phép giả định đây là một kiến trúc có hướng chạy dài theo trục Đông - Tây (vuông góc với ''toà nhà nhiều gian''). Số đo bước gian đo được của kiến trúc này theo chiều từ Đông sang Tây là: 3,30m - 5,45m - 5,30m. Các khoảng cách khác chưa khẳng định được v́ một số móng trụ sỏi đă bị mất và v́ kiến trúc này c̣n tiếp tục kéo dài về phía Đông, ra ngoài khu vực khai quật. Theo chúng tôi, đây có lẽ là phế tích của một toà nhà có 3 gian hai chái.

Ở phía Nam hố A20 đă xuất lộ một cụm phế tích rơ ràng hơn.

Khác với các phế tích vừa mô tả, cụm phế tích này c̣n cả chân tảng đá đặt nguyên vị trí (in situ) trên hố gia cố. Thực tế này đă khẳng định chính xác về công năng của các hố sỏi. Hố gia cố chân tảng ở đây h́nh vuông (1,30m x 1,30m). Vật liệu gia cố hỗn hợp cả sỏi nhỏ, gạch, đá vụn. Tất cả c̣n 09 chân tảng, xếp hành 04 hàng. Theo trục Đông - Tây, các chân tảng cách đều nhau một khoảng 5,75m.

 

Chi tiết sân gạch nằm giữa hai thềm kiến trúc thời Lư ở hố A20

 Chi tiết gạch lát sân của kiến trúc hố A20

Hệ thống chân tảng đá kê cột của kiến trúc thời Lư ở hố A20

Các chân tảng đều được làm bằng sa thạch (grès) màu xám. Mặt chân tảng chạm cánh sen mang phong cách nghệ thuật Lư. Đường kính trong của vành hoa sen này là 0,49m. Trên mặt nhiều chân tảng c̣n rất rơ dấu vết cho biết cột gỗ dựng trên đó có đường kính 0,43m. Tuy nhiên ở vị trí sẽ đặt xà ngưỡng, mặt tảng để trơn, không chạm cánh sen. Nối dài hai bên (đông, tây) một số chân tảng cũng c̣n giữ nguyên một số viên gạch (0,38m x 0,15m x 0,11m) của hàng gạch đỡ dưới xà ngưỡng. Với dấu vết của các xà ngưỡng này, chúng tôi cho rằng đây là hai kiến trúc dạng hành lang, chạy dài theo Đông - Tây. Đặc biệt, cụm phế tích này c̣n giữ nguyên vẹn một số đoạn thềm hiên lát gạch ở phía ngoài xà ngưỡng, rộng trên dưới 1,00m tính từ tim chân tảng. Thềm gạch này được xây xếp bởi 8 hàng gạch (0,39m x 0,20m x 0,05m) cao hơn mặt sân 0,36m. Sân gạch chạy giữa hai hành lang này được lát gạch vuông (0,38m x 0,38m x 0,06m).

 

Đầu trang    Quay lại

 

 

 

Nhận dạng di tích

Theo các nhận định ban đầu cho rằng các phế tích kiến trúc ở phía Bắc khu A là của một tổ hợp kiến trúc có liên quan mật thiết với nhau, bao gồm: một ''ṭa nhà nhiều gian'' có chiều rộng 17,65m, chạy dài ít nhất 09 gian (khoảng 67m) và một dăy các ''lầu lục giác''. Điều đáng quan tâm là sự liên hệ, tiếp nối giữa các kiến trúc này. Hiện trường c̣n rất rơ một số mảng nền lát gạch vuông (0,38m x 0,38m x 0,08m), nối liền từ mép rănh thoát nước phía Tây ''ṭa nhà nhiều gian'' với các ''lầu lục giác''.

Chiều rộng của nền gạch này đo được 2,60m. Nhiều viên gạch vuông của nền gạch nói trên đă được cắt chéo để lát sát vào hàng gạch chữ nhật (0,39m x 0,18m x 0,06m) xây nghiêng bao quanh mặt nền của ''lầu lục giác''.

Căn cứ vào dấu vết của nền lát gạch vuông này, chúng tôi cho rằng ''ṭa nhà nhiều gian'' và các ''lầu lục giác'' có cùng một niên đại khởi dựng.

Về niên đại: Để định niên đại cho các dấu tích kiến trúc đă xác định ở khu A, chúng tôi dùng phương án đối chiếu và so sánh tổng hợp, kết hợp với việc phân tích địa tầng.

Trước hết chúng tôi tập trung vào các trụ móng sỏi có chuẩn niên đại tương đối. Như đă tŕnh bày, ở khu A20 c̣n có 8 trụ móng sỏi c̣n nguyên chân tảng đá xếp tại chỗ. Các chân tảng đều bằng đá cát, các cánh sen thon thả, trau chuốt, đẹp tương tự như chân tảng đá hoa sen thời Lư ở tháp Tường Long (Hải Pḥng) năm 1057, tháp Chương Sơn (Nam Định)...

Dấu tích trụ móng sỏi của hệ thống kiến trúc "Lầu lục giác" nằm ven sông, hồ ở khu A

 Đồng thời tại khu vực hố A20 có khá nhiều các di vật lá đề và gốm sứ thời Lư. Các loại gạch có thềm hiên nhà đều c̣n nguyên vẹn và dáng h́nh, sắc màu đều giống hệt như các viên gạch xây các tháp Lư vừa dẫn. Từ các dẫn liệu trên đây chúng tôi tin rằng đây là dấu tích kiến trúc của thời Lư. Niên đại này được củng cố khi so sánh mặt bằng của hai kiến trúc này là tương đương với địa tầng chuẩn Lư - Trần ở Đoan Môn đều ở độ sâu khoảng 2m. Khi đó có các móng trụ có niên đại tương đối ta có thể so sánh t́m hiểu niên đại của các móng trụ khác. Ta sẽ thấy, móng trụ sỏi ở ''kiến trúc nhiều gian'', ở ''lầu lục giác'' giống hệt về kỹ thuật, vật liệu, kích thước với các trụ móng sỏi Lư ở khu A20.

Về địa tầng các trụ móng đó cùng độ sâu 1,80m - 2,20m với các kiến trúc ở A20, tức là đều nằm trong khoảng niên đại khoảng thời Lư.

Hơn nữa xét về mặt kỹ thuật xây dựng, các móng trụ ở đây cũng đều thuộc kỹ thuật của thời Lư và thời Trần. Trong thời Lư, kỹ thuật gia cố sỏi đặc biệt thấy rơ ở chùa Lạng (Hưng Yên), tháp Chương Sơn (Nam Định), tháp Phổ Minh (Nam Định).

Các trụ móng sỏi ở thời Lư thường được gia cố rất chặt chẽ. Điều này khác với các trụ móng sỏi thời muộn hơn (có thể là thời Lê), có gia cố sỏi nhưng sơ sài hơn rất nhiều và ở độ sâu cao hơn. Nói cách khác các trụ móng sỏi Lê nằm ở mặt bằng cao hơn mặt bằng Lư - Trần.

Hơn nữa, như đă nói trên, phủ trên mặt bằng của khu vực của các trụ móng thời Lư là một lớp di vật có niên đại Lư nên có thế tin rằng hầu hết các trụ móng ở đây đều thuộc thời Lư.

Điều này c̣n được khẳng định thêm khi phát hiện một hồ nước cổ h́nh chữ nhật phía Nam khu ''kiến trúc nhiều gian'' bị lấp đầy vật liệu Lư, Trần. Điều này chứng tỏ hồ nước này đă bị lấp trong thời Trần. Hồ nước này đă phá vào móng kiến trúc ''lầu lục giác'' và một phần móng trụ của 'kiến trúc nhiều gian''. Chúng tôi cho rằng hồ này được đào vào đầu thời Trần và bỏ đi vào khoảng cuối thời Trần. Do đó ta cũng thấy các trụ móng sỏi đă xuất lộ ở cùng mặt bằng đều thuộc thời Lư.

Kiến trúc cổ truyền Việt là các công tŕnh có hệ chịu lực bằng khung gỗ, với cấu kiện cơ bản là hệ thống cột. V́ vậy, người Việt chỉ chú trọng gia cố nền mà không cần đến móng. Sức nặng của công tŕnh được phân tán qua hệ cột nên chân các cột đá được gia cố bằng các chân tảng đá có kích thước lớn gấp nhiều lần đường kính cột.

Hiện trạng khảo cổ học (tầng văn hoá, hiện vật) và kết quả khảo sát địa chất khu vực này cho phép khẳng định có một ḍng chảy cổ (theo hướng Bắc - Nam) ở phía Tây các phế tích nói trên. Nền đất tự nhiên chịu tải kém nên các công tŕnh kiến trúc ở đây đều có hệ thống hố gia cố chân tảng. Đây là một thành tựu, một tiến bộ kỹ thuật của người Việt trong xây dựng. Với khảo cổ học kiến trúc (hay khảo cổ học đô thị), các phế tích nói trên c̣n cung cấp những hiểu biết mới, có tính chất lư thuyết về việc gia cố chân tảng, về cách thức xác định kích thước - quy mô của một kiến trúc qua các dấu vết của phế tích. Kỹ thuật này đă được thấy ở cố đô Hoa Lư thời Đinh - Lê. Ở kỹ thuật xây trụ móng được thực hiện bằng các móng bè bằng gỗ lim cao 5 lớp kết hợp với lớp móng trụ đá ở bên trên. Đến thời Lư và thời Trần, kỹ thuật này bây giờ xử lư hoàn toàn bằng sỏi và gạch vụn, sành vụn. Móng trụ bằng sỏi thời Lư và thời Trần có quy mô và chắc chắn nhất trong lịch sử kiến trúc Việt Nam.

Các phế tích kiến trúc ở khu A c̣n cần được nghiên cứu kỹ hơn. Kiến giải của chúng tôi về một số phế tích chỉ là những nhận định ban đầu. Tuy chưa thể khẳng định về quy mô và công năng của tất cả các công tŕnh nhưng rơ ràng các phế tích này cho thấy một quần thể kiến trúc toà ngang dăy dọc khá phong phú. Dung mạo của một bộ phận Hoàng Thành Thăng Long xưa đă hiển hiện qua dấu vết vật chất chứ không chỉ là h́nh ảnh của sách vở, chữ nghĩa.

Cùng những phát hiện quan trọng về các dấu tích kiến trúc, một số lượng lớn đồ gốm sứ là những vật dụng dùng hàng ngày trong Hoàng cung qua nhiều thời kỳ cũng được t́m thấy. Những khám phá này đă thực sự mở ra một cánh cửa mới cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long qua các triều đại.

 

Đầu trang    Quay lại

 

 

  Đồ gốm trong Hoàng thành Thăng Long - Gốm thời Trần

 

 

 

 

Liễn gốm men xanh ngọc, thời Trần. Cao 24cm; ĐKM 23cm

 

Tước gốm men nâu, thời Trần cao 10cm

Gốm thời Trần t́m được khá nhiều trong các hố khai quật và thường được t́m thấy cùng với những đồ gốm trang trí kiến trúc cùng thời. Gốm thời kỳ này có rất nhiều loại, gồm các ḍng gốm: men trắng, men ngọc, men xanh lục, men nâu, hoa nâu và hoa lam.

 

Chậu hoa nâu trang trí văn cành lá, thời Trần. Cao 10,5cm; ĐKM 23,3cm

 

Thạp gốm hoa nâu lớn trang trí văn hoa sen, thời Trần, cao 65cm

Do phát triển kế thừa trực tiếp từ gốm thời Lư, nên các loại gốm thời Trần cơ bản có phong cách giống với gốm thời Lư cả về h́nh dáng, màu men và hoa văn trang trí. Cũng chính v́ đặc thù này nên việc phân tách giữa gốm thời Lư và gốm thời Trần là điều không phải dễ dàng. Tuy nhiên, dựa vào một số kết quả nghiên cứu kỹ thuật tạo chân đế, hiện nay chúng tôi bước đầu đă có thể phân biệt được sự khác nhau giữa gốm Lư và gốm Trần. Nh́n chung, kỹ thuật tạo chân đế của gốm thời Trần thường không được làm kỹ như gốm thời Lư. Về hoa văn trang trí cũng vậy, mặc dù có cách bố cục hoa văn như thời Lư, nhưng về chi tiết gốm thời Trần không tinh xảo và cầu kỳ như gốm thời Lư. Đặc biệt đối với gốm men độc sắc, bên cạnh loại gốm trang trí hoa văn khắc ch́m, thời Trần c̣n phổ biến loại gốm có hoa văn in khuôn trong. Dường như đây là loại hoa văn rất phát triển ở thời Trần và nó có sự phong phú, đa dạng hơn nhiều về h́nh mẫu so với gốm thời Lư. Tại hố đào ở khu D cũng đă t́m thấy mảnh khuôn in gốm thời kỳ này cùng nhiều mảnh bao nung, con kê và đồ gốm phế thải.

 

Chậu hoa nâu trang trí chim và hoa sen, thời Trần. Cao 14,5cm; ĐKM 35m

 

Đĩa đài lớn men xanh ngọc nhạt, thời Trần. Cao 14cm; ĐKM 40cm.

Bên cạnh sự phong phú các loại h́nh đồ gốm độc sắc (men trắng, men ngọc, men nâu) tại khu vực khai quật đă t́m được khá nhiều đồ gốm hoa nâu có chất lượng cao. Trong đó, đáng chú ư nhất là chiếc thạp lớn có nắp trang trí hoa sen và những chiếc ṿ, chậu trang trí hoa văn dây lá. Đặc biệt, tại hố D5 c̣n t́m thấy một chiếc chậu trang trí h́nh bốn con chim đang đi kiếm mồi trong bốn tư thế khác nhau, xen giữa là cành lá sen và hoa sen nhỏ. Theo tư liệu hiện vật có trong tay th́ đây là một trong những tiêu bản gốm hoa nâu thời Trần đặc sắc ở Việt Nam.

 

Những mảnh đáy bát đĩa vẽ cành hoa cúc bằng màu xanh coba It, thời Trần

 

Chồng đĩa lớn vẽ cành hoa cúc màu nâu sắt, thời Trần

Nét mới riêng biệt và rất đáng lưu ư về gốm thời Trần là sự xuất hiện ḍng gốm hoa lam. Loại gốm này được t́m thấy khá nhièu trong các hố khai quật và phổ biến là bát, đĩa vẽ cành hoa cúc màu nâu sắt và xanh cobalt giống như những đồ gốm đă được xuất khẩu sang Đông Nam Á, Trung Đông và Nhật Bản vào khoảng giữa thế kỷ XIV. Đáng lưu ư là tại các hố ở khu D đă t́m thấy chồng đĩa lớn vẽ cành hoa cúc cùng nhiều chồng dính của loại gốm men độc sắc trang trí văn mây h́nh khánh, chim phượng và hoa lá. Tư liệu này góp phần khẳng định thêm rằng, ngoài những dấu hiệu vè ḷ gốm thời Lư nói trên khả năng ở đây c̣n có những ḷ gốm thời Trần.

 

 

Đầu trang    Quay lại

 

 

Đồ gốm trong Hoàng thành Thăng Long - Gốm thời Lê

 

 

 

Cùng những phát hiện quan trọng về các dấu tích kiến trúc, một số lượng lớn đồ gốm sứ là những vật dụng dùng hàng ngày trong Hoàng cung qua nhiều thời kỳ cũng được t́m thấy. Những khám phá này đă thực sự mở ra một cánh cửa mới cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long qua các triều đại.

Đồ gốm sứ thời Lê t́m được tại các hố khai quật có số lượng lớn, nhưng tập trung nhiều nhất là ở khu vực ven triền sông cổ nằm giữa Khu A và B.

Để nhận diện về chất lượng gốm dùng trong Hoàng thành, tôi phân định gốm thời Lê theo ba thời kỳ: Gốm thời Lê Sơ (thế kỷ XV), Gốm thời Lê-Mạc (thế kỷ XVI) và Gốm thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII - XVIII). Nh́n chung, gốm thời Lê - Mạc và Lê Trung Hưng có chất lượng thấp, hoa văn trang trí đơn giản và phát triển mạnh theo xu hướng dân gian. Những sưu tập đồ gốm t́m được từ các hố khai quật phần nhiều là sản phẩm của các ḷ gốm vùng Hải Dương và Bát Tràng. T́nh h́nh này có sự khác biệt lớn so với gốm thời Lê Sơ.

Đĩa hoa lam lớn vẽ rồng và mây thời Lê Sơ Tk 15. ĐKM 37,7cm

Bát nhỏ trang trí văn in bông hoa cúc. Gốm Hải Dương thời Lê, TK 17. Cao 5,2cm; ĐKM 14,4cm

H́nh này cho thấy độ mỏng (thấu quang)

 

Gốm thời Lê Sơ có bước phát triển đột biến với sự bùng nổ các trung tâm sản xuất gốm lớn, nhất là vùng Hải Dương. Thời kỳ này gốm hoa lam, gốm men trắng và gốm vẽ nhiều màu đạt đến đỉnh cao của sự tinh mỹ. Bằng chứng từ những phát hiện trên các con tàu đắm ở Hội An (Quảng Nam), Pandanan (Philippin)... cho thấy những đồ gốm này đă từng là mặt hàng chủ đạo trong việc xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Trong công tŕnh nghiên cứu trước, khi bàn về gốm ngoại thương Việt Nam, tôi đă đưa ra nhận xét rằng: nhiều đồ gốm cao cấp trong lô hàng trên con tàu đắm Hội An có những sản phẩm của ḷ gốm Thăng Long. Nhận xét này nay đă có đủ cơ sở khi tại dải gốm ven sông Khu A chúng tôi t́m thấy nhiều loại gốm hoa lam cao cấp, có h́nh dáng và hoa văn tương tự như những đồ gốm trên tàu đắm Hội An, ví dụ như loại bát vẽ rồng 4 móng, dưới đáy khắc chữ Trù (bếp), giữa ḷng viết chữ Kính hay loại đĩa lớn vẽ rồng có bút pháp tinh tế như trên bản đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Phát hiện có ư nghĩa này cho phép một lần nữa khẳng định về sự góp mặt quan trọng của gốm Thăng Long trong mối giao lưu kinh tế, văn hoá với quốc tế trong lịch sử.

Bát hoa lam vẽ cành lá, thời Lê Sơ, Tk 16. Cao 6,5cm; ĐKM 12,7cm

 

Bát sứ trắng mỏng trang trí in nổi h́nh rồng có chân 5 móng, ḷng in chữ Quan. Đồ ngự dụng, thời Lê Sơ TK 15. Cao 6,5cm; ĐKM 12,5cm

Điếu bát vẽ lam. Gốm Hải Dương thời Lê, Tk 17 - 18, cao 9,0cm 

 

Một phát hiện khác đem lại sự cảm phục của giới chuyên môn và những người say mê cổ ngoạn là loại gốm trắng mỏng trang trí in nổi h́nh rồng có chân 5 móng (cũng có loại rồng có 4 móng), giữa ḷng ghi chữ Quan hay chữ Kính. Nghiên cứu so sánh với gốm Hải Dương, tôi cho rằng đây là những sản phẩm của ḷ quan Thăng Long.

Nhóm b́nh, lọ men trắng thời Lê Sơ, TK 15

Nhóm đồ sứ hoa lam cao cấp trang trí rồng, phượng. Đồ ngự dụng, thời Lê Sơ TK 15

 

Cách đây vài năm trước, tại di chỉ gốm Ngói, Chu Đậu (Hải Dương) và Kim Lan (Gia Lâm) tôi đă t́m thấy bằng chứng sản xuất gốm của ḷ quan ở đây. Sản phẩm chính của những ḷ quan này được khẳng định rơ qua những đồ gốm sứ men trắng, trang trí in khuôn văn sóng nước h́nh vảy cá, giữa ḷng in nổi chữ Quan như gốm Thăng Long. Nhưng so với gốm Thăng Long th́ gốm ḷ quan Hải Dương có xương gốm dày, nặng và độ trắng của xương và men kém hơn gốm Thăng Long. Gốm Thăng Long cũng có loại xương gốm mỏng và loại xương gốm dày, nhưng về cơ bản xương gốm Thăng Long có chất lượng tốt hơn gốm Hải Dương. Gốm trắng mỏng Thăng Long chủ yếu là các loại bát, đĩa cỡ nhỏ, có xương mỏng như vỏ trứng (dạng sứ thấu quang), thành trong in nổi h́nh hai con rồng chân có 5 móng, giữa ḷng in chữ Quan. Loại gốm trắng mỏng này chưa từng t́m được ở đâu ngoài khu lăng mộ vua nhà Lê ở Lam Kinh (Thanh Hoá). Đặc điểm đáng lưu ư về loại gốm mỏng này là được nung đơn chiếc và men thường phủ kín đáy và mép vành chân đế. Chân đế được tạo rất mỏng và mép vành chân vê tṛn chứ không cắt vát và cạo men ở mép vành chân như gốm Hải Dương. Đây là đặc điểm kỹ thuật rất khác biệt giữa gốm Thăng Long và gốm Hải Dương hay gốm Kim Lan. Bên cạnh loại gốm trang trí rồng, ở Thăng Long c̣n có loại gốm trắng trang trí văn in hoa cúc dây, giữa ḷng cũng in nổi hay viết chữ Quan, nhưng phổ biến hơn là in h́nh một bông hoa nhỏ có 5 hoặc 6 cánh. Tại hố A10 cũng t́m được một khuôn in loại hoa văn này với đường nét tinh xảo.

Lư hương  men trắng có 3 chân, thân trang trí nổi quẻ "bát quái". Thời Lê Sơ, TK 15, cao 19,5; Đkm 25,5

Bát hoa lam cao cấp vẽ rồng có chân 5 móng. Đồ ngự dụng thời Lê Sơ, Tk 15, cao 9,5cm; Đkm 16,1cm

Mảnh bát, đĩa vẽ rồng, phượng. Đồ ngự dụng thời Lê Sơ, TK 15

 

Ngoài ra, loại gốm men trắng vẽ chỉ lam cũng t́m được khá nhiều, nhưng ở loại cao cấp giữa ḷng thường viết chữ Quan bằng màu xanh cobalt. Trong số lượng phong phú các loại b́nh, ṿ men trắng t́m thấy trong dải gốm ven sông Khu A cũng có khá nhiều tiêu bản dưới đáy viết chữ Quan bằng màu son nâu. Chữ Quan ở đây được hiểu theo hai nghĩa: quan diêu (sản phẩm của ḷ quan) và quan dụng (đồ dùng dành cho vua quan).

Cùng với chữ Quan, sự tinh mỹ đến mức ngạc nhiên của loại sứ trắng mỏng và gốm hoa lam cao cấp được trang trí các đồ án mang tính biểu trưng của vương quyền (rồng có chân 5 móng và h́nh chim phượng) cho thấy rơ đây là những đồ ngự dụng trong Hoàng cung.

Nhận định trên được củng cố thêm khi ở đây khi t́m thấy nhiều đồ gốm sứ có ghi chữ Hán ''Trường Lạc'' hay ''Trường Lạc khó''. Theo ghi chép của sử cũ th́ Trường Lạc là cung của bà Trường Lạc Thánh Từ Hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng vợ của vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Như vậy những đồ sứ này được hiểu đó là những vật dụng của cung Trường Lạc.

Bên cạnh số lượng lớn và đa dạng các loại h́nh đồ gốm nói trên, tại khu vực khai quật c̣n t́m được một sưu tập phong phú các loại đĩa đèn dầu lạc nhỏ men trắng và các loại b́nh vôi c̣n khá nguyên vẹn. Trong sưu tập b́nh vôi có khá nhiều tiêu bản đẹp, phần quai tạo h́nh tua cau và những quả cau nhỏ đă được dùng đựng vôi để ăn trầu.

Cùng với loại h́nh b́nh vôi, ở dải gốm ven sông c̣n t́m thấy những chiếc b́nh đựng bă trầu bằng gốm men (hay c̣n gọi là ống nhổ) và một số chuôi dao cau làm bằng nanh, vuốt thú hay bằng loại gỗ quư. Xung quanh một số chuôi dao c̣n được bọc kim loại màu vàng và bên trên được chạm khắc hoa văn rất đẹp. Nhóm di vật này có niên đại vào khoảng thời Trần và thời Lê. Những tư liệu này là bằng chứng thuyết phục cho ta biết rằng, trong Hoàng cung xưa, tục ăn trầu cũng rất phổ biến.

Rơ ràng, những khám phá của khảo cổ học về Hoàng thành Thăng Long đă mở ra một chương mới rất quan trọng cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long. Những đồ gốm t́m được ở đây phần lớn là những vật dụng dùng trong Hoàng cung.

Bên cạnh những loại h́nh đồ gốm ngoại nhập, bằng chứng về việc sản xuất tại chỗ của những đồ gốm sứ cao cấp thời Lư, Trần, Lê cũng đă có nhiều cơ sở khẳng định. Dựa vào những đồ gốm phế thải và các công cụ sản xuất, tôi nghĩ rằng ngay từ thời Lư, Thăng Long đă có ḷ quan chuyên sản xuất gốm sứ cung đ́nh. Những ḷ gốm ấy tiếp tục hoạt động kéo dài cho đến thời Lê và sản xuất nhiều loại h́nh đồ gốm sứ cao cấp.

Nhóm b́nh vôi men trắng thời Trần và  thời Lê Sơ

Nhóm đĩa đèn dầu lạc thời Trần và thời Lê

 

Bằng chứng là những đồ gốm sứ thời Lê Sơ trang trí rồng 5 móng, ḷng ghi chữ Quan hay chữ Kính. Như vậy có thể tạm kết luận rằng: việc t́m thấy những đồ ngự dụng trong khu vực khai quật không những cung cấp nguồn tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu về gốm Thăng Long và gốm dùng trong Hoàng cung Thăng Long, mà c̣n góp thêm bằng chứng tin cậy để củng cố ư kiến cho rằng: các dấu tích kiến trúc lớn ở đây là những cung, điện của trung tâm Hoàng thành Thăng Long thời Lư - Trần - Lê.

 

Đầu trang    Quay lại

 

 

HOÀNG THÀNH THĂNG LONG - GÓC NH̀N NGƯỜI TRONG CUỘC

 

    Cấm Thành trước những lựa chọn mang tính lịch sử

 

Nếu quyết định xây trong khu Cấm Thành, th́ đó là quyết định sai lầm mang tính lịch sử, không cách nào chữa được. Trong phạm vi Cấm Thành th́ dù xây ở đâu th́ khi đào lên cũng sẽ lại thấy dày đặc di tích và khi đó theo Luật Di sản, chúng ta phải ngưng lại.  

Sau khi Bộ Quốc pḥng chính thức bàn giao 9.395 mét vuông thuộc khu di tích Thành cổ Hà Nội (phần diện tích thuộc Cục Nhà trường và Trung tâm Thông tin D75 trước đây) cho thành phố Hà Nội, Trung tâm Bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội ngay lập tức lên kế hoạch phá dỡ 58 công tŕnh kiến trúc mới không có giá trị để trả lại không gian kiến trúc cổ cho trục Thần đạo: Bắc Môn - Hậu Lâu - Kính Thiên- Đoan Môn.

Ông Trần Quang Dũng, Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội thông báo: Chúng tôi đă kết hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành lập hồ sơ công nhận Hoàng thành Thăng Long là Di tích đặc biệt cấp quốc gia và sẽ phát triển hồ sơ này thành hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận di tích này là Di sản văn hóa thế giới. 

 

Trục trung tâm của Cấm Thành: Bắc Môn - Hậu Lâu- Kính Thiên- Đoan Môn- Cột cờ.Đường viền đỏ là phạm vi trung tâm của Cấm Thành c̣n sót lại.

 

Đường viền đỏ là giới hạn của Cấm Thành Thăng Long. Khu vực nằm trong h́nh vuông viền xanh là số 18 Hoàng Diệu, chỉ cách trục Thần Đạo 87m - Ảnh chụp từ cuốn Hoàng Thành Thăng Long - Quà tặng các đại biểu quốc tế dự APEC 2006.

 

Như vậy là khu Thành cổ với trục Thần đạo (trục chính của Cấm Thành) đă thông suốt. Những công tŕnh kiến trúc nổi hiếm hoi như Bắc Môn, Hậu Lâu, điện Kính Thiên, Đoan Môn...dù chúng ta cố gắng ǵn giữ th́ cũng chưa đủ sức thuyết phục cho sự tồn tại của một kinh thành cổ tồn tại qua 1000 năm với các lớp văn hóa rực rỡ kế tiếp nhau. Việc phát lộ những dấu vết kiến trúc thuộc trung tâm Cấm Thành, khu 18 Hoàng Diệu, đă bổ sung hoàn hảo cho sự khuyết thiếu này.

Nếu coi đường Hoàng Diệu như gáy một cuốn quốc sử th́ trục Thần đạo với các công tŕnh kiến trúc nổi giống như trang b́a cứng bằng vàng c̣n khu 18 Hoàng Diệu như những trang sách được mở ra với rất nhiều thông tin chính xác, đặc biệt quan trọng mà chúng ta chưa đủ sức hiểu ngay hết giá trị của chúng.

Ư thức rơ giá trị của cả Di tích Thành cổ Hà Nội, đặc biệt là khu 18 Hoàng Diệu, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đă gửi kiến nghị số 52/HSH tới các cơ quan lănh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước về ư định xây Nhà Quốc hội mới trên di tich đặc biệt quư hiếm này, trong đó có đoạn:

"Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân và đại biểu quốc hội là những người đại diện cho quyền lợi, ư chí và nguyện vọng của nhân dân, hoàn toàn không nên xây dựng Nhà Quốc hội trên khu di tích mang ư nghĩa thiêng liêng mà kiến trúc hiện đại chắc chắn sẽ phá vỡ không gian văn hoá-lịch sử và dù thu hẹp đến đâu cũng xâm hại một di sản văn hoá vô giá của dân tộc được các tầng lớp nhân dân rất quan tâm và mong muốn được bảo tồn toàn bộ. Chúng tôi tin rằng các đại biểu Quốc hội ư thức sâu sắc về trách nhiệm của ḿnh, sẽ có quyết định sáng suốt, hợp ḷng dân."

 

GS sử học Đinh Xuân Lâm- Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam:

 

GS. sử học Đinh Xuân Lâm

Lâu nay tôi cứ đinh ninh đă có quyết định chính thức sẽ xây nhà Quốc hội ở ngoài khu vực Cấm Thành, c̣n vấn đề tranh căi của di tích 18 Hoàng Diệu chỉ là cách thức bảo tồn, giữ ǵn cho tốt nhất để có thể nghiên cứu dần dần. Bây giờ lại có ư kiến muốn xây nhà Quốc hội trong Cấm Thành, khiến những người làm sử chúng tôi quá băn khoăn, lo lắng. Dù với lư do tâm linh th́ không phải chỉ trong Cấm Thành mới là đất thiêng, ngày xưa xây Lăng Bác chúng ta cũng không chọn vị trí ở trong phạm vi Cấm Thành.

 

Nếu xây Nhà Quốc hội mới trong Cấm Thành, kể cả có giữ lại khu A, B th́ với một công trường lớn cả ngàn người, với những kỹ thuật xây dựng hiện đại th́ di sản Cấm Thành- vốn mong manh, c̣n nguyên vẹn là do được bảo vệ dưới ḷng đất- sẽ bị phá hủy. Nghĩa là ta tàn phá một di sản quư giá độc nhất vô nhị của dân tộc Việt Nam.

Di tích này đă nhận được sự đánh giá rất cao của giới khoa học quốc tế. Các chuyên gia Nhật Bản khi so sánh với di sản thế giới, cố đô Nara của họ, cũng cho rằng Hoàng Thành của ta có nhiều giá trị hơn. Chính các chuyên gia quốc tế hiểu được chân giá trị của Hoàng Thành và chủ động gợi ư ta làm hồ sơ để được công nhận di sản thế giới, đây là chuyện xưa nay hiếm. Trong khi đó ta lại quá chần chừ, để di tích dăi dầu sương gió nhiều, măi gần đây mới có mái che bảo vệ. Vậy là ta chưa có sự trân trọng đúng mức với di tích. Với một gia tài quư giá như thế- nằm ở trung tâm của Cấm thành, chỉ cách điện Kính Thiên có 87m, đ̣i hỏi sự nghiên cứu sâu để hiểu hết những giá trị đích thực.

Chọn xây nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu th́ sẽ rất hạn chế về quy mô, lại nằm trong một không gian chật hẹp. Quan trọng hơn là chúng ta sẽ hủy hoại di sản quư giá, làm mất hoàn toàn khả năng có một di sản văn hóa thế giới, điều này sẽ khiến giới khoa học quốc tế rất bất ngờ. Nếu quyết định xây trong khu Cấm Thành, tôi cho đó là quyết định sai lầm mang tính lịch sử, không cách nào chữa được. Trong phạm vi Cấm Thành th́ dù xây ở đâu th́ khi đào lên cũng sẽ lại thấy dày đặc di tích tầng tầng lớp lớp mà thôi và khi đó theo Luật Di sản, chúng ta phải ngưng lại.  

Chúng ta xây Trung tâm Hội nghị quốc tế ở Mỹ Đ́nh đă có được quy mô và vị trí xứng đáng, được các đại biểu quốc tế về dự APEC 2006 đánh giá rất cao. C̣n nếu muốn ở trong khu chính trị Ba Đ́nh th́ vị trí cuối đường Hùng Vương (chỗ cắt đường Trần Phú) vẫn nằm trong Hoàng Thành nhưng ở ngoài Cấm Thành, lại sẽ rất cân đối, hài ḥa trong cả quần thể với trục chính: Lăng Bác Hồ, tượng đài liệt sỹ Bắc Sơn và di tích Cấm Thành - Thành cổ Hà Nội sau này sẽ quy hoạch thành công viên lịch sử văn hóa).  

 

PGS.TS. Hà Văn Phùng - Quyền Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam:

 

PGS. TS. Hà Văn Phùng

 Vấn đề bức xúc đặt ra vẫn là chuyện giải phóng mặt bằng cho Cấm Thành. Lúc khai quật khu 18 Hoàng Diệu tôi có được sang Ư để học hỏi kinh nghiệm bảo tồn di sản. Nghe tôi tŕnh bày Cấm Thành có sự bổ sung hoàn hảo giữa khu Thành cổ Hà Nội (phần kiến trúc nổi) và khu 18 Hoàng Diệu (phần kiến trúc ch́m khuất), họ đă nói ngay: "T́nh h́nh ở Việt Nam bây giờ cũng giống như nước Ư sau chiến tranh, chưa đủ ăn, đủ mặc nên có một vật đó ǵ đèm đẹp th́ nghĩ ngay đến việc bán nó đi để giải quyết lúc đói. Lúc đă khấm khá, đă no đủ nếu muốn có lại cái vật kia th́ đă muộn, nó mất rồi c̣n đâu?".

 Tôi cũng đă đi nhiều, nhiều nước như Ba Lan, Liên Xô, Ư, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan… rơ ràng mỗi di tích của họ rất được trân trọng. Di chỉ, di vật được coi như bảo vật của quốc gia nên người ta bảo vệ và làm rất chu đáo. Ví dụ như Thành Rome, đấu trường La Mă,….

Đó là một bài học nhăn tiền! Nếu chúng ta xây Nhà Quốc hội mới lên trên khu di tích 18 Hoàng Diệu th́ có thể được một công tŕnh kiến trúc hiện đại nhưng sẽ mất đi vĩnh viễn một di sản đặc biệt quư hiếm của cả Việt Nam và thế giới. Những công tŕnh xây dựng rồi cũng sẽ đến lúc lạc hậu. Đôi khi chưa chắc ta đă xây đẹp bằng những nước khác hoặc ở một vị trí khác.

Chúng ta mới mở một góc Thành cổ Hà Nội, dẫu chỉ c̣n một góc ở đường Nguyễn Tri Phương, dẫu chỉ c̣n hai con rồng đá ở điện Kính Thiên mà người dân cả nước và khách quốc tế đă nô nức kéo đến chiêm ngưỡng. Nếu quy hoạch cả khu Thành cổ Hà Nội và khu 18 Hoàng Diệu thành một quần thể lịch sử - văn hóa th́ sức thu hút c̣n mạnh đến đâu.

Quan điểm của tôi là: Giữ và giữ đến cùng.

 

GS - TSKH Vũ Minh Giang - PGĐ. Đại học Quốc gia HN, nguyên Chủ nhiệm Khoa lịch sử - ĐHKHXH&NV Hà Nội:

 

Mọi quyết định liên quan đến Cấm Thành đều có tính lịch sử và đ̣i hỏi tầm văn hoá rất cao, bởi nếu sai lầm sẽ không có hy vọng sửa chữa. Nếu chúng ta không thực sự biểu thị thái độ trân trọng đúng mức với di tích, làm phương hại đến tính nguyên gốc và toàn vẹn của di tích th́ khả năng di tích được công nhận là di sản văn hoá thế giới đă nằm trong tầm tay có nguy cơ tuột mất.

Để hiểu hơn giá trị di tích Hoàng thành Thăng Long, có thể xem di tích kinh đô Nara của Nhật Bản, đă được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, như một kinh nghiệm quư báu. Nara chỉ là kinh đô của Nhật Bản trong 74 năm (từ năm 710 đến 784), trong khi đó Thăng Long là kinh đô Đại Việt tới gần 1000 năm. Trên thế giới không có nhiều thủ đô có lịch sử lâu đời như vậy.

Những ǵ người Nhật t́m thấy ở Nara cũng chỉ là dấu tích nền móng của các công tŕnh kiến trúc, những cung điện đă biến mất. Thấy người Nhật và khách quốc tế nườm nượp xếp hàng vào thăm quan các nền cung điện với những lỗ chôn cột (chứ đâu có được tảng đá kê chân cột như ta) mới hiểu v́ sao người ta đánh giá cao di tích Thăng Long của ta. Cung điện được xem là lớn nhất của họ có 18 hố chôn cột, trong khi đó dấu tích cung điện của ta có tới trên 40 tảng kê chân cột, nghĩa là quy mô to hơn rất nhiều. Hệ thống thoát nước của họ là những ống nối với nhau, c̣n ta đă xây cống, xây kè, trổ ngang, tầng trên tầng dưới, thể hiện tŕnh độ rất cao.

Phần lớn những ǵ c̣n lại của Nara chỉ là phế tích, c̣n khi khách đi thăm, các chuyên gia sẽ thuyết minh, sẽ giúp cho họ tưởng tượng lại về thế hệ cha ông hơn 1000 năm về trước. Với những dấu tích chỉ c̣n lại vài bậc thềm, cả những vết gạch xô vẹo, họ cũng phác dựng lại mô h́nh các công tŕnh kiến trúc mà các thế hệ con cháu có thể t́m cách phục dựng. Cũng phải nhắc lại người Nhật cũng đă từng phát hiện di tích Nara một cách t́nh cờ khi triển khai một công tŕnh xây dựng. Khi đó v́ khả năng tài chính và tŕnh độ khoa học c̣n hạn chế, nhưng người Nhật hiểu được giá trị của di tích nên họ đă lấp lại để đến khi có điều kiện họ mới khai quật trở lại và giờ đây đă trở thành một di sản văn hoá thế giới nổi tiếng.

Nếu xây một công tŕnh hiện đại ở di tích 18 Hoàng Diệu, cái được sẽ chỉ là vị trí của ṭa nhà, chỉ thế thôi. Trong khi đó cái mất sẽ rất nhiều. Chiều cao, quy mô chắc chắn bị khống chế. Và quan trọng hơn cả là việc xây dựng sẽ xung đột với di tích. Quá tŕnh thi công chắc chắn sẽ rất phức tạp, không ai dám chắc là di tích sẽ không bị xâm hại. Chắc ǵ trong qua tŕnh đào móng sẽ không vướng di tích ở những vùng ta chưa động đến trước đây? Và nếu gặp di tích thi theo Luật di sản, việc xây dựng sẽ phải dừng lại.

 

   Quay lại

 

 

 

 Bản đồ Cấm Thành qua sử liệu và dấu vết thực địa

 

Theo kết quả đă giám định th́ khu khai quật 18 Hoàng Diệu chắc chắn nằm trong Cấm Thành, thậm chí nó chỉ cách điện Kính Thiên, trung tâm của Cấm Thành, đúng 87m! 

 

Sử liệu cũng như dấu vết thực địa phát lộ qua các cuộc đào thám sát khu Cột cờ, Đoan Môn; đặc biệt là cuộc khai quật khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu đă cho phép chúng ta xác định rơ vị trí Cấm Thành- khu trung tâm của Hoàng thành Thăng Long.

Về kiến trúc Cấm Thành, theo sử liệu cũng như các dấu vết tại thực địa cho thấy:

Thứ nhất, trung tâm của Cấm Thành là điện Kính Thiên thời Lê sơ; xưa là điện Càn Nguyên, Thiên An thời Lư, Trần. Đó cung điện quan trọng bậc nhất, nơi tiến hành các nghi lễ long trọng nhất của triều đ́nh, nơi tiếp sứ giả nước ngoài, nơi thiết triều bàn những việc quốc gia đại sự. Nền điện Kính Thiên bây giờ c̣n đó với bậc thềm và lan can đá chạm rồng mang đặc trưng nghệ thuật trang trí thế kỷ XV.

Thứ hai là Đoan Môn, cửa Nam của Cấm Thành. Tài liệu sử sách cho biết  vị trí của Đoan Môn cũng không thay đổi qua các triều đại. Vừa rồi khảo cổ đă đào thám sát và xác định chắc chắn Đoan Môn c̣n lại hiện nay được xây dựng từ thời Lê, đến thời Nguyễn có sửa sang lại. Dưới chân Đoan Môn đă phát hiện dấu tích kiến trúc của thời Lư, Trần. Đoan Môn phải hiểu là cửa Nam phía trong trong cùng của Cấm Thành, bởi theo Phan Huy Chú và Nguyễn Văn Siêu th́ phía nam Cấm Thành có ba lần cửa, nh́n trên bản đồ Hồng Đức cũng thấy điều đó. Theo một số tài liệu đời Nguyễn th́ Cột cờ được xây dựng trên nền cửa Tam Môn là cửa Nam ngoài cùng của Cấm Thành.

Như vậy là Kính Thiên – Đoan Môn – Cột Cờ/Tam Môn là trục trung tâm của Cấm Thành.

Thứ ba là chùa Một Cột. Theo văn bia Sùng Thiện Diên Linh (chùa Đọi, Duy Tiên, Hà Nam) do Nguyễn Công Bật soạn năm 1121 thời Lư th́ chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột dựng ở phía tây Cấm thành. Vậy tường thành phía tây của Cấm thành không thể quá vị trí chùa Một Cột. Theo bản đồ Hồng Đức và nhiều tài liệu địa lư, lịch sử th́ ở phía Tây Bắc của Cấm Thành có cửa Tây (Tây Môn) và phía ngoài có núi Khán Sơn và chùa Khán Sơn là nơi vua Lê Thánh Tông lên duyệt binh. Đầu thế kỷ XIX khi nhà Nguyễn xây dựng lại thành Thăng Long, từ năm 1831 đổi tên là thành Hà Nội, th́ Khán Sơn nằm bên trong, ở về phía Tây Bắc của thành Hà Nội, nghĩa là nằm ở khoảng cuối Hùng Vương gần Phan Đ́nh Phùng, trước mặt Chủ tịch phủ và Thủ tướng phủ hiện nay. Từ đó, có thể phỏng đoán tường thành phía tây Cấm Thành ở vào khoảng đường Độc Lập đến giữa Quảng trường Ba Đ́nh.

Vậy là ta đă xác định được vị trí trung tâm, trục trung tâm cùng giới hạn phía nam và phía tây của Cấm Thành.

Theo bản đồ Hồng Đức, Cấm Thành có h́nh chữ nhật, nhưng Đông cung và Thái miếu ở phía đông - theo Nguyễn Văn Siêu - dù nằm trong tường thành bảo vệ nhưng vẫn không được coi là trong Cấm Thành. Như vậy, Cấm Thành gần như h́nh vuông. Điều này cũng rất phù hợp với việc nhà Nguyễn xây dựng thành Hà Nội  trên cơ sở mở rộng Cấm Thành. Trong chỉ dụ của vua Gia Long có nói thành Thăng Long (Cấm thành) chật hẹp, cho nên phải mở rộng thêm. Thành Hà Nội của nhà Nguyễn v́ thế rộng hơn Cấm Thành, nhưng nhỏ hơn Hoàng thành.

Theo kết quả xác định trên th́ khu khai quật chắc chắn nằm trong Cấm Thành và chỉ cách điện Kính Thiên chưa đầy 100 m tức gần vùng trung tâm của Cấm Thành. Trong lịch sử thành Thăng Long, La thành (hay Đại La thành), Hoàng Thành trải qua khá nhiều thay đổi, nhưng trung tâm của Hoàng thành, đặc biệt là vị trí, qui mô của Cấm Thành (c̣n gọi là Cung thành) th́ gần như không thay đổi. Chỉ có kiến trúc bên trong th́ dĩ nhiên qua nhiều lần xây dựng, tu sửa. Chính đặc điểm này giải thích tại sao trên khu di tích 18 Hoàng Diệu, các lớp di tích kiến trúc và di vật chồng lên nhau qua các thời kỳ lịch sử. 

PGS-TS Tống Trung Tín-Phó Viện trưởng, Viện Khảo cổ học Việt Nam:

Chính sử ba thời kỳ lớn Lư, Trần, Lê đều ghi rất rơ: xung quanh điện Kính Thiên thời Lê (chính là xung quanh điện Thiên An thời Lư, Trần) dày đặc các cung điện. Vị trí khai quật của di tích 18 Hoàng Diệu cách điện Kính Thiên đúng 87m, xuất lộ dày đặc các dấu tích cung điện rất phù hợp với sử liệu Lư, Trần, Lê.

Từ trung tâm của điện Kính Thiên cho đến Đoan Môn (trên trục chính của Cấm Thành), ta đă thăm ḍ khảo cổ học ở vị trí trước Đoan Môn, t́m thấy dấu vết Ngự đạo. Nhiều người cho rằng cứ tiếp tục t́m ở quanh đó th́ sẽ thấy các cung điện, nhưng suy luận theo các tài liệu lịch sử th́ sẽ thấy ở đó chỉ có điện Kính Thiên, Đoan Môn, điện Thị Triều, c̣n lại sẽ là đường vua đi (ngự đạo) và sân rồng.

Trong khi đó, khi khai quật hố A20 (khu A), các nhà khảo cổ học Việt Nam cũng như Nhật Bản khi nghiên cứu kiến trúc phân bố của các trụ móng cột cũng như kỹ thuật bó nền của nó thấy dấu vết c̣n ăn sâu vào đường Hoàng Diệu th́ thấy rơ đây là những kiến trúc rất lớn, chạy từ Hố A20 vắt qua đường Hàng Diệu sang phía khu thành cổ Hà Nội hiện nay.

Những kiến trúc này đều được gia cố bằng hệ thống móng trục bằng sỏi, gạch, ngói vụn nhồi với kích thước rất lớn, h́nh dáng gần h́nh vuông mà mỗi cạnh 1.2 m, chiều sâu 1m. Các chuyên gia nghiên cứu kiến trúc cổ các nước đến đây giúp ta đều nhận định đó phải là những hệ thống móng trụ để đỡ một hệ thống khung cột, mái nhà bên trên rất lớn, phải là những kiến trúc quan trọng của khu vực này.

Ở khu B, khu D cũng t́m thấy những dấu vết kiến trúc như thế. Riêng khu C chỉ mới khai quật thăm ḍ, nhưng đă thấy nhiều dấu vết kiến trúc quan trọng, lại nằm giữa hai khu B và D.

Rồi ta t́m thấy dấu vết của những cung điện đă ghi trong lịch sử là nằm trong Cấm Thành, như khu A th́ t́m thấy dấu vết của Trường Lạc cung, là cung của hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng, vợ vua Lê Thánh Tông, sau là Hoàng thái hậu thời vua Lê Hiển Tông. Ta t́m thấy những đồ dùng có ghi rơ Trường Lạc khố (đồ ở cung Trường Lạc) hoặc ghi là Trường Lạc cung (đồ của cung Trường Lạc). Cung của Hoàng hậu, Hoàng thái hậu  là cung cấm, không thể không nằm trong Cấm thành.

Ở khu D (sát đường Độc Lập), ta t́m thấy 2 dấu vết quan trọng. Thứ nhất là ngói thời Trần có ghi Hoàng Môn Thự, cơ quan đầu năo gần vua nhất, giúp mọi việc cho các vị vua thời Trần nằm trong Cấm Thành. Ta c̣n thấy dấu vết của điện Kim Quang thời Lê qua những viên ngói ghi rơ "Kim Quang điện", rồi gạch của hàng chục phiên hiệu quân đội thời Lê ở đây.

Nghiên cứu chi tiết các di vật t́m được ở đây lại càng t́m thấy nhiều bằng chứng của khu trung tâm Cấm Thành. Hàng vạn viên gạch t́m được của rất nhiều thời kỳ, trong đó sớm nhất là gạch "Giang Tây quân" từ thời thành Đại La (thế kỷ VII đến IX), rồi gạch Long Thụy Thái B́nh từ năm 1057... hệ thống trang trí toàn là những biểu trưng của nhà vua như rồng, hoa sen, hoa cúc. 

Kèm theo đó là một hệ thống di vật những đồ dùng trong hoàng cung như bát, đĩa, chum, vại đều ở tŕnh độ cao. Như đồ gốm sứ cao cấp thời Lư, Trần, gốm mỏng thời Lê tŕnh độ không kém ǵ Trung Quốc, hoa văn rất đẹp, biểu trưng cho các quyền uy của hoàng gia. Đặc biệt t́m thấy ở khu D những lá kim loại màu vàng của thời Lư có chạm khắc h́nh rồng - theo các chuyên gia trong và ngoài nước th́ những chiếc lá kim loại bằng vàng, màu vàng chỉ tượng trưng cho vua)

Những bằng chứng này đă đủ khẳng định di tích 18 Hoàng Diệu thuộc Cấm Thành, thậm chí là trung tâm của Cấm Thành.

Ở Bắc Kinh, mấy chục năm trước dân phá lớp thành ngoài cùng (tương đương thành Đại La của ta) để lấy gạch xây nhà, vài năm gần đây Chính phủ Trung Quốc có chủ trương tôn tạo lại toàn bộ ṿng thành ngoài (tương đương những con đường như Đê La Thành, Hoàng Hoa Thám), người dân đă dỡ toàn bộ gạch cổ của nhà ḿnh ra để góp sức tôn tạo đúng như nguyên bản.

 

   Quay lại

 

 

    GS sử học Phan Huy Lê   - Vẫn c̣n giải pháp hay cho Cấm Thành

Cho đến thời điểm này các nhà khoa học vẫn chưa đưa ra được các phương án bảo tồn di tích 18 Hoàng Diệu, Hoàng Thành Thăng Long nhưng đă có ư tưởng áp dụng các công nghệ bảo tồn tiên tiến nhất để xây dựng một công tŕnh lớn tại đây...

Sau 3 năm phát hiện, công tác bảo quản khu tích này vẫn chưa có phương án cụ thể và lâu dài. Giả sử chúng ta xây dựng những công tŕnh lớn trên đó và áp dụng công nghệ tiên tiến nhất để bảo tồn th́ mức độ ảnh hưởng sẽ như thế nào?  

- Tôi nghĩ rằng sự kế tục truyền thống văn hiến của trung tâm quyền lực là ư tưởng hay, nhưng không nên quan niệm không gian lịch sử văn hoá truyền thống này chỉ trên mảnh đất 18 Hoàng Diệu và chỉ xây dựng trên khu vực này mới thể hiện được tính kế thừa truyền thống của cơ quan quyền lực. 

Đúng Cấm Thành là vùng trung tâm nhất, nhưng nói "địa linh", "thắng địa" của kinh thành th́ cần hiểu bao gồm cả Hoàng Thành Thăng Long và rộng ra là cả vùng kinh sư như vua Lư Thái Tổ đă xác định "ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước", "chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư của muôn đời". Thậm chí có người cho rằng nhà Quốc hội cần xây dựng trong khu trung tâm của Cấm Thành, phía trước nền điện Kính Thiên, giữa Đoan Môn và Cột Cờ v́ núi Nùng là "Rốn Rồng", là trung tâm theo quan niệm phong thủy và tâm linh, mọi long mạch của non sông đất nước đều từ đây tỏa ra. 

Chúng ta không bàn về thuyết phong thuỷ, nhưng xin lưu ư là nếu theo phong thuỷ th́ xây dựng một công tŕnh hiện đại với móng đào và đóng cọc sâu đến vài ba chục mét là tự ta đă cắt đứt long mạch rồi.  

Hơn nữa, về phương diện lịch sử th́ dù đất thiêng đến đâu cũng phải trải qua những bước thăng trầm lúc thịnh lúc suy của lịch sử. Như thời Lê mạt th́ Cấm Thành dành cho các vua Lê danh nghĩa, c̣n đâu là vượng khí nữa? Chúa Trịnh thời đó  không ở trong Cấm Thành mà dựng Phủ chúa bên khu hồ Hoàn Kiếm. Cơ quan quyền lực thực sự đă chuyển ra ngoài Cấm Thành.  

Tôi rất ủng hộ chủ trương trong khu trung tâm chính trị Ba Đ́nh cần có Nhà Quốc hội. Công tŕnh kiến trúc này phải có vị trí, cảnh quan và qui mô xứng đáng với vai tṛ Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân. Rơ ràng Hội trường Ba Đ́nh quá nhỏ và nên bảo tồn như một di tích lịch sử văn hoá hiện đại v́ tại đây đă diễn ra nhiều sự kiện trọng đại trong thời đại Hồ Chí Minh

Tôi rất ủng hộ chủ trương trong khu trung tâm chính trị Ba Đ́nh cần có Nhà Quốc hội. Công tŕnh kiến trúc này phải có vị trí, cảnh quan và qui mô xứng đáng với vai tṛ Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân. Rơ ràng Hội trường Ba Đ́nh quá nhỏ và nên bảo tồn như một di tích lịch sử văn hoá hiện đại v́ tại đây đă diễn ra nhiều sự kiện trọng đại trong thời đại Hồ Chí Minh

                                                                                                                                             

"Chỉ cần một tư duy cởi mở hơn th́ sẽ giải quyết được một cách trọn vẹn mọi vấn đề. Giữa thủ đô Hà Nội có một Di sản văn hóa thế giới sẽ nâng vị thế của Hà Nội, là điều mọi người dân Hà Nội và cả nước đều mong chờ. Đó sẽ là sự kết hợp hoàn hảo của truyền thống và hiện đại, là bài tính trọn vẹn, được mọi mặt."

GS sử học Phan Huy Lê

Nếu xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu tức trong không gian của khu di tích Hoàng Thành Thăng Long vừa phát lộ th́ theo tôi, gặp rất nhiều hạn chế. Chiều cao sẽ bị khống chế bởi gần Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh. Diện tích xây dựng bị thu hẹp v́ phải bảo tồn di tích Hoàng Thành, chí ít là khu A, B (theo sơ đồ khai quật khảo cổ học).  

Trên phần c̣n lại là khu C, D, qua những hố khai quật cũng t́m thấy nhiều di tích, di vật không kém ǵ khu A, B và v́ thế phải t́m những giải pháp bảo tồn trong nền Nhà Quốc hội không đơn giản, lại bị khống chế về chiều sâu. Theo tính toán sơ bộ th́ diện tích xây dựng chỉ c̣n khoảng 7000-8000 mét vuông. Đó là chưa nói tới việc xây dựng Nhà Quốc hội ở đây sẽ được ǵ, mất ǵ. Trong thư kiến nghị của Hội Khoa học lịch sử, chúng tôi cũng đă bước đầu cảnh báo những hệ quả có thể xảy ra.  

 

Trục trung tâm của Cấm Thành: Bắc Môn - Hậu Lâu- Kính Thiên- Đoan Môn- Cột cờ.Đường viền đỏ là phạm vi trung tâm của Cấm Thành c̣n sót lại.

 

Đường viền đỏ là giới hạn của Cấm Thành Thăng Long. Khu vực nằm trong h́nh vuông viền xanh là số 18 Hoàng Diệu, chỉ cách trục Thần Đạo 87m - Ảnh chụp từ cuốn Hoàng Thành Thăng Long - Quà tặng các đại biểu quốc tế dự APEC 2006.

 

Điều cần quan tâm nhất là xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu, dù với phương án nào, qui mô nào cũng phá vỡ không gian lịch sử văn hoá của khu di tích và không bảo đảm được tính toàn vẹn của di tích, tức tự làm mất khả năng được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới. Tôi cũng muốn nói rơ là tính toàn vẹn của khu di tích ở đây không phải là sự toàn vẹn của Cấm Thành hay Hoàng Thành mà thực tế là đă bị thu hẹp và xáo trộn, một phần bị huỷ hoại.  

Nhưng khu di tích đă phát lộ và cả phần c̣n lại của di tích Hoàng Thành hay Cấm Thành chưa bị các kiến trúc hiện đại phá huỷ, th́ cần được bảo vệ nghiêm ngặt trong một qui hoạch do chúng ta đề xuất theo đúng tiêu chí Di sản văn hoá thế giới của UNESCO. Nếu xây Nhà Quốc hội ở đây th́ theo tôi hiểu, chắc chắn UNESCO sẽ không chấp nhận hồ sơ đăng kư Di sản văn hoá thế giới của chúng ta. 

Nhiều người cho rằng chỉ cần bảo tồn khu A, B trong di tích Hoàng Thành Thăng Long (18 Hoàng Diệu) thôi, c̣n khu C, D th́ có thể xây dựng Nhà Quốc hội trên đó....

- Khu C th́ ta chưa khai quật bao nhiêu nên tôi không dám khẳng định, c̣n khu D dù chỉ mới khai quật mấy hố, nhưng đă thấy dày đặc di tích. Như Hoàng Môn Thự ở đây, Kim Quang điện ở đây, rồi nhiều gạch của thời Lư, Trần và cả của thời thành Đại La cũng thấy ở đây. Nếu xây nhà Quốc hội th́ sẽ phải dành thời gian khai quật, mà khai quật th́ sẽ phát hiện thêm rất nhiều di tích. 

Khi xây Nhà Quốc hội ở đây, cũng đă nghĩ đến giải pháp là các di tích phát hiện sẽ bảo tồn tại chỗ ngay dưới nền nhà Quốc hội, có kính để nh́n xuống, có đường hầm xuống để tham quan. C̣n nếu di tích dày đặc quá th́ sau khi khai quật và nghiên cứu, sẽ dùng các giải pháp làm cứng hóa các di tích-di vật rồi lấy ra và xây dựng xong lại đưa vào vị trí cũ.  

Với công nghệ hiện đại th́ trên lư thuyết có thể xây nhà ở trên mà bảo tồn di tích ở dưới, và nhiều nơi đă thực hiện. Gần đây tôi thăm Osaka ở Nhật Bản, có một di tích khảo cổ học  phát hiện bên cạnh thành cổ Osaka, bộ phận di tích lớn th́ họ bảo vệ toàn bộ, c̣n bộ phận nhỏ tách ra th́ họ xây dựng một ṭa nhà cao tầng lên trên, bảo tồn nguyên trạng bên dưới (không phải lấy ra rồi chuyển vào), có kính để xem, có đường xuống tham quan bên dưới.  

Nhưng các chuyên gia Nhật có nói với tôi là làm thế vẫn là chuyện vạn bất đắc dĩ, và với công nghệ xây dựng hiện đại, họ cũng chỉ có thể làm dầm thép dài tối đa là 80m, nhiều lắm cũng chỉ 100m, nghĩa là chỉ có thể bảo tồn nguyên vẹn dưới nhà di tích nhỏ mà không phải đào móng phá huỷ di tích. Tuy cố gắng như vậy, công tŕnh vẫn bị dư luận Nhật lên án. C̣n khu D của ta lớn hơn nhiều và công việc bảo tồn nguyên trạng dưới nền nhà không đơn giản và rất tốn kém.  

Dù đó là giải pháp tối ưu trong trường hợp quyết định xây dựng Nhà Quốc hội ở đây, nhưng sẽ không tránh khỏi những hệ quả. Thứ nhất, về mặt cảnh quan th́ Nhà Quốc hội rất hiện đại bên cạnh di tích cổ xưa rất đơn sơ nhưng rất quư giá và linh thiêng của tổ tiên để lại, đó sẽ là sự đối chọi mang tính phản cảm, phá vỡ không gian lịch sử văn hóa, kiến trúc hiện đại sẽ che khuất các di tích lịch sử ngàn năm. Thứ hai, việc bảo tồn bên dưới trên lư thuyết th́ dễ, nhưng trên thực tế th́ không đơn giản chút nào. Bảo tồn y nguyên đă khó, đưa ra khỏi tầng văn hoá rồi chuyển vào chỗ cũ lại c̣n khó hơn nhiều, có làm được th́ di tích cũng mất đi phần quan trọng giá trị của nó, đâu c̣n tính nguyên trạng. Cái giá ta phải trả đắt nhất khi xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu là làm mất khả năng được công nhận khu di tích là Di sản văn hóa thế giới.  

Hội Khoa học lịch sử cũng như cá nhân tôi, tự xác định trách nhiệm của ḿnh là phải cảnh báo tất cả những hệ quả có thể xảy ra và cung cấp những ư kiến tư vấn cho lănh đạo. Đây là một quyết định rất hệ trọng và nhạy cảm, dĩ nhiên người ra quyết định xây dựng sẽ phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước công luận trong nước và thế giới, và chịu trách nhiệm trước sự phán xét của lịch sử. Trong trường hợp cấp trên vẫn quyết định xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu th́ phải chấp hành nhưng dứng trên phương diện  cá nhân tôi vẫn bảo lưu ư kiến của ḿnh v́ tôi cho rằng quyết định như thế là sai lầm.  

- Tôi và giáo sư Phan Khanh đă từng suy nghĩ về địa điểm xây dựng Nhà Quốc hội trong khu Trung tâm chính trị Ba Đ́nh. Sau đó một số cơ quan có trách nhiệm cũng đă đề xuất những vị trí có thể lựa chọn như lô H6, H7 nằm hai bên đường Hùng Vương, giữa phố Trần Phú và Lê Hồng Phong, có diện tích gần 4 hecta hay lô A7 nằm đối diện với Bảo tàng Hồ Chí Minh có diện tích khoảng 3,5 hecta. Lô H6, H7 chỉ có những kiến trúc của nhà nước, có thể nghiên cứu một qui hoạch vừa giữ một số công tŕnh làm cơ quan của Quốc hội, vừa phá dỡ một số nhà để làm diện tích xây dựng Nhà Quốc hội.  

Lô A7 nếu chọn làm địa điểm xây Nhà Quốc hội th́ phải giải tỏa một số nhà dân, tôi tin rằng người dân sẽ hoàn toàn ủng hộ nếu biết vận động và đền bù thỏa đáng. Quốc hội vận động giải toả thành công có khi c̣n tạo ra mô h́nh mẫu mực trong công việc giải phóng mặt bằng đang gặp nhiều khó khăn hiện nay. C̣n việc phá một số nhà đă xây dựng hay chi phí một khoản đền bù cho dân, để xây dựng Nhà Quốc hội theo tôi không nên coi là lư do để biện hộ cho việc xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu làm xâm hại đến một di sản vô giá có tầm cỡ thế giới của cả dân tộc. Trong trường hợp cần thiết, có thể nghĩ đến khả năng xây dựng Nhà Quốc hội trên qui mô lớn gồm cả lô H6, H7, A7 và mở một con đường hầm trang hoàng đẹp dưới đường Hùng Vương. 

Theo tôi xây dựng Nhà Quốc hội tại lô H6, H7, A7 sẽ tạo nên một cấu trúc rất đẹp cho Trung tâm chính trị Ba Đ́nh. Chúng ta h́nh dung, ở giữa là Lăng Bác Hồ, nhà sàn Bác Hồ, Bảo tàng Hồ Chí Minh, bên phải tức phía bắc là Đảng (Nguyễn Cảnh Chân), Nhà nước (Chủ tịch phủ), Chính phủ (Thủ tướng phủ), bên trái tức phía nam là Nhà Quốc hội, mặt trước tức phía đông là Ngh́n năm Thăng long-Hà Nội. Một qui hoạch và mô h́nh như vậy là vừa bảo tồn được toàn bộ khu di tích Hoàng Thành Thăng Long gắn kết với thành cổ Hà Nội và phần c̣n lại của Cấm Thành, lập thành Công viên lịch sử-văn hoá Thăng Long-Hà Nội rồi đây sẽ được tôn vinh là Di sản văn hoá thế giới, vừa có một toà Nhà Quốc hội bề thế xứng đáng với vai tṛ cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân. 

C̣n cách suy nghĩ xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu là tự đặt ḿnh vào thế bí, vào bài toán mà đáp số sẽ loại trừ lẫn nhau, được cái toàn vẹn của khu di tích th́ không có nhà Quốc hội, c̣n có nhà Quốc hội th́ xâm hại di tích, tước đi khả năng có một Di sản văn hoá thế giới trong ḷng Hà Nội. Chỉ cần một tư duy cởi mở hơn th́ sẽ giải quyết được một cách trọn vẹn mọi vấn đề. Giữa thủ đô Hà Nội có một Di sản văn hóa thế giới sẽ nâng vị thế của Hà Nội, là điều mọi người dân Hà Nội và cả nước đều mong chờ. Đó sẽ là sự kết hợp hoàn hảo của truyền thống và hiện đại, là bài tính trọn vẹn, được mọi mặt.

 

   Quay lại

 

 

GS sử học Phan Huy Lê  - Hoàng Thành Thăng Long trong tương quan với các kinh đô cổ

 

Việc phát hiện di chỉ 18 Hoàng Diệu đă đủ chứng tỏ những giá trị vô giá của kinh thành Thăng Long từ ngh́n năm trước c̣n lại trong ḷng đất, đủ khiến ta thấy may mắn khi nhờ sự bảo tồn của ḷng đất mà ta, và các thế hệ con cháu, sẽ c̣n nhiều cơ hội nghiên cứu và t́m hiểu lịch sử.

Giá trị của khu di tích Hoàng thành Thăng Long (được phát lộ năm 2003) đă được các nhà khoa học trong nước cũng như các chuyên gia quốc tế, kể cả ông tổng giám đốc UNESCO đánh giá rất cao, hoàn toàn xứng đáng để được công nhận là di sản văn hóa nhân loại.

Mỗi cố đô có một hệ giá trị riêng mà chỉ ḿnh nó có, việc so sánh Hoàng thành Thăng Long với các cố đô Cổ Loa, Hoa Lư và Huế chỉ nhằm khẳng định thêm những giá trị cực kỳ quư hiếm của di chỉ Hoàng Thành, cố đô Thăng Long 1000 năm văn hiến. Giáo sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và GS Phan Khanh đă rất thống nhất khi đưa ra những góc nh́n thú vị trong sự so sánh này. 

Theo GS Phan Huy Lê, các chứng tích và các công tŕnh nghiên cứu khảo cổ học đă cho phép khẳng định chắc chắn Cổ Loa là kinh đô cổ nhất, là ṭa thành sớm nhất của toàn khu vực Đông Nam Á. Ngay từ thế kỷ thứ III trước công nguyên (cách nay khoảng 2300 năm), một kinh thành với quy mô lớn có đủ ba ṿng thành tổng cộng trên 16 km như Cổ Loa là cực hiếm. Kinh thành Cổ Loa c̣n tận dụng thiên nhiên triệt để khi sông Hoàng Giang nối vào trong thành thành hệ thống hào, để từ đó có thể xuôi ngược khắp đồng bằng Bắc Bộ, qua sông Hồng, sông Thái B́nh, sang Lục Đầu Giang, lên cả sông Cầu, sông Thương, sông Lục Ngạn. Giá trị của di chỉ Cổ Loa nằm ở chỗ: là kinh thành cổ xưa nhất Đông Nam Á. 

Trải qua mấy ngh́n năm biến đổi, dấu vết của ba ṿng thành trên mặt đất hiện chẳng c̣n được bao nhiêu, lại đang bị xâm hại nặng nề. Những nỗ lực "cứu" Cổ Loa dường như lại làm "hại" tới những dấu vết c̣n sót lại kia nhiều hơn. Cũng may v́ c̣n trong ḷng đất Cổ Loa cả một kho tàng, theo lời GS Phan Khanh. Trống đồng đă t́m được ở đây, rồi chỉ một hố khảo cổ mà t́m thấy vài vạn mũi tên đồng, mới năm 2005 c̣n phát hiện dưới ḷng đất cả một cơ sở sản xuất vũ khí, có ḷ nấu đồng, có khuôn đúc giáo, khuôn đúc mũi tên đồng giống hệt những mũi tên ta đă phát hiện ở đây.

May mắn cho Cổ Loa, v́ dù chỉ là kinh đô trong vài chục năm, sau đó trải qua hơn 2000 năm thăng trầm, qua bao sự biến thiên, th́ những dấu tích, và nhất là cái hồn của cố đô vẫn c̣n đó, vẫn thúc giục những thế hệ hậu sinh nâng niu ǵn giữ giá trị lịch sử. 

 

Mộ cổ thời Lư t́m thấy ở Hố A4

Giếng nước cổ thời Đại La - hố B9

 

Kinh đô Hoa Lư lại có một vai tṛ lịch sử đặc biệt, dù chỉ tồn tại trong non nửa thể kỷ (từ 968 đến 1010, đến khi Lư Thái Tổ, vị vua đầu tiên của triều Lư, quyết định dời đô về Thăng Long). Theo lời GS Phan Khanh, vị vua đầu tiên của nước Việt thống nhất “đă xây dựng kinh đô Hoa Lư dựa trên địa thế hiểm trở, tận dụng điều kiện tự nhiên với các vách núi đá vôi và hệ thống sông ng̣i làm thành quách”, tạo một “quân thành” mang nặng tính pḥng ngự. GS Phan Huy Lê cũng nhấn mạnh nhiều đến yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân ḥa” của kinh cố đô Hoa Lư. Về thực chất, kinh đô Hoa Lư mang tính quân thành nhiều hơn kinh thành, thích hợp trong "chiến đấu" nhiều hơn việc ổn định chính trị, phát huy văn hiến, mở mang kinh tế.   

Cố đô Huế là di sản văn hóa thế giới đầu tiên của nước Việt ta được UNESCO công nhận. GS Phan Huy Lê đánh giá cao kiến trúc của cố đô Huế, bởi đó là kết quả của sự giao lưu văn hóa, có tiếp thu di sản phương Tây. Chẳng thế mà dù thời gian là kinh đô không thật dài, chỉ non một thế kỷ rưỡi (từ 1802 đến 1945), lại c̣n rất trẻ so với tuổi đời của các cố đô, Huế vẫn được sự công nhận rất trân trọng của thế giới. “Chẳng cần nói nhiều về Huế, v́ ai đến đó cũng tự cảm nhận được những giá trị”, GS Phan Khanh đă nói như thế về kinh thành cuối cùng của Việt Nam.  

Lùi về quá khứ, nhắc về Cổ Loa, Hoa Lư, hay cố đô Huế, ta càng hiểu rơ hơn giá trị quư giá của Hoàng thành Thăng Long, của “tầm cỡ vượt trội, nhất là về bề dày thời gian và tính liên tục. Khai quật khảo cổ đă xác định được dấu vết của thành Đại La hơn 1000 năm về trước. Rồi những nền cung điện, những kiến trúc kinh thành cổ... Quả thật, khó t́m trên thế giới một kinh đô có bề dày lịch sử ngh́n năm, giờ vẫn là “kinh đô” của nước Việt Nam hiện đại.  

Nhắc đến Hoàng thành Thăng Long là nhắc đến tính liên tục của các lớp văn hóa Lư - Trần - Lê  được giấu kỹ dưới ḷng đất, mà nếu không có cuộc khai quật bất ngờ năm 2003 tại số 18 Hoàng Diệu th́ vẫn là bí mật, vẫn chỉ là những lời văn trong sử liệu, qua những bản đồ khá sơ lược. GS Phan Huy Lê gọi di tích này là “bộ sử bằng di vật” của kinh thành Thăng Long, để từ đó ta hiểu được rất nhiều về kiến trúc, về bản sắc văn hóa, về sự kết hợp thiên nhiên (thích nghi và tận dụng), kết hợp triệt để giao thông đường thủy, xử lư không gian…

Về các công tŕnh kiến trúc nổi th́ Hoàng Thành Thăng Long không c̣n được bao nhiêu (nghĩa là thua xa Huế), quư nhất và xưa nhất đến giờ chỉ có nền điện Kính Thiên và Đoan Môn của thời Lê Mạc (hậu Lê), Cấm Thành cũng không c̣n mấy, Hoàng Thành chỉ c̣n mấy đoạn, cửa ô duy nhất chỉ c̣n ô Quan Chưởng… Nhưng việc phát hiện số 18 Hoàng Diệu đă đủ chứng tỏ những giá trị vô giá của kinh thành Thăng Long từ ngh́n năm trước c̣n lại trong ḷng đất, đủ khiến ta thấy may mắn khi nhờ sự bảo tồn của ḷng đất mà ta, và các thế hệ con cháu, sẽ c̣n nhiều cơ hội nghiên cứu và t́m hiểu lịch sử.   

Theo GS Phan Huy Lê, nhờ vị trí của Cấm Thành không thay đổi qua các triều đại, nhờ ngày xưa chủ yếu là san nền rồi xây lên, có đào móng trụ cũng chỉ trên dưới 1m cho các chân cột nên các nền kiến trúc cũ được lấp đi, v́ thế dù là “phế tích” nhưng giá trị c̣n rất rơ, các chuyên gia quốc tế quư Hoàng Thành Thăng Long bởi qua bề dày cả ngàn năm mà c̣n bảo tồn được như vậy là rất hiếm.  

Di tích Hoàng Thành Thăng Long cũng thể hiện nét đặc sắc của bề dày văn hóa biểu thị trong các kiến trúc, di vật, cách xử lư xây dựng cấu trúc đô thành, cách ứng xử quan hệ với thiên nhiên (qua các di chỉ khảo cổ ḍng sông, con thuyền). Hay từ câu chuyện những viên gạch có tên đại phương, phiên hiệu quân đội mà cảm phục tính tổ chức và trách nhiệm cao của các thế hệ cha ông. Nhờ khảo cổ học, ta có thể t́m hiểu về cuộc sống cung đ́nh, thấy sự hội tụ của kiến trúc tiêu biểu nhất, di vật tiêu biểu nhất của bề dày văn hóa Việt Nam. Đó không chỉ là việc của thế hệ này, mà của cả những thế hệ sau.

 

Hệ thống cống thoát nước phía Đông của kiến trúc nhiều gian ở khu A

Giếng thời Lê - Hố A6

Con đường lát gạch hoa chanh - Di tích Đoan Môn

 

 

   Quay lại

 

GS sử học Phan Huy Lê   - Đă xác định được Cấm Thành Thăng Long

   

"Việc bảo tồn bên dưới trên lư thuyết th́ dễ, nhưng trên thực tế th́ không đơn giản chút nào. Bảo tồn y nguyên đă khó, đưa ra khỏi tầng văn hoá rồi chuyển vào chỗ cũ lại c̣n khó hơn nhiều, có làm được th́ di tích cũng mất đi phần quan trọng giá trị của nó, đâu c̣n tính nguyên trạng. Cái giá ta phải trả đắt nhất khi xây dựng Nhà Quốc hội ở 18 Hoàng Diệu là làm mất khả năng được công nhận khu di tích là Di sản văn hóa thế giới."  

Kết quả nhiều năm nghiên cứu về cấu trúc thành Thăng Long kết hợp với 2 năm nghiên cứu khảo cổ vừa rồi đă hội đủ những căn cứ khoa học cho phép khẳng định khu di tích 18 Hoàng Diệu nằm trong Cấm Thành. Ngay từ khi mới phát lộ năm 2003, các nhà sử học, khảo cổ học đă xác định khu di tích nằm trong Hoàng Thành, nay tiến lên một bước xác định khu di tích nằm trong Cấm Thành tức trung tâm của Hoàng Thành. Chúng ta có một số vật chuẩn quan trọng để định vị Cấm Thành.  

Thứ nhất, trung tâm của Cấm Thành là Điện Kính Thiên thời Lê sơ, xưa là điện Càn Nguyên, Thiên An thời Lư, thời Trần. Đó là cung điện quan trọng bậc nhất, nơi tiến hành các nghi lễ long trọng nhất của triều đ́nh, nơi tiếp sứ giả nước ngoài, nơi thiết triều bàn những việc quốc gia đại sự. Nền điện Kính Thiên bây giờ c̣n đó với bậc thềm và lan can đá chạm rồng mang đặc trưng nghệ thuật trang trí thế kỷ XV. Kiến trúc này xây dựng trên núi Nùng tức Long Đỗ (Rốn Rồng) nơi tụ hội khí thiêng của non sông theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền. 

Thứ hai là Đoan Môn là cửa Nam của Cấm Thành. Tài liệu sử sách cho biết  vị trí của Đoan Môn cũng không thay đổi qua các triều đại. Vừa rồi khảo cổ đă đào thám sát và xác định chắc chắn Đoan Môn c̣n lại hiện nay được xây dựng từ thời Lê, đến thời Nguyễn có sửa sang. Dưới chân Đoan Môn đă phát hiện dấu tích kiến trúc của thời Lư, thời Trần. Đoan Môn phải hiểu là cửa Nam phía trong trong cùng của Cấm Thành, bởi theo Phan Huy Chú và Nguyễn Văn Siêu th́ phía nam Cấm Thành có ba lần cửa, nh́n trên bản đồ Hồng Đức cũng thấy điều đó. Theo một số tài liệu đời Nguyễn th́ Cột Cờ được xây dựng trên nền cửa Tam Môn là cửa Nam ngoài cùng của Cấm Thành. Như vậy là Kính Thiên – Đoan Môn – Cột Cờ/Tam Môn là trục trung tâm của Cấm Thành.  

Thứ ba là chùa Một Cột. Theo văn bia Sùng Thiện Diên Linh (chùa Đọi, Duy Tiên, Hà Nam) do Nguyễn Công Bật soạn năm 1121 thời Lư th́ chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột dựng ở phía tây Cấm Thành. Vậy tường thành phía tây của Cấm Thành không thể quá vị trí Chùa Một Cột. Theo bản đồ Hồng Đức và nhiều tài liệu địa lư học lịch sử, ở phía tây bắc của Cấm Thành có cửa Tây (Tây Môn) và phía ngoài có núi Khán Sơn và chùa Khán Sơn là nơi vua Lê Thánh Tông lên duyệt binh. Đầu thế kỷ XIX khi nhà Nguyễn xây dựng lại thành Thăng Long, từ năm 1831 đổi tên là thành Hà Nội, th́ Khán Sơn nằm bên trong, ở về phía tây bắc của thành Hà Nội, nghĩa là nằm ở khoảng cuối Hùng Vương gần Phan Đ́nh Phùng, trước mặt Phủ Chủ tịch và Thủ tướng phủ hiện nay. Từ đó, tôi phỏng đoán tường thành phía tây Cấm Thành ở vào khoảng đường Độc Lập đến giữa Quảng trường Ba Đ́nh.  

Vậy là ta đă xác định được vị trí trung tâm, trục trung tâm cùng giới hạn phía nam và phía tây của Cấm Thành. Theo bản đồ Hồng Đức, Cấm Thành có h́nh chữ nhật, nhưng Đông cung và Thái miếu ở phía đông - theo Nguyễn Văn Siêu - dù nằm trong tường thành bảo vệ nhưng không coi là trong Cấm Thành, và như thế Cấm Thành gần như h́nh vuông. Điều này cũng rất phù hợp với việc nhà Nguyễn xây dựng thành Hà Nội  trên cơ sở mở rộng Cấm Thành, v́ trong chỉ dụ của vua Gia Long có nói thành Thăng Long (Cấm Thành) chật hẹp, cho nên phải mở rộng thêm. Thành Hà Nội của nhà Nguyễn v́ thế rộng hơn Cấm Thành, nhưng nhỏ hơn Hoàng Thành.  

Những dấu vết kiến trúc mới phát lộ tại khu di tích 18 Hoàng Diệu được giới khoa học trong và ngoài nước đánh giá là cực quư hiếm - Theo kết quả xác định trên th́ khu khai quật chắc chắn nằm trong Cấm Thành và chỉ cách điện Kính Thiên chưa đầy 100m, tức gần vùng trung tâm của Cấm Thành. Các kết quả khai quật khảo cổ thời gian qua càng khẳng định điều đó. Ở đây đă t́m thấy dấu vết của cung Trường Lạc, là cung của hoàng hậu vua Lê Thánh Tông và là Hoàng thái hậu của vua Lê Hiển Tông. Rồi c̣n có Hoàng Môn Thự thời Trần, gần đây lại có dấu tích của Kim Quang điện thời Lê Thánh Tông. Đây là những cung điện nằm trong phạm vi Cấm Thành. Khảo cổ học c̣n t́m thấy những "đồ ngự dụng" chỉ dành cho nhà vua như bát có h́nh rồng 5 móng. 

Trong các di tích đă phát lộ c̣n có giếng Đại La, nhưng trên đó lại có lớp gạch xây thêm thời Lư. Điều đó cho thấy khi vua Lư Thái Tổ dời đô về đây, đúng như nhà vua nói trong "Chiếu dời đô" là dời đô về "thành Đại La" của Cao Vương. Buổi đầu, nhà vua sử dụng thành Đại La cùng một số cung điện, kiến trúc có sẵn rồi cải tạo và mở mang thêm. Đồng thời, Lư Thái Tổ cho kiến thiết rất nhiều, ngay từ năm đầu tiên đă xây dựng thêm 8 điện 3 cung, xây một lớp thành bảo vệ bên ngoài.

Trong thời Lư, thành Thăng Long với cấu trúc ba lớp thành đă được kiến tạo. Từ đời Lư sang đời Trần, qua các biến cố cuối thời Lư, một số kiến trúc cung đ́nh bị phá huỷ và nhà Trần lại tiếp tục công việc dinh tạo, mở mang và xây dựng thêm. Trong thời Trần, ba lần kháng chiến chống Mông-Nguyên, kinh thành lại bị tàn phá và sau đó lại xây dựng.  

C̣n từ thời Trần sang thời Lê, qua 20 năm Minh thuộc, kinh thành có nhiều thay đổi. Thời Lê Thánh Tông, Hoàng Thành được mở rộng về phía tây nam và Cấm Thành cũng có nhiều kiến trúc mới. Tại khu di tích Hoàng Thành phát lộ ở 18 Hoàng Diệu, dấu vết của các đời Lư – Trần – Lê Sơ rơ nét nhất và đó cũng là những thời kỳ hoàng kim nhất của Thăng Long, thời kỳ của kỷ nguyên Văn minh Đại Việt. 

Trong lịch sử thành Thăng Long, La thành (hay Đại La thành), Hoàng Thành trải qua khá nhiều thay đổi, nhưng trung tâm của Hoàng Thành, đặc biệt là vị trí, qui mô của Cấm Thành (c̣n gọi là Cung thành) th́ gần như không thay đổi, chỉ có kiến trúc bên trong th́ dĩ nhiên qua nhiều lần xây dựng, tu sửa. Chính đặc điểm này giải thích tại sao trên khu di tích 18 Hoàng Diệu, các lớp di tích kiến trúc và di vật chồng lên nhau qua các thời kỳ lịch sử.   

 

 

   Quay lại

 

 

 

 

 

CINET TỔNG HỢP