Thái Nguyên

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Thái Nguyên
Tỉnh
Logo Tinh Thai Nguyen.jpg
Biểu trưng
Nui Coc Lake6.jpg
Hồ Núi Cốc
Địa lý
Tọa độ: 21°33′51″B 105°52′46″Đ / 21,564225°B 105,879364°Đ / 21.564225; 105.879364
Diện tích  3531,7 km²[1]
Dân số 2011
 Tổng cộng 1.139.400 người[1]
 Mật độ  323 người/km²
Dân tộc  Việt (73,1%), Tày (11%)
Nùng (5,7%), Sán Dìu (3,9%)
Sán chay (2,9%), Dao (2,3%)
Hành chính
Quốc gia  Cờ Việt Nam Việt Nam
Vùng  đông bắc
Tỉnh lỵ  Thành phố Thái Nguyên
Thành lập  4/11/1831[2]
1/1/1997 (tái lập)
Chính quyền   
 Chủ tịch UBND  Dương Ngọc Long
 Chủ tịch HĐND  Vũ Hồng Bắc
 Bí thư Tỉnh ủy  Nguyễn Đình Phách
 Trụ sở UBND  Số 18, đường Nha Trang, TP. Thái Nguyên
Phân chia hành chính 
Mã hành chính  VN-69
Mã bưu chính  25xxxx
Mã điện thoại  280
Biển số xe  20
Web: http://www.thainguyen.gov.vn/

Tọa độ: 21°33′51″B 105°52′46″Đ / 21,564225°B 105,879364°Đ / 21.564225; 105.879364

Thái Nguyên là một tỉnh ở đông bắc Việt Nam, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội và là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Thái Nguyên là một trung tâm kinh tế - xã hội lớn của khu vực đông bắc hay cả Vùng trung du và miền núi phía bắc. Tỉnh Thái Nguyên được tái lập ngày 1/1/1997 với việc tách tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên. Thái Nguyên hiện đang được nghiên cứu để trở thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội[3]. Thái Nguyên được coi là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ 3 sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.[4]

Mục lục

Tên gọi[sửa]

"Thái Nguyên" là từ Hán Việt: (). Thái (太) ở đây có nghĩa là to lớn hay rộng rãi, Nguyên (原) có nghĩa là cánh đồng hoặc chỗ đất rộng và bằng phẳng.

Địa lý[sửa]

Vị trí[sửa]

Tỉnh Thái Nguyên có diện tích 3.562,82 km² phía bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Kạn, phía tây giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, phía đông giáp với các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và phía nam tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Tỉnh Thái Nguyên trung bình cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km, cách biên giới Trung Quốc 200 km, cách trung tâm Hà Nội 75 km và cảng Hải Phòng 200 km. Với vị trí địa lý là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế,giáo dục của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi phía bắc nói chung, Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Việc giao lưu đã được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông hình rẻ quạt mà thành phố Thái Nguyên là đầu nút.

Địa chất[sửa]

Hang Phượng Hoàng trên địa bàn huyện Võ Nhai

Khu vực tây bắc Thái Nguyên bao gồm huyện Định Hóa và các xã phía tây của hai huyện Phú Lương, Đại Từ có lịch sử hình thành sớm nhất, thuộc chu kỳ kiến tạo sơn Caledonia bắt đầu cách đây 480 triệu năm và được hình thành xong trong đại cổ sinh cách đây 225 triệu năm. Các khu vực núi còn lại của Thái Nguyên có lịch sử địa chất trẻ hơn. Phần lớn lãnh thổ Thái Nguyên có lịch sử hình thành suốt trung sinh (bắt đầu từ cách đây 240 triệu năm và kết thúc cách đây 67 triệu năm, kéo dài trong khảng 173 triệu năm).[5]

Sau khi được hình thành xong (cách đây 67 triệu năm), lãnh thổ Thái Nguyên ngày nay tồn tại dưới chế độ lục địa liên tục 50 triệu năm. Với thời gian này, địa hình Thái Nguyên ngày nay được san bằng và trở thành bình nguyên. Đến kiến tạo sơn Hymalaya cách đây khoảng 25 triệu năm, do vận động nâng lên mãnh liệt, Thái Nguyên cũng được nâng cao từ 200 đến 500m, làm cho địa hình trẻ lại. Những miền được nâng cao có địa hình bị cắt xẻ, các vật liệu trầm tích trẻ, mềm bị ngoại lực bóc mòn, các núi cổ được cấu tạo bằng nham thạch cổ hơn, cứng hơn lại lộ ra, tái lập lại địa hình như lúc mới hình thành xong (cuối trung sinh).[5]

Địa hình[sửa]

Tam Đảo là dãy núi tạo thành ranh giới giữa tỉnh Thái Nguyên và hai tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang

Thái Nguyên có nhiều dãy núi cao chạy theo hướng bắc-nam và thấp dần xuống phía nam. Cấu trúc vùng núi phía bắc chủ yếu là đa phong hóa mạnh, tạo thành nhiều hang động và thung lũng nhỏ.

phía bắc Thái Nguyên gồm rừng núi và đồng lầy. Về phía đông có những dãy núi cao nằm giữa những ngọn núi đá vôi ở phố Bình Gia. Về phía đông bắc, có cao nguyên Vũ Phái được giới hạn bởi những dãy núi đá vôi và có khu rừng núi ngăn chia Lâu Thượng và Lâu Hạ ở phương Nam. phía tây bắc Thái Nguyên có thung lũng Chợ Chu bao gồm nhiều cánh đồng và những thung lũng nhỏ. Giữa Đồn Đủ và Cổ Lương là một cánh đồng giáp với cao nguyên Trúc Thanh và Độ Tranh gồm nhiều đồi núi lan tới tận khu đồng lầy Phúc Linh.

phía tây nam có dãy Tam Đảo dọc theo cao nguyên Văn Lang và cánh đồng Đại Từ. Tam Đảo có đỉnh cao nhất 1.591 m, các vách núi dựng đứng và kéo dài theo hướng tây bắc-đông nam. Ngoài dãy núi trên còn có dãy Ngân Sơn bắt đầu từ Bắc Kạn chạy theo hướng đông bắc-tây nam đến Võ Nhai và dãy núi Bắc Sơn cũng chạy theo hướng tây bắc-đông nam. Cả ba dãy núi Tam Đảo, Ngân Sơn, Bắc Sơn đều là những dãy núi cao che chắn gió mùa đông bắc.

Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi nhưng địa hình lại không phức tạp lắm so với các tỉnh trung du, miền núi khác, đây là một thuận lợi của Thái Nguyên cho canh tác nông lâm nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội nói chung so với các tỉnh trung du miền núi khác.

Thủy văn[sửa]

Sông Cầu là con sông chính của tỉnh và gần như chia Thái Nguyên ra thành hai nửa bằng nhau theo chiều bắc nam. Sông bắt đầu chảy vào Thái Nguyên từ xã Văn Lăng, huyện Đồng Hỷ và đến địa bàn xã Hà Châu, huyện Phú Bình, sông trở thành ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang và sau đó hoàn toàn ra khỏi địa bàn tỉnh ở xã Thuận Thành, huyện Phổ Yên. Ngoài ra Thái Nguyên còn có một số sông suối khác nhưng hầu hết đều là phụ lưu của sông Cầu. Trong đó đáng kể nhất là sông Đu, sông Nghinh Tườngsông Công. Các sông tại Thái Nguyên không thuộc lưu vực sông Cầu là sông Rang và các chi lưu của nó tại huyện Võ Nhai, sông này chảy sang huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn và thuộc lưu vực sông Thương. Ngoài ra, một phần diện tích nhỏ của huyện Định Hóa thuộc thượng lưu sông Đáy. Ô nhiễm nguồn nước là một vấn đề đáng quan tâm, nhất là tình trạng ô nhiễm trên sông Cầu.[6]

Ngoài đập sông Cầu, Thái Nguyên còn xây dựng một hệ thống kênh đào nhân tạo dài 52 km ở phía đông nam của tỉnh với tên gọi là Sông Máng, nối liền sông Cầu với sông Thương để giúp việc giao thông đường thủy và dẫn nước vào đồng ruộng được dễ dàng.

Thái Nguyên không có nhiều hồ, và nổi bật trong đó là Hồ Núi Cốc, đây là hồ nhân tạo được hình thành do việc chặn dòng sông Công. Hồ có độ sâu 35 m và diện tích mặt hồ rộng 25 km², dung tích của hồ ước tính từ 160 triệu - 200 triệu m³. Hồ được tạo ra nhằm các mục đích cung cấp nước, thoát lũ cho sông Cầu và du lịch. Hiện hồ đã có một vài khu du lịch đang được quy hoạch để trở thành khu du lịch trọng điểm quốc gia.[7]

Cơ cấu đất đai[sửa]

Tỉnh Thái Nguyên có tổng diện tích là 356.282 ha. Cơ cấu đất đai gồm các loại sau:

  • Đất núi chiếm 48,4% diện tích tự nhiên, có độ cao trên 200 m, hình thành do sự phong hóa trên các đá Macma, đá biến chấttrầm tích. Đất núi thích hợp cho việc phát triển lâm nghiệp, trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng kinh doanh nhưng cũng thích hợp để trồng cây ăn quả, một phần cây lương thực cho nhân dân vùng cao.
  • Đất đồi chiếm 31,4% diện tích tự nhiên chủ yếu hình thành trên cát kết, bột kết phiến sét và một phần phù sa cổ kiến tạo. Đây là vùng đất xen giữa nông và lâm nghiệp. Đất đồi tại một số vùng như Đại Từ, Phú Lương... ở từ độ cao 150 m đến 200 m có độ dốc từ 50 đến 200 phù hợp đối với cây công nghiệp và cây ăn quả lâu năm, đặc biệt là cây chè (trà) (một đặc sản của Thái Nguyên)
  • Đất ruộng chiếm 12,4% diện tích đất tự nhiên, trong đó một phần phân bố dọc theo các con suối, rải rác, không tập trung, chịu sự tác động lớn của chế độ thủy văn khắc nghiệt (lũ đột ngột, hạn hán...) khó khăn cho việc canh tác.

Trong tổng quỹ đất 356.282 ha, đất đã sử dụng là 246.513 ha (chiếm 69,22% diện tích đất tự nhiên) và đất chưa sử dụng là 109.669 ha (chiếm 30,78% diện tích tự nhiên). Trong đất chưa sử dụng có 1.714 ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp và 41.250 ha đất có khả năng sản xuất lâm nghiệp.

Khí hậu[sửa]

Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, nhưng do địa hình nên khí hậu Thái Nguyên vào mùa đông được chia thành 3 vùng rõ rệt:

Nhiệt độ trung bình của Thái Nguyên là 25 °C; chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: 28,9 °C) với tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,2 °C) là 13,7 °C. Tại thành phố Thái Nguyên, nhiệt độ cao nhất và thấp nhất từng được ghi nhận lần lượt là 41,5°C và 3°C.[8] Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.300 đến 1.750 giờ và phân phối tương đối đều cho các tháng trong năm. Khí hậu Thái Nguyên chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.000 đến 2.500 mm; cao nhất vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1. Nhìn chung khí hậu tỉnh Thái Nguyên thuận lợi cho phát triển ngành nông, lâm nghiệp.

Lịch sử[sửa]

Từ xa xưa, Thái Nguyên đã là nơi sinh sống của người Việt cổ. Trên địa bàn hang Ốc thuộc xã Bình Long đã tìm được dấu tích của người tiền sử có niên đại ít nhất cách đây từ 7000 đến 8000 năm với những vỏ ốc bị chặt đuôi, xương động vật là những tàn tích thức ăn của người xưa. Từ những năm 1980, cũng tại huyện Võ Nhai, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra dấu tích của người Việt cổ tại khu vực Mái Đá Ngườm thuộc xã Thần Sa.[9] Hàng chục ngàn hiện vật từ các hang Phiêng Tung, Mái đá Hạ Sơn I, Hạ Sơn II, hang Thắm Choong, Nà Ngùn và Mái Đá Ranh…ở Thần Sa, với những công cụ cuội được ghè đẽo như: Mảnh tước, rìu tay, công cụ chặt hình núm cuội, công cụ chặt rìa, công cụ chặt 2 lưỡi, công cụ hình sừng bò... Đặc biệt. các nhà khảo cổ đã tìm thấy 3 bộ xương người cổ được mai táng ở Mái Đá Ngườm, xóm Kim Sơn. Mái Đá Ngườm là một di chỉ quan trọng bậc nhất của khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa với 4 địa tầng văn hóa khảo cổ, trong đó tầng thứ tư tiêu biểu cho trung kỳ Thời đại đá cũ.[10]

Thái Nguyên xưa thuộc bộ Vũ Định, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Vào thế kỷ thứ III, Thái Nguyên thuộc huyện Vũ Định, sau đổi tên thành huyện Long Bình. Có những ý kiến cho rằng quê gốc của Lý Nam Đế là ở thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, ông tu tại chùa Hương Ấp đến năm 13 tuổi thì theo Phổ Tổ thiền sư về tu hành tại chùa Giang Xá thuộc Hoài Đức, Hà Nội.[11] Đến thế kỷ thứ VII được gọi là huyện Vũ Bình, rồi thành châu Thái Nguyên dưới đời nhà Lý. Cuối thế kỷ 14, châu được đổi thành trấn, năm 1407 đổi lại thành châu, sang 1408 thì trở thành phủ, năm 1677 trở thành trấn. Mãi đến năm 1902, triều đình mới cử quan chức trấn nhiệm Thái Nguyên, đặt doanh sở ở Ngọc Hà.

Kể từ khi nhà Lý định đô ở Thăng Long, Thái Nguyên đã trở thành phên giậu trực tiếp che chở phía bắc kinh thành. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống năm 1076-1077, phần đất phía nam Thái Nguyên từng là địa đầu của phòng tuyến sông Cầu, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quan quân nhà Lý với Nhà Tống. Đầu thế kỷ 15, nhà Minh đem quân sang Việt Nam, dân chúng Thái Nguyên lại liên tiếp đứng lên khởi nghĩa. Tiêu biểu là Lưu Nhân Chú, người huyện Đại Từ, ông cùng cha và anh rể đã tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Vào thời nhà Nguyễn, Thái Nguyên là nơi nổ ra nhiều phong trào khởi nghĩa nông dân chống lại quan lại phong kiến. Người dân Thái Nguyên từng tham gia các cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Cúc, Nông Văn Vân.

Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, đất Thái Nguyên là địa bàn hoạt động thường xuyên, là hậu cứ của Hoàng Hoa Thám. Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên do Trịnh Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến đã nổ ra và đêm 30-8-1917, nghĩa quân đã chiếm được tỉnh lị. Tuy nhiên sau đó thực dân Pháp đem viện binh từ Hà Nội lên tấn công khiến nghĩa quân phải bỏ Thái Nguyên và rút về Vĩnh Yên rồi bị dập tắt sau đó. Tỉnh Thái Nguyên được thành lập vào năm Minh Mệnh thứ 12 (ngày mùng 1 tháng 10 âm lịch, tức ngày 04-11-1831), tỉnh Thái Nguyên khi đó giáp với các tỉnh: Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Sơn Tây.[2]

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhiều Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ thường xuyên qua lại hoạt động, phát triển lực lượng ở Thái Nguyên. Năm 1947, Hồ Chí Minh đã tới Thái Nguyên và lãnh đạo cuộc Kháng chiến chống Pháp từ căn cứ chính tại ATK Định Hóa. Cũng tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định mở Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, Chiến cục đông-xuân 1953-1954 cũng như quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử và hàng loạt sự kiện quan trọng khác.

Từ năm 1956 đến 1975, Thái Nguyên là một tỉnh thuộc Khu tự trị Việt Bắcthành phố Thái Nguyên là thủ phủ của khu tự trị này. Trước đó, năm 1890, chính quyền Pháp chia tỉnh Thái Nguyên thời nhà Nguyễn thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Năm 1965, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã sáp nhập hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Tỉnh Bắc Thái cuối cùng lại tách thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn như ngày nay vào năm 1997.

Kinh tế[sửa]

Thái Nguyên thuộc Vùng trung du và miền núi phía bắc, một vùng được coi là nghèo và chậm phát triển nhất tại Việt Nam.[12] Mặc dù vậy kinh tế Thái Nguyên đang dần chuyển sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng nông nghiệp đang giảm dần.

Thái Nguyên có tổ hợp Gang Thép được thành lập năm 1959, là nơi đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam có dây chuyền sản xuất liên hợp khép kín từ khai thác quặng sắt đến sản xuất gang, phôi thép và cán thép.[13] Khu công nghiệp đầu tiên của Thái Nguyên là Khu công nghiệp Sông Công và hiện tỉnh này đã được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hình thành 6 khu công nghiệp là KCN Sông Công I (220ha); KCN Sông Công II (250ha) thuộc thị xã Sông Công; KCN Nam Phổ Yên (200 ha), KCN Tây Phổ Yên (200ha) thuộc huyện Phổ Yên; KCN Điềm Thuỵ (350ha) thuộc huyện Phú Bình và KCN Quyết Thắng (200ha) thuộc thành phố Thái Nguyên, đều tập trung ở khu vực trung-nam của tỉnh.[14][15]. Ngoài ra, tỉnh Thái Nguyên cũng quy hoạch một số cụm công nghiệp tại nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh. Đến hết năm 2010 đã có 18 cụm công nghiệp được phê duyệt qui hoạch chi tiết với diện tích 620 ha (6,2 km²), trong đó diện tích đất công nghiệp là 407,6 ha (4,076 km²).[16] Tuy nhiên nhà ở cho công nhân cũng là một vấn đề nan giải khi mà dự kiến đến năm 2015 Thái Nguyên sẽ có khoảng 163.750 công nhân, trong đó có khoảng 43.045 người có nhu cầu về nhà ở.[17]

Chợ Thái ở trung tâm thành phố Thái Nguyên
Công ty Cổ phần Gang thép Thái Nguyên

Tính đến năm 2010, tỉnh Thái Nguyên có tổng cộng 135 chợ, trong đó có 99 chợ nông thôn. Theo phân loại, có hai chợ loại 1, 7 chợ loại 2 và còn lại là chợ loại 3. Trong số các chợ, lớn nhất là chợ Thái, đây đồng thời cũng là chợ lớn nhất vùng Việt Bắc. Tổng diện tích sử dụng cho mạng lưới chợ của tỉnh Thái Nguyên là 476.295 m², trong đó diện tích chợ được xây dựng kiên cố là 108.559 m², chiếm 17,5%. Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn 45 xã chưa có chợ, đa số là những xã vùng sâu, vùng xa. Tỉnh Thái Nguyên cũng quy hoạch xây mới 5 chợ tại các xã Thuận Thành (Phổ Yên), Phú Thượng (Võ Nhai), Yên Ninh (Phú Lương), Yên Lãng (Đại TừThanh Ninh (Phú Bình) thành các chợ đầu mối nông sản, tương ứng với 5 cửa ngõ của tỉnh tiếp giáp tương ứng với Hà Nội, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên QuangBắc Giang.[18]

Thái Nguyên có tài nguyên khoáng sản phong phú về chủng loại, là một lợi thế so sánh lớn trong việc phát triển các ngành công nghiệp luyện kim, khai khoáng. Tỉnh Thái Nguyên có trữ lượng than lớn thứ hai trong cả nước, than mỡ trữ lượng trên 15 triệu tấn, than đá trữ lượng khoảng 90 triệu tấn; kim loại màu có thiếc, chì, kẽm, vonfram, vàng, đồng, niken, thuỷ ngân… Khoáng sản vật liệu xây dựng cũng là tiềm năng nguyên liệu rất lớn để sản xuất xi măng, sản xuất đá ốp lát các loại và sản xuất vật liệu xây dựng. Riêng mỏ Núi Pháo trên địa bàn các xã phía đông của huyện Đại Từ được các cơ quan chuyên môn đánh giá có trữ lượng Vonfram khoảng 21 triệu tấn, lớn thứ 2 trên thế giới sau một mỏ tại Trung Quốc, ngoài ra mỏ còn có trữ lượng Flo lớn nhất thế giới khoảng 19,2 triệu tấn, và trữ lượng đáng kể bismuth, đồng, vàng và một số kim loại khác.[19]

Trong giai đoạn 2006-2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Nguyên đạt trung bình 11,11% mỗi năm, trong khi giai đoạn 2001-2006 trước đó là 9,14% mỗi năm. Trong thời kỳ 2006-2010, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng trưởng bình quân đạt 14,91%, khu vực dịch vụ đạt 11,86% và khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản là 4,14% mỗi năm. Cơ cấu kinh tế của Thái Nguyên cũng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp - xây dựng, dịch vụ và giảm tỷ trọng của ngành nông lâm nghiệp trong GDP. Năm 2011, cơ cấu kinh tế của Thái Nguyên có tỉ lệ công nghiệp và xây dựng chiếm 41,77%; dịch vụ chiếm 36,95%, nông lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 21,28%. GDP bình quân đầu người theo giá thực tế năm 2011 dự ước đạt 22,3 triệu đồng/người, tương đương khoảng 1062 USD/người và tỉ lệ hộ nghèo giảm 2,1% so với năm 2010.[20] Từ năm 2005 đến tháng 12 năm 2010, Thái Nguyên có 428 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký quy đổi đạt 105.000 tỷ đồng, trong đó có 16 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.[21][22] GDP trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2011 ước đạt 3.352,8 tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ.[23]

Thu nhập hàng tháng của lao động trong khu vực nhà nước do tỉnh Thái Nguyên quản lí theo kết quả sơ bộ năm 2009 là 2.527.900 đồng, thấp hơn mức trung bình cả nước cùng thời điểm là 2.867.100 đồng và của khu vực trung du miền núi phía bắc là 2.983.200 đồng.[24] Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Thái Nguyên xếp thứ 57/63 tỉnh thành.[25][26] sang 2012, Thái Nguyên đã xếp ở vị trí thứ 17[27] Tháng 3 năm 2012, tập đoàn Samsung đã chính thức tổ chức lễ khởi công "Khu Tổ hợp Công nghệ cao" tại huyện Phổ Yên với tổng số vốn đầu tư bước đầu 2 tỷ Đô la Mỹ, dự kiến khi đi vào hoạt động sẽ có công suất thiết kế đạt khoảng 100 triệu sản phẩm mỗi năm.[28]

Đơn vị hành chính[sửa]

Bản đồ hành chính Thái Nguyên

Tỉnh Thái Nguyên được chia thành 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện. Các đơn vị hành chính này được chia tiếp thành 180 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 125 vùng cao và miền núi, còn lại là các xã đồng bằng và trung du. Cũng như các tỉnh và thành khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên do người dân tỉnh bầu nên, là cơ quan quyền lực nhà nước ở tỉnh. Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên hiện nay, nhiệm kỳ 20112016 gồm 70 đại biểu, chủ tịch là ông Vũ Hồng Bắc.[29] Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên có trụ sở tại số 18 đường Nha Trang, Chủ tịch là ông Dương Ngọc Long.[30] Hiện nay, tỉnh Thái Nguyên đang có kế hoạch xây dựng trung tâm hành chính mới ở phía tây thành phố Thái Nguyên.[31][32] Theo kế hoạch của chính quyền tỉnh Thái Nguyên, đến năm 2013, thị xã Núi Cốc sẽ được thành lập trên cơ sở các xã Tân Thái, Vạn Thọ, Bình Thuận, Quân Chu, Lục Ba, Cát Nê, Ký Phú và thị trấn Quân Chu thuộc huyện Đại Từ; xã Phúc Tân thuộc huyện Phổ Yên và ba xã Tân Cương, Phúc Xuân và Phúc Trìu ở phía tây thành phố Thái Nguyên.[33]

Tên Loại đơn vị Dân số (2009)[34] Diện tích (km²) Thị trấn (đậm) và xã (nhỏ)
Thái Nguyên Thành phố 277,671 (2009)
330.000 (2010)
189.7 Phường: Trưng Vương, Thịnh Đán, Tân Long, Quan Triều, Quang Vinh, Quang Trung, Hoàng Văn Thụ, Đồng Quang, Phan Đình Phùng, Túc Duyên, Tân Thịnh, Gia Sàng, Tân Lập, Phú Xá, Cam Giá, Trung Thành, Hương Sơn, Tân Thành, Tích Lương. :Phúc Hà, Phúc Xuân, Phúc Trìu, Thịnh Đức, Tân Cương, Quyết Thắng, Lương Sơn, Cao Ngạn, Đồng Bẩm.
Sông Công Thị xã 49.481 (2009) 83,64 Phường: Bách Quang, Cải Đan, Lương Châu, Mỏ Chè, Phố Cò, Thắng Lợi. : Bá Xuyên, Bình Sơn, Tân Quang, Vinh Sơn.
Đại Từ Huyện 159.667 578 Đại Từ, Quân Chu, An Khánh, Bản Ngoại, Bình Thuận, Cát Nê, Cù Vân, Đức Lương, Hà Thượng, Hoàng Nông, Hùng Sơn, Khôi Kỳ, Ký Phú, La Bằng, Lục Ba, Minh Tiến, Mỹ Yên, Na Mao, Phú Cường, Phú Lạc, Phú Thịnh, Phú Xuyên, Phúc Lương, Phục Linh, Quân Chu, Tân Linh, Tân Thái, Tiên Hội, Vạn Thọ, Văn Yên, Yên Lãng.
Định Hóa Huyện 87.089 521 Chợ Chu, Bảo Cường, Bảo Linh, Bình Thành, Bình Yên, Bộc Nhiêu, Điềm Mặc, Định Biên, Đồng Thịnh, Kim Phượng, Kim Sơn, Lam Vỹ, Linh Thông, Phú Đình, Phú Tiến, Phúc Chu, Phượng Tiến, Quy Kỳ, Sơn Phú, Tân Dương, Tân Thịnh, Thanh Định, Trung Hội, Trung Lương.
Đồng Hỷ Huyện 107.769 461,7 Chùa Hang, Trại Cau, Sông Cầu, Cây Thị, Hóa Thượng, Hóa Trung, Hòa Bình, Hợp Tiến, Huống Thượng, Khe Mo, Linh Sơn, Minh Lập, Nam Hòa, Quang Sơn, Tân Long, Tân Lợi, Văn Hán, Văn Lăng.
Phổ Yên Huyện 137.815 257 Ba Hàng, Bãi Bông, Bắc Sơn, Đắc Sơn, Đông Cao, Đồng Tiến, Hồng Tiến, Minh Đức, Nam Tiến, Phúc Thuận, Phúc Tân, Tân Hương, Tân Phú, Thành Công, Tiên Phong, Thuận Thành, Trung Thành, Vạn Phái.
Phú Bình Huyện 134.150 249 Hương Sơn, Bàn Đạt, Bảo Lý, Dương Thành, Đào Xá, Điềm Thụy, Đồng Liên, Hà Châu, Kha Sơn, Lương Phú, Nga My, Nhã Lộng, Tân Đức, Tân Hòa, Tân Khánh, Tân Kim, Tân Thành, Thanh Ninh, Thượng Đình, Úc Kỳ, Xuân Phương
Phú Lương Huyện 105.233 369 Đu, Giang Tiên, Cổ Lũng, Động Đạt, Hợp Thành, Ôn Lương, Phấn Mễ, Phú Đô, Phủ Lý, Sơn Cẩm, Tức Tranh, Vô Tranh, Yên Đổ, Yên Lạc, Yên Ninh, Yên Trạch.
Võ Nhai Huyện 64.241 845 Đình Cả, Bình Long, Cúc Đường, Dân Tiến, La Hiên, Lâu Thượng, Liên Minh, Nghinh Tường, Phú Thượng, Phương Giao, Sảng Mộc, Thần Sa, Thượng Nung, Tràng Xá, Vũ Chấn

Nhân khẩu[sửa]

Tỉnh Thái Nguyên có 26,9% dân cư là người dân tộc thiểu số
Trung tâm hội nghị tỉnh Thái Nguyên

Theo Niên giám thống kê 2010, dân số tỉnh Thái Nguyên là 1.131.300 người, trong đó nam có 558.900 người chiếm 49,4% và nữ là 572.400 người chiếm 50,6%, tỉ sô giới tính nam/nữ là 97,6/100. Tổng dân số đô thị là 293.600 người (25,95%) và tổng dân cư nông thôn là 837.700 người (74,05%). Số con trên mỗi phụ nữ là 1,9 và tỉ lệ tăng dân số là 0,53% bằng một nửa số với tỉ lệ tăng của cả nước là 1,05%.[35]

Theo kết quả của cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, quy mô hộ gia đình tại tỉnh Thái Nguyên là 3,4 người/hộ. Tỉ số già hóa là 39,5% và tỉ số phụ thuộc là 42,2%. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu của cư dân Thái Nguyên là 24 tuổi, trong đó nam là 25,7 tuổi và nữ là 22,3 tuổi, thấp hơn trung bình cả nước với các số liệu tương ứng là 24,5 tuổi, 26,2 tuổi và 22,8 tuổi. Tỷ lệ xuất cư là 30,2% còn tỷ lệ nhập cư là 39,6%. Tỉ lệ biết chữ đạt 96,5%, cao hơn mức trung bình cả nước là 93,5%. Diện tích nhà ở bình quân của Thái Nguyên là 20,1m²/người, trong đó nhà ở kiên cố đạt 61,7%, nhà ở bán kiên cố đạt 25,6%, nhà ở thiếu kiên cố đạt 4,5% và nhà ở đơn sơ đạt 8,2%. 93,7% nhà ở tại Thái Nguyên là nhà riêng. Khoảng 35,4% số người xuất cư khỏi Thái Nguyên có điểm đến là Hà Nội và 8,5% có điểm đến là Thành phố Hồ Chí Minh. Các địa phương có số người nhập cư nhiều nhất đến Thái Nguyên lần lượt là Bắc Giang, Hà Nội, Bắc KạnCao Bằng.[36]

Cũng như toàn quốc, Thái Nguyên có một dân số trẻ với nhóm tuổi lao động từ 15 đến 60 là 779.261 người, chiếm 69,38% tổng dân số. Nhóm tuổi dưới 15 có 249.001 người, chiếm 22,17% tổng dân số còn nhóm người trên 60 tuổi có 94.854 người, tức chiếm 8,45%[34]

Không như nhiều tỉnh trung du miền núi phía bắc khác, tỉnh Thái Nguyên có đa số dân cư là người Kinh (73,1%), tỉ lệ người Kinh chiếm cao hơn tại tỉnh lị, thị xã Sông Công và các huyện phía nam như Phổ Yên, Phú Bình cũng như tại các khu vực ven quốc lộ, tỉnh lộ và thị trấn tại các huyện còn lại. Người Kinh ban đâu chỉ là dân tộc bản địa cư trú tại các khu vực trung du ven sông Cầu ở khu vực phía nam của tỉnh Thái Nguyên ngày nay. Vào thời nhà Trần, Lê, Nguyễn, nhiều làng xóm của người Kinh hình thành tại các khu vực phía nam của tỉnh và dân cư chủ yếu là các di dân đến từ các nơi thuộc đồng bắng Sông Hồng và Thanh Hóa ngày nay. Bên cạnh đó, khi các quan triều đình được cử đến Thái Nguyên, họ thường đem theo cả gia đình, dòng tộc tới định cư. Ngoài ra, nhiều người đến làm ăn và buôn bán rồi sau đó ở lại Thái Nguyên lập nghiệp. Đặc biệt, trong thời kỳ thuộc Pháp, rất nhiều người Kinh từ các tỉnh đồng bằng đã được chế độ thực dân đưa lên Thái Nguyên để làm việc trong các đồn điền và hầm mỏ. Trong kháng chiến chống Pháp, vì có vai trò là thủ đô kháng chiến nên số người Kinh đến Thái Nguyên ngày càng tăng. Quá trình người Kinh nhập cư đến Thái Nguyên tiếp tục tăng nhanh vào sau năm 1954, khi một số cơ sở công nghiệp lớn được hình thành và việc thực hiện chương trình "kinh tế mới". Ngay từ năm 1960, người Kinh đã chiếm 74,56% dân số tỉnh.[37] Người Kinh ở Thái Nguyên nói chung vẫn giữ được nhiều phong tục truyền thống của cha ông tại miền xuôi, mặc dù vậy nhiều yếu tố đã bị phai nhạt, đặc biệt là ở khu vực các huyện phía bắc, họ chịu ảnh hưởng của các dân tộc thiểu số bản địa.[37]

Dân cư Thái Nguyên phân bố không đều, vùng cao và vùng núi dân cư rất thưa thớt, trong khi đó ở thành thị và đồng bằng dân cư lại dày đặc. Mật độ dân số thấp nhất là huyện Võ Nhai 72 người/km², cao nhất là thành phố Thái Nguyên với mật độ 1.260 người/km ². Theo tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, trong 10 năm (1999-2009) dân số tỉnh tăng bình quân 0,7%/năm, thấp hơn mức bình quân của cả nước là 1,2% do có nhiều người di chuyển đi các tỉnh khác, trong đó ba huyện Định Hóa, Đại TừPhú Bình có tăng trưởng dân số âm[38].

Thành phần dân tộc[sửa]

Cổng chính vào nhà cổ 200 năm tại khu du lịch Hồ Núi Cốc

Trên địa bàn tỉnh hiện có 46 dân tộc trên tổng số 54 dân tộc tại Việt Nam sinh sống, trong đó 8 dân tộc đông dân nhất là:[34]

Dân tộc Dân số
(người)
Tỉ lệ
so với tổng
dân số tỉnh
Dân số đô thị
(người)
Tỉ lệ
so với dân số
dân tộc
Dân số nông thôn
(người)
Tỉ lệ
so với dân số
dân tộc
Kinh 821.083 73,1% 249.305 30,4% 571.778 69,6%
Tày 123.197 11% 21.319 17,3% 101.878 82,7%
Nùng 63.816 5,7% 7.716 12,1% 56.100 87,9%
Sán Dìu 44.134 3,9% 3.941 8,9% 40.193 91,1%
Sán Chay 32.483 2,9% 1.101 3,4% 31.382 96,6%
Dao 25.360 2,3% 1.186 4,7% 24.174 95,3%
H’Mông 7.230 0,6% 237 0,03% 6.993 99,97%
Hoa 2.064 0,18% 712 34,5% 1.352 65,5%

Các dân tộc thiểu số[sửa]

Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam tại thành phố Thái Nguyên

Năm 1999 dân tộc Tày có 106.238 người, đứng hàng thứ hai trong các dân tộc của tỉnh (chiếm 10,15%). Họ có mặt ở tất cả các huyện thị xã, thành phố trong tỉnh, tập trung đông nhất là ở huyện Định Hoá (41,1%), tiếp đến là các huyện: Phú Lương (18,6%), Đại Từ (12,7%), Võ Nhai (12,5%).[39]

Trong quá trình phát triển tộc người, người Nùng ở Việt Nam nói chung và Thái Nguyên nói riêng có hiện tượng là nhiều nhóm Nùng đến sớm đã bị Tày hoá, còn những nhóm Nùng hiện nay được biết đến thì tới Việt Nam chỉ khoảng vài trăm năm nay.

Những người Hoa đầu tiên đã có mặt ở Thái Nguyên khoảng trên dưới 150 năm. Họ là lưu dân có nguồn gốc từ các tỉnh Quảng ĐôngQuảng Tây tại Trung Quốc. Tổ tiên của một bộ phận trong số họ vốn là những nông dân nghèo đói phải phiêu bạt mưu sinh, một số ít khác có thể là hậu duệ những chiến binh của phong trào Thái Bình Thiên Quốc chống lại nhà Thanh, bị đàn áp nên trốn sang Việt Nam. Khoảng những năm 60-70 của thế kỷ trước, một bộ phận người Hoa cũng chuyển từ Hà Cối (Quảng Ninh) về Thái Nguyên lập nghiệp.

Theo Tổng điều tra dân số ngày 1/4/1999, người Ngái ở Thái Nguyên chỉ có 422 nhân khẩu, sinh sống phân tán ở các huyện Đại Từ (110 người, nam: 60, nữ: 50), thành phố Thái Nguyên (86 nhân khẩu, nam: 42, nữ: 44), Phổ Yên (31 nhân khẩu, nam: 21, nữ: 10). Người Ngái còn phân bố ở các huyện Phú Lương và Đồng Hỷ. Dân tộc Ngái không có các thôn bản riêng, họ sống xen kẽ với người Kinh, Tày, Hoa và Sán Dìu.[39].

Người Sán Dìu tự gọi mình là Sán Dìu (Sán Dao/Sán Dìu, chữ Hán: 山由, Sơn Do). Các cộng đồng láng giềng gọi họ bằng nhiều tên khác nhau: Trại Đất, Trại ruộng, Mán Quần Cộc, Mán Váy Xẻ, Sán Nhiều, Slán Dao. Các nhà ngôn ngữ học xếp dân tộc Sán Dìu vào nhóm ngôn ngữ Hán, thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.

Người Dao ở Thái Nguyên thuộc 3 nhóm địa phương: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt và Dao Lô Gang. Dao Quần Chẹt tập trung chủ yếu ở huyện Đại Từ, Dao Đỏ cư trú phân tán ở huyện Phú lương và Đồng Hỷ, Dao Lô Gang tập trung ở huyện Võ Nhai. Ngoài ra, người Dao còn cư trú rải rác ở Định Hoá, Phổ Yên... Tuy thuộc 3 nhóm khác nhau nhưng đều tự gọi là Dao Đại Bản (Tầm Mả Miền), cùng nói phương ngữ Kiềm Miền

Theo số liệu của Ban chỉ đạo cuộc Tổng điều tra dân số Việt Nam năm 1979 thì vào năm này tỉnh Bắc Thái nói chung, Thái Nguyên nói riêng mới có số liệu về người H'Mông. Năm 1979, toàn tỉnh Bắc Thái có 650 người Hmông thì tại Thái Nguyên ngày nay có 644 người, trong đó gần 80% tập trung ở huyện Võ Nhai. Sau đó 10 năm (1989) dân số H'Mông ở Thái Nguyên đã lên tới 2.264 người, huyện có đông người H'Mông nhất là Đồng Hỷ tăng từ 54 người lên 1.022 người (tăng tuyệt đối 968 người), huyện Võ Nhai mặc dù đã tăng từ 513 người lên 923 người (tăng tuyệt đối 410 người) nhưng lại xuống vị trí thứ hai. Đến năm 1999, dân số Hmông trong toàn tỉnh đã lên tới 4.831 người, tăng hơn gấp đôi trong 10 năm.[39]

Người Sán Chay bao gồm hai nhóm là Cao LanSán Chí, đều là những cộng đồng mới di cư sang Việt Nam cách đây một vài trăm năm. Trong Đại Nam nhất thống chí, ở mục Phong tục tỉnh Thái Nguyên khi đề cập tới người Cao Lan có ghi: Mán Cao Lan cứ ba năm một lần thay đổi chỗ ở, không ở chỗ nào nhất định.[39]

Tôn giáo[sửa]

Chùa Khmer trong khuôn viên Bảo tàng Văn hóa Dân tộc Việt Nam

Cũng giống như phần lớn các tỉnh khác tại Miền Bắc Việt Nam, Thái Nguyên có đại đa số cư dân "không tôn giáo". Theo thống kê năm 2009, số người theo có tôn giáo tại tỉnh Thái Nguyên là 32.923 người, tức chiếm 2,93% tổng dân số của tỉnh.[34] Hiện nay, Thái Nguyên có khoảng 100 chùa, gần 50 đền và khoảng 100 đình. Ðạo Tin Lành ở Thái Nguyên có từ năm 1963 và từ năm 1990 trở lại đây, tôn giáo này tiếp tục phát triển, tập trung chủ yếu vào người Mông, Dao. Thái Nguyên có 4 xứ đạo Công giáo hoạt động là: Thái Nguyên, Tân Cương, Nhã Lộng (Phú Bình) và Yên Huy (Ðại Từ), tất cả các hoạt động Công giáo ở Thái Nguyên đều do Toà giám mục Giáo phận Bắc Ninh chỉ đạo.[40]

Tôn giáo Tín đồ
người
Tỉ lệ
so với dân số
Công giáo 25.430 2,264%
Tin Lành 4.453 0,397%
Phật giáo 3.015 0,268%
Hồi giáo 10 /
Minh Lý đạo 7 /
Minh Sư đạo 6 /
Phật giáo Hòa Hảo 1 /
Baha'i 1 /

Du lịch[sửa]

Cổng của khu du lịch hồ Núi Cốc
Tượng Phật tại Khu du lịch Hồ Núi Cốc

Thái Nguyên từng là nơi tổ chức Năm Du lịch Quốc gia 2007 và có một số điểm du lịch nổi bật:

  • Khu du lịch hồ Núi Cốc, cách thành phố Thái Nguyên 20 km về phía tây (giáp dãy núi Tam Đảo) là khu du lịch lớn nhất của tỉnh. Mặt hồ rộng 25 km² và có đến 69 hòn đảo lớn nhỏ. Nơi đây đang thu hút nhiều khách trong và ngoài tỉnh đến nghỉ và tham quan. Hiện hồ đã có một vài khu du lịch đang được quy hoạch để trở thành khu du lịch trọng điểm quốc gia.[7] Thái Nguyên cũng là nơi đăng cai Festival Trà Quốc tế lần thứ I từ 11-15/11/2011 tại thành phố Thái Nguyên và khu du lịch Hồ Núi Cốc[41].
  • Khu Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam với diện tích 28.000 m², đền Đội Cấn, công viên Sông Cầu tại trung tâm thành phố Thái Nguyên.
  • Khu du lịch hang Phượng Hoàng và suối Mỏ Gà (là suối chảy ra từ núi đá) tại huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên 45 km.
  • Khu di tích lịch sử an toàn khu (ATK) huyện Định Hóa. Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sinh sống nhiều năm trong Kháng chiến chống Pháp (1945-1954)
  • Thác nước 7 tầng Khuôn Tát, nằm trong khu di tích lịch sử ATK.
  • Các điểm đền chùa như­ đền Đuổm thờ Dương Tự Minh (Phú L­ương); chùa Hang (Đồng Hỷ); chùa Phù Liễn; đền X­ương Rồng (thành phố Thái Nguyên).
  • Khu di tích núi Văn, núi Võ được nhà nước xếp hạng cấp quốc gia. Dấu tích cùng với truyền thuyết đẹp gắn với danh tướng Lưu Nhân Chú và đội nghĩa binh của ông.

Thái Nguyên có thể hình thành các tuyến du lịch nối các điểm tham quan du lịch trong tỉnh với các điểm du lịch của các tỉnh lân cận. Cụ thể như­:

Ngoài ra Thái Nguyên có nhiều dân tộc còn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc đặc sắc như­ dân tộc Tày, H’Mông, Dao có thể khai thác thành các điểm du lịch cho khách tham quan.

Năm 2010, tỉnh Thái Nguyên có 14 khách sạn đạt tiêu chuẩn từ một đến 3 sao., trong đó có hai khách sạn có tiêu chuẩn ba sao là Khách sạn Dạ Hương II và Khách sạn Thái D­ương.[42] Số cơ sở lưu trú, nhà hàng thuộc mọi thành phần kinh tế trong tỉnh tăng bình quân 15%/năm, hiện có 135 cơ sở, đáp ứng nhu cầu cho các đối tượng từ bình dân đến cao cấp với công suất phục vụ trên 3.000 lượt khách/ngày-đêm. Riêng 9 tháng đầu năm 2011, tổng số lượt khách đến Thái Nguyên đạt 1.149.100 lượt người, trong đó khách quốc tế đạt 18.360 lượt người, đạt 109% so với cùng kỳ năm trước, khách lưu trú đạt 481.800 lượt người, tổng doanh thu toàn xã hội về du lịch đạt 768 tỷ đồng, công suất sử dụng buồng phòng đạt 67%.[43]


Giao thông[sửa]

Đường Hoàng Văn Thụ nhìn từ trên cao

Thái Nguyên hiện có 3 tuyến quốc lộ đi qua là Quốc lộ 3, Quốc lộ 1B, Quốc lộ 37. Tuyến quốc lộ 3 vốn chỉ có 2 làn xe và hiện được cho là quá tải, tuyến đường này đang được đầu tư để mở rộng song song với việc xây dựng tuyến đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên với 4 làn xe dự kiến hoàn thành vào năm 2013[44]. Đường cao tốc có mặt đường rộng 34,5m và dài hơn 61 km có điểm đầu là Quốc lộ 1A mới thuộc xã Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội) và điểm cuối là tuyến đường tránh thành phố Thái Nguyên, tuyến đường này sẽ nằm về bên phải quốc lộ 3 cũ trừ đoạn từ xã Lương Sơn (TPTN) đến tuyến đường tránh thành phố[44]. Hiện tuyến đường đã được quy hoạch xây dựng với chiều rộng 4 km[45]. Bên cạnh đó, tỉnh Thái Nguyên cũng nằm trong Dự án đường vành đai 5 Hà Nội, một tuyến đường đang được "nghiên cứu quy hoạch" và dự kiến đi quan nhiều tỉnh thành phố lân cận thủ đô, cũng theo nghiên cứu thì sẽ có Hầm Tam Đảo giữa hai tỉnh Thái Nguyên-Vĩnh Phúc trên tuyến đường này. Nếu dự án được khởi công và hoàn thành sẽ giảm bớt thời gian di chuyển từ tỉnh Thái Nguyên tới Vĩnh Phúc và một số tỉnh thành khác.[46] Mặc dù từng được kỳ vọng là sẽ tiến hành khởi công hầm vào dịp Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội song cho đến nay dự án hầm vẫn chưa được triển khai[47] Tháng 5/2011, một thông báo cho biết tỉnh Thái Nguyên là một trong hai tỉnh duy nhất có số người chết do tai nạn giao thông gia tăng liên tiếp trong 3 năm liền (tỉnh còn lại là Kiên Giang)[48] Thái Nguyên trong thời gian gần đây cũng được một số báo chí phản ánh về nạn "mãi lộ" và "làm luật" trong đội ngũ Cảnh sát giao thông được cho là ở mức độ cao và nghiêm trọng so với các tỉnh khác.[49][50]

Thái Nguyên cũng có một số tỉnh lộ, trong đó nổi bật là như tỉnh lộ 261 kết nối hai huyện Đại TừPhổ Yên, tỉnh lộ 260 kết nối phía tây thành phố Thái Nguyên và huyện Đại Từ, tỉnh lộ 264 kết nối hai huyện Định Hóa và Đại Từ, tỉnh lộ 254 kết nối huyện Định Hóa với Quốc lộ 3. Ngoài ra còn có các tỉnh lộ 242, 259, 262. Thái Nguyên là một trong những địa phương đi đầu cả nước về phong trào vận động nhân dân hiến đất giải phóng mặt bằng để làm đường giao thông, do vậy, kinh phí để hoàn thành các tuyến đường đã được giảm xuống.[51]

Toàn tỉnh Thái Nguyên có 3.422,7 km đường bộ. Trong đó đường do Trung ương quản lý dài 80,1 km, chiếm 2,34%; đường do tỉnh quản lý dài 271 km, chiếm 7,91%; đường do huyện quản lý dài 759,6 km, chiếm 22,19%; đường do xã quản lý dài 2.312 km, chiếm 67,54%. Về chất lượng, đường cấp phối, đường đá dăm là 350,5 km, chiếm 10%; đường nhựa và bê tông nhựa là 379,7 km, chiếm 11%; đường đất là 2.692,7 km, chiếm 79%. Hiện nay, 100% số xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh đều có đường ô tô đến trung tâm.[40]

Về đường sắt, tỉnh có tuyến đường sắt Hà Nội - Quan Triều [52] hay còn gọi là tuyến đường sắt Hà Thái; tuyến đường sắt Quan Triều - Núi Hồng dài 33,5 km chỉ sử dụng để chuyên chở khoáng sản. Tuyến đường sắt Kép - Lưu Xá (Lạng Giang, Bắc Giang) được xây dựng trong thời chiến tranh để nhận viện trợ của các nước XHCN nay gần như bị bỏ không, cộng thêm hệ thống đường sắt nội bộ trong khu Gang Thép. Do là tỉnh trung du nên giao thông đường sông của tỉnh chủ yếu chỉ phát triển ở sông Cầusông Công đoạn cuối nguồn thuộc tỉnh, dự án Cụm cảng Đa Phúc đang được xây dựng tại huyện Phổ Yên và được mong đợi có thể kết nối đến cảng Hải Phòng[53].

Đường Hoàng Văn Thụ

Tỉnh Thái Nguyên hiện có nhiều tuyến xe buýt đi tới tất cả các huyện trong tỉnh, bao gồm:

  • Madrid-MetroLinea1.svg Đồng Hỷ - TPTN - Sông Công - Đa Phúc - Phố Nỷ (Sóc Sơn, Hà Nội)
  • Madrid-MetroLinea2.svgA Gang Thép (TPTN) - Đường CMT8 - Trung tâm TPTN - Yên Lãng (Đại Từ)
  • Madrid-MetroLinea2.svgB Gang Thép (TPTN) - Quốc lộ 3 - Đường tránh TPTN - Tân Long (TPTN)- Yên Lãng (Đại Từ)
  • Madrid-MetroLinea3.svg Chợ Thái (TPTN)- Hồ Núi Cốc - TT Đại Từ - Ký Phú
  • Madrid-MetroLinea4.svg TX Sông Công - TP Thái Nguyên - Đồng Hỷ
  • Madrid-MetroLinea5.svg Tân Long (TPTN) - Phú Bình - Cầu Ca
  • Madrid-MetroLinea6.svg TP Thái Nguyên - Phú Lương - Định Hóa
  • Madrid-MetroLinea7.svg Quyết Thắng (TPTN) - Đồng Hỷ - Đình Cả (Võ Nhai)
  • Madrid-MetroLinea8.svg TX Sông Công - Phổ Yên - Phố Nỷ (Sóc Sơn, Hà Nội)
  • Madrid-MetroLinea9.svg TT Trại Cau (Đồng Hỷ) - Thịnh Đán, Thịnh Đức (TPTN) - TX Sông Công - TT Bãi Bông (Phổ Yên)
  • Madrid-MetroLinea10.svg Thịnh Đán (TP.Thái Nguyên) - TT Ba Hàng - Quân Chu (Đại Từ)

Giáo dục[sửa]

Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp

Tỉnh Thái Nguyên được coi là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ 3 sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.[4] Trên địa bàn tỉnh hiện có Đại học Thái Nguyên, đây là một trường đại học cấp vùng của khu vực trung du, miền núi phía bắc và được thành lập vào năm 1994, đại học bao gồm nhiều đơn vị thành viên như: Trường Đại học Sư phạm, Trường Đại học Nông lâm , Trường Đại học Y dược, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Khoa học, Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật, Trường Đại học Công nghệ thông tin và truyền thông, Khoa Ngoại ngữ, Trung tâm học liệu, Trung tâm giáo dục quốc phòng và một số đơn vị trực thuộc khác.[54]. Tổng số sinh viên trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ước tính vào khoảng trên 150.000 người.[55]. Ngoài ra, Trường Đại học Việt Bắc, một trường đại học tư thục cũng đã được thành lập trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên vào tháng 8 năm 2011.[56]

Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cũng có 10 trường cao đẳng khác như: Cao đẳng kinh tế - tài chính Thái Nguyên, Cao đẳng thương mại - du lịch Thái Nguyên, Cao đẳng công nghiệp Thái Nguyên, Cao đẳng Y tế Thái Nguyên, Cao đẳng sư phạm Thái Nguyên, Trường Đại học Công nghệ giao thông vận tải, Trường Cao đẳng cơ khí luyện kim, Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Việt Bắc, Cao đẳng công nghiệp Việt-Đức, Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Công nghiệp cùng nhiều cơ sở giáo dục bậc cao đẳng nghề và trung cấp khác.

Năm 2009, Thái Nguyên có 441 trường phổ thông, trong đó có 227 trường tiểu học, 181 trường trung học cơ sở, 33 trường trung học phổ thông. Số học sinh phổ thông là 184.505 người với 6243 phòng học. Số giáo viên giảng dậy tại bậc phổ thông là 10748 người.[57][58][59][60]

Y tế[sửa]

Theo thống kê năm 2010, tỉnh Thái Nguyên có 1 bệnh viện trực thuộc Bộ Y tếBệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, cùng với 15 bệnh viện trực thuộc sở y tế tỉnh, 13 phòng khám khu vực và 180 trạm y tế.[61] Tổng số giường bệnh do Bộ y tế quản lí là 800 giường, Sở Y tế tỉnh quản lí là 3300 giường trong đó 2120 giường tại các bệnh viện[62] Cũng trong năm 2010, Bộ Y tế quản lý 856 cán bộ của Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên - trong đó có 5 PGS-TS, 8 tiến sĩ, 14 bác sĩ chuyên khoa II, 61 thạc sĩ, 40 bác sĩ và dược sĩ chuyên khoa I; Sở y tế tỉnh Thái Nguyên quản lí 771 bác sĩ, 564 y sĩ, 1392 y tá và 207 nữ hộ sinh.[63] Sở y tế tỉnh Thái Nguyên cũng có 55 dược sĩ cao cấp, 223 dược sĩ trung cấp và 72 dược tá.[64] Ngoài hệ thống bệnh viện huyện và trung tâm y tế các huyện, các bệnh viện và trung tâm y tế khác trên địa bàn là:

  • Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
  • Bệnh viện Đa khoa thành phố Thái Nguyên
  • Bệnh viện Đa khoa Trung tâm
  • Bệnh viện A
  • Bệnh viện C
  • Bệnh viện Mắt
  • Bệnh viện Y học cổ truyền Thái Nguyên
  • Bệnh viện Đa khoa An Phú
  • Bệnh viện Trường Đại học Y
  • Bệnh viện Quân đội 91
  • Bệnh viện Tâm thần
  • Bệnh viện Điều dưỡng va phục hồi chức năng
  • Bệnh viện Gang Thép
  • Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình
  • Bệnh viện Lao và Phổi Thái Nguyên
  • Trung tâm phòng chống HIV/AIDS và Da liễu
  • Trung tâm y tế dự phòng
  • Trung tâm y tế thành phố
  • Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản

Ẩm thực[sửa]

Chè Thái Nguyên

Là địa bàn có nhiều dân tộc cùng sinh sống, cư dân trong tỉnh lại có nguồn gốc đa dạng nên ẩm thực tại tỉnh Thái Nguyên cũng khá phong phú. Một số dân tộc thiểu số trong tỉnh thường làm "xôi thập cẩm" có nhiều màu sắc trong các dịp lễ tết, các màu sắc đều được nhuộm từ các loại lá cây tự nhiên bằng một số công thức khác nhau có thể lấy ví dụ như xôi màu tím sẽ được ngâm vào chậu nước lá cây gạo cẩm trộn với nước gio, xôi màu vàng được ngâm vào chậu nước nghệ. Trên địa bàn huyện Định Hóa ở phía tây bắc tỉnh có đặc sản là cơm lam, được làm bằng cách cho gạo nếp đã ngâm vào ống nứa, cho thêm nước rồi nút lại bằng lá chuối non sau đó đem hơ trên ngọn lửa. Cơm nếp lam có thể để được cả tuần mà không bị thiu hay vữa.[65] Cũng trên địa bàn huyện miền núi Định Hóa, một loại gạo đặc sản mang tên "Gạo Bao Thai Định Hoá" đã được bảo vệ nhãn hiệu tập thể từ năm 2007.[66] Làng bánh chưng Bờ Đậu nằm ven quốc lộ 3 và quốc lộ 37 thuộc địa bàn xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương không chỉ nổi tiếng ở tỉnh Thái Nguyên mà còn được nhiều nơi khác biết đến vào mỗi dịp tết đến xuân về. Những năm gần đây, bánh chưng Bờ Đậu còn vượt ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Bánh chưng Bờ Đậu được làm từ gạo nếp thuần chủng và lá dong nếp lấy từ trên rừng huyện Định Hóa, nước để làm bánh là nguồn tự nhiên ở địa phương được lấy từ những giếng khơi trên núi.[67]

Chè (Trà) Thái Nguyên nổi tiếng trên khắp Việt Nam và được tôn vinh là một trong hai loại trà ngon nhất nước và cũng được mệnh danh là "Thủ đô Chè Việt Nam".[68][69] Trong đó, trà tại vùng Tân Cương, một xã phía tây thành phố Thái Nguyên được đánh giá cao nhất. Giống chè tại Thái Nguyên được ông Đội Năm, tên thật là Võ Văn Thiệt di thực về vùng này khoảng năm 1920-1922 và vườn chè cổ nay đã 87 tuổi.[70]

Thể thao[sửa]

Sân vận động Thái Nguyên và nhà thi đấu Thái Nguyên nằm ở khu vực trung tâm thành phố là những nơi tổ chức các hoạt động thể thao và văn hóa-xã hội của tỉnh. Câu lạc bộ bóng đá nữ Gang Thép Thái Nguyên là một trong sáu đội bóng tham dự Giải vô địch bóng đá nữ Việt Nam.

Xem thêm[sửa]

Liên kết ngoài[sửa]

Chú thích[sửa]

  1. ^ a b “Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập 30 tháng 9 năm 2012. 
  2. ^ a b Thế Hà (22 tháng 10 năm 2011). “Tổ chức chương trình nghệ thuật đặc biệt nhân Kỷ niệm 180 năm thành lập tỉnh”. Báo Thái Nguyên. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012. 
  3. ^ Phác thảo vùng kinh tế trọng điểm Bắc Thủ đô Hà Nội, Báo Thái Nguyên
  4. ^ a b Giới thiệu chung về Thái Nguyên, Cổng thông tin điện tử Thái Nguyên
  5. ^ a b Sơ lược lịch sử phát triển địa chất ở Thái Nguyên
  6. ^ “Môi trường lưu vực sông Cầu:Bài học cho sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường”. Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên. 
  7. ^ a b Thái Nguyên: Công bố Quy hoạch xây dựng Vùng du lịch quốc gia hồ Núi Cốc
  8. ^ Thành phố Thái Nguyên
  9. ^ “Phát hiện dấu tích người Việt cổ tại Thái Nguyên”. Thông tấn xã Việt Nam. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011. 
  10. ^ “Khu di tích khảo cổ Thần Sa”. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011. 
  11. ^ “Tìm quê hương” của vua Lý Nam Đế
  12. ^ Cả nước còn hơn 3 triệu hộ nghèo
  13. ^ Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên (TISCO)
  14. ^ Giới thiệu tổng quát về các Khu công nghiệp tỉnh Thái Nguyên
  15. ^ Các khu công nghiệp Thái Nguyên: Hứa hẹn những triển vọng mới
  16. ^ Đề án phát triển cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011-2015
  17. ^ Thái Nguyên: Hơn 8 nghìn công nhân có nhu cầu về nhà ở batdongsan.com.vn
  18. ^ “Quyết định Phê duyệt đề án phát triển hệ thống chợ nông thôn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011-2015”. Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012. 
  19. ^ “Kiểm tra tình hình thực hiện Dự án khai thác, chế biến khoáng sản Núi Pháo”. Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Nguyên. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2011. 
  20. ^ “Phiên họp thứ 05 UBND tỉnh đánh giá nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, bàn thực hiện nhiệm vụ năm 2012”. Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Nguyên. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2011. 
  21. ^ Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006-2010 tỉnh Thái Nguyên
  22. ^ Phấn đấu xây dựng Thái Nguyên phát triển về kinh tế-xã hội, vững mạnh về quốc phòng-an ninh, Tạp chí Quốc phòng toàn dân
  23. ^ “Thành tựu kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên 6 tháng đầu năm 2011”. Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Nguyên. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2011. 
  24. ^ “Thu nhập bình quân hàng tháng của lao động khu vực Nhà nước do địa phương quản lý theo giá thực tế phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2011. 
  25. ^ Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Việt Nam năm 2010
  26. ^ “PCI 2011: Lào Cai và Bắc Ninh 'vượt vũ môn' ngoạn mục”. Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012. 
  27. ^ Khởi công dự án Samsung 2 tỷ USD, Báo Sài Gòn Đầu tư Tài chính
  28. ^ Samsung khởi công nhà máy lớn nhất thế giới tại Thái Nguyên, VTV
  29. ^ Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên khoá XII, kỳ họp thứ nhất bầu các chức danh của HĐND, UBND tỉnh
  30. ^ Ủy ban Nhân dân
  31. ^ Thành phố Thái Nguyên: Xây dựng và phát triển đô thị
  32. ^ TThái Nguyên: Xây dựng khu vực hồ Núi Cốc trở thành vùng du lịch trọng điểm của quốc gia, Bộ Tài nguyên Môi trường
  33. ^ Quốc Khánh (7 tháng 7 năm 2012). “Năm 2013 sẽ thành lập Thị xã Núi Cốc”. Báo Thái Nguyên. Truy cập 12 tháng 8 năm 2012. 
  34. ^ a b c d Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội.
  35. ^ “Niên giám thống kê 2010-Dân số và Lao động”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011. 
  36. ^ “Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Các kết quả chủ yếu”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2012. 
  37. ^ a b Dân cư-Dân tộc
  38. ^ Một số kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở
  39. ^ a b c d Dân cư-Dân tộc
  40. ^ a b Tỉnh Thái Nguyên, Ủy ban Dân tộc
  41. ^ Festival Trà quốc tế lần thứ I – Thái Nguyên 2011, VOV
  42. ^ Cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đạt tiêu chuẩn từ 1 đến 3 sao
  43. ^ Quy hoạch và đầu tư phát triển Du lịch Thái Nguyên, Du lịch Việt Nam
  44. ^ a b Đưa đường cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên vào khai thác năm 2013
  45. ^ Quy hoạch dọc tuyến cao tốc Hà Nội-Thái Nguyên, TTXVN
  46. ^ Hầm Tam Đảo và Đường Vành đai 5: Đột phá cho Vùng Thủ đô
  47. ^ Năm 2010 có thể khởi công đường vành đai 5 và hầm Tam Đảo
  48. ^ Thủ tướng phê bình lãnh đạo 2 tỉnh vì tai nạn giao thông, VNExpress
  49. ^ Mãi lộ ở Thái Nguyên - Nỗi kinh hoàng của lái xe, Megafun
  50. ^ Làm luật ở một cung đường Thái Nguyên, Tiền Phong
  51. ^ Thái Nguyên đẩy mạnh phong trào hiến đất làm đường giao thông, Đài PT-TH Thái Nguyên
  52. ^ Các ga trên tuyến đường sắt Hà Nội - Quán Triều
  53. ^ Chủ tịch nước thăm và làm việc tại Thái Nguyên
  54. ^ Đại học Thái Nguyên
  55. ^ Khởi công cụm nhà ở sinh viên đầu tiên, VTC News
  56. ^ Thành lập Trường Đại học Việt Bắc, Quân đội nhân dân
  57. ^ “Số phòng học của các trường phổ thông phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2011. 
  58. ^ “Số trường phổ thông tại thời điểm 30/9 phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2011. 
  59. ^ “Số học sinh phổ thông tại thời điểm 31/12 phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2011. 
  60. ^ “Số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy tại thời điểm 31/12 phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2011. 
  61. ^ “Số cơ sở khám, chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2011. 
  62. ^ “Số giường bệnh trực thuộc sở Y tế phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2011. 
  63. ^ “Số cán bộ ngành Y trực thuộc sở Y tế phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2011. 
  64. ^ “Số cán bộ ngành dược trực thuộc sở Y tế phân theo địa phương”. Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2011. 
  65. ^ Cơm lam Định Hóa
  66. ^ Dẻo thơm gạo Bao thai Định Hóa
  67. ^ Làng bánh chưng Bờ Đậu bắt đầu đỏ lửa, Báo Điện tử Chính phủ]
  68. ^ Vẻ đẹp văn hóa trà Việt Nam, Cuộc sống Việt
  69. ^ Cơ hội phát triển du lịch làng chè, Du lịch Việt Nam
  70. ^ Chè Tân Cương, Báo Tuổi trẻ


Biểu đồ gió Bắc Kạn Biểu đồ gió
Tuyên Quang B Lạng Sơn
Bắc Giang
T    Thái Nguyên    Đ
N
Hà Nội
Enclave: {{{enclave}}}