Vết tích cảng thị ở Tiên Lãng |
Viết bởi BQL |
Thứ hai, 30 Tháng 9 2013 02:42 |
Vết tích cảng thị ở Tiên Lãng
Trong cuốn sách Đất và người Tiên Lãng (Ban nghiên cứu lịch sử Hải Phòng 1987) có đưa một tư liệu về bia chùa Minh Phúc, dựng năm 1669, với việc Hoàng thái hậu nhà Mạc họ Vũ mua 5 mẫu đất giá 120 lượng bạc làm ruộng tam bảo và dựng chợ vào năm Sùng Khang (1572).
Đây có lẽ là một trung tâm buôn bán khá sầm uất đương thời khiến cho đất Minh Thị giàu có nhanh chóng, đồng thời cũng là nơi dân địa phương bị quan tham bóc lột, phải nhờ đến vợ chồng Doãn Tiến Đạt, Lê Thị Dung giúp 60 quan tiền 2 sào ruộng để lo lót thuế dịch.
Văn bia ghi như vậy, nhưng giờ đây, về thôn Minh Thị, những vết tích của một trung tâm thương nghiệp sầm uất đâu còn, chỉ còn lại một dòng sông cổ, thông liền với sông Văn Úc – dường như một sự minh chứng về một mạng giao thông của khu vực cách đây bốn thế kỷ. Hiện sát dòng sông còn có một ngôi chùa có tên "Minh Phúc tự" mà bên trong còn nhiều đồ thờ tự, bia ký thời Lê, Mạc.
Tuy nhiên, đi vào mỗi gia đình trong thôn, người sưu tầm sẽ bắt gặp được nhiều di vật do canh tác, nông dân đào được quanh khu chùa và bến sống. Chúng chủ yếu là đồ gốm và sứ.
Tại gia đình ông Bùi Văn Hoành và Đoàn Văn Tiến còn giữ hai chiếc đĩa men trắng vẽ lam, trang trí những vòng tròn kép quanh miệng, trong lòng vẽ hoa rau muống, chính giữa có 4 dấu hòn kê.
Ở gia đình anh Bùi Mạnh Kim có chiếc bát gốm chân cao, men ngà vàng, trong có dấu khoanh lòng, đường kính miệng bát 10,7cm, đường kính đế 6,4cm, cao 7cm. Cũng tại đây còn có một chiếc bát chân cao, men trắng vẽ lam, chân tô son. Thành ngoài trang trí hoa dây cùng những đường vạch song song trên thành miệng.
Nhà ông Vũ Văn Lộc, ở thôn Đốc Hậu liền kề, cũng đào được ở bến sông đĩa, bát men ngọc, đế tô son, không trang trí hoa văn, nhưng thành miệng có chiếc được cắt khắc hình cánh hoa.
Nhà ông Trần Công Bách cùng thôn, đào được ở nền chùa 2 bát men trắng vẽ lam, chân cao, đế tô son, hoa văn trang trí chỉ có 2 vành xanh lam kép chạy quanh miệng, Một chiếc là đĩa chân cao, men trắng ngà rạn, chân để mộc.
Còn rất nhiều gia đình khác lưu giữ đồ gốm, mà trong chừng mực một bài thông báo, chúng tôi không thể thống kê. Tuy nhiên, tất cả những đồ gốm được tiếp xúc, dựa vào kỹ thuật và phong cách chứng tỏ chúng đều thuộc đồ gốm ViệtNam, thế kỷ XVI.
Tuy nhiên, ở đây cũng thấy xuất hiện đồ sứ Trung Quốc dù rất ít.
Một chiếc bát sứ men trắng vẽ lam ở gia đình ông Đoàn Văn Quyến, có kích thước đường kính miệng 8,7cm, đường kính đáy chân 4cm, cao 6cm, trang trí cá, mặt trăng (lý ngư vọng nguyệt), có hai vành men lam viền miệng và hai vành lam ở đáy bao quanh một bông hoa, dưới chân có một dấu hình thoi, trong hình thoi có những vạch chéo. Đây là chiếc bát mang đậm nét phong cách sứ thời minh, kể cả đề tài trang trí và men, niên đại thế kỷ XVI.
Ngoài chiếc bát này còn một số mảnh sứ khác có cùng phong cách và niên đại, cũng thu thập được ở quanh khu vực bến sông.
Ở bến sông cũng có những đồ gốm có niên đại rất muộn được tìm thấy. Đó là chiếc lọ củ tỏi do ông Trần Công Bách sưu tầm. Lọ đã mất phần cổ, bụng phình, trang trí đắp nổi, men màu tam thái. Thân lọ được phủ một lớp men rạn to. Đề tài trang trí trên lọ là tích "Ngư ông đắc lợi", cạnh đó là một bài thơ (?) chữ Hán viết thảo. Mầu men, kỹ thuật đắp nổi… có thể khẳng định lọ có niên đại thế kỷ XIX, do Bát Tràng sản xuất.
Bằng những chứng tích vật chất trên đây – cho dù còn rất khiêm tốn, so với thực tế điều tra ở hiện trường – đã phần nào minh định thêm cho văn bia ghi về một khu chợ (Minh Thị) ở quanh khu chùa Minh Phúc và bến sông. Khảo sát rộng hơn, không hề thấy vết tích của sành, gốm, chúng chỉ tập trung ở ven sông và quanh khu chùa, với mức độ đậm nhạt khác nhau, mà không theo vỉa, lớp như một số địa điểm sản xuất đồ gốm đã biết. Ở đây, dường như chỉ thấy đồ nguyên lành, rất ít thấy đồ vỡ, và không hề thấy những phế phẩm, để có thể đảm bảo chắc chắn rằng, nơi đây xưa kia không phải là khu lò sản xuất gốm như có người lầm tưởng. Đây là khu chợ, không chỉ tiếp nhận sản phẩm trong nước mà cả sản phẩm của nước ngoài.
Đây là một bến chợ, không chỉ sầm uất vào thế kỷ XVI như văn bia và chứng tích vật chất thể hiện mà nó còn kéo dài đến tận gần đây.
Tiên Lãng không chỉ có Minh Thị, quanh khu vực bán kính 3km, có rất nhiều phố chợ (chợ Đầm, phố Nhỏ, bến Độ, phố Rỗ, phố Lồ, phố Mè, phố Thung, phố Khách…) tạo nên một trung tâm thương nghiệp khá sầm uất vào các thế kỷ XVI, XVII. Sông Văn Úc và các nhánh sông của nó xưa kia đã đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động giao thương trong vùng, và có thể xa hơn xuống tận vùng phố Hiến, Kinh Kỳ, mà những phần gốm, sứ ít nhiều đã gợi mở khả năng đó.
Những thương cảng cổ Việt Nam đã bước đầu được nghiên cứu dưới góc nhìn của khảo cổ học lịch sử và đã gặt hái được kết quả đáng khích lệ (Trịnh Cao Tưởng 1991, Tống Trung Tín và Phạm Như Hồ 1991). Phải chăng, chợ tiểu cảng Minh Thị cũng góp phần làm cho bức tranh thương nghiệp thời độc lập tự chủ thêm hoàn thiện.
Khảo sát từ thực địa cho thấy mảnh gốm nằm rải rác trong các thôn xóm Cẩm Khê, Minh Trị và Đốc Hậu, xã Toàn Thắng, khu phố Lồ thuộc xã Quang Phục, nhưng tập trung hơn cả là khu chợ Minh Thị cổ. Hiện vật mà nhân dân thu thập được gồm nhiều loại hình khác nhau, mỗi loại lại gồm nhiều kiểu như bát đĩa, cốc chén, bình lọ, bát hương… Bát chiếm khối lượng lớn với nhiều kiểu dáng, kích thước; có loại bát chỉ to hơn chén lớn chút ít, có loại to như bát ăn cơm ngày nay. Đáng chú ý là loại bát có chân đế to cao, phần chủ yếu khá dài, hình trục đặc, phần cuối cùng của chân đế choãi rộng hình tròn để giữ cho bát khỏi đổ. Loại bát này thường thấy ở lò gốm Chu Đậu, xã Thái Tân (tỉnh Hải Dương). Đĩa cũng có số lượng lớn, gồm nhiều kiểu dáng, nhất là loại đĩa to với đường kính miệng 15-20cm, men trắng và hoa lam. Ngoài ra còn thấy các loại lọ, lon, chum, vại sành nâu hay da lươn với số lượng nhiều.
Tuyệt đại bộ phận các đồ gốm nằm trong khu di chỉ này được làm bằng đất sét, cao lanh có màu trắng xám nhạt và tráng men với nhiều sắc độ khác nhau như trắng, trắng xanh, trắng ngọc, xanh lam, vàng da cam, nâu, nâu sẫm… Men gốm có khi tương đối trong, có khi đục hoặc rạn. Có thứ gốm được tráng một loại men (phần lớn) và cũng có một số đồ gốm tráng hai loại, men khác nhau. Đặc biệt, tại đây tìm được một bình cổ cao, hình nậm rượu, men màu trạn trang trí tích "ngư ông đắc lợi" quen thuộc của lò gốm Bát Tràng, thế kỷ XVIII, và một số mảnh gốm sứ Trung Quốc thời nhà Minh (thế kỷ XVII). Hoa văn trang trí khá phong phú và đa dạng, bao gồm các loại hoa sen, hoa cúc, cỏ cây hoa lá… tạo thành bố cục các mảng trang trí ngang dọc khá sinh động. Giữa đáy và cạnh một số di vật được in chữ Hán bằng men xanh như trung, chính, phục, đại…
Nói gốm Toàn Thắng, không có nghĩa là đồ gốm sản xuất ở Toàn Thắng mà chỉ đề cập tới sự có mặt của nó ở địa phương. Cho đến nay chúng tôi chưa tìm thấy dấu vết sản xuất trong khu vực này. Nhưng có điều thú vị là nhân dân đào được khá nhiều di vật lành và dường như trùng lặp với truyền ngôn ở địa phương: Tại thôn Cẩm Khê người ta tìm thấy một chiếc tàu bằng gỗ bị vùi sâu dưới lòng đất. Phải chăng những hiện vật nguyên vẹn nằm ở đó đây trong vùng là hàng hóa phân tán của thương thuyền mắc cạn xưa ?
Tại chùa Minh Phúc, thôn Minh Thị, còn lưu lại tấm bia đá "Hậu Phật bi ký" khắc năm Sùng Khang 7 (1572) thời nhà Mạc, ghi việc Hoàng thái hậu họ Vũ mua 5 mẫu đất giá 120 lạng bạc làm ruộng tam bảo và dựng chợ. Ngày đó, chợ Minh Thị sầm uất, dân chúng giàu nhanh, là một cơ sở kinh tế quan trọng. Bia (Minh Phúc Tự) dựng năm 1669 ghi rõ dân làng bị quan dịch nặng nề phải nhờ vợ chồng thương gia Đoàn Tiến Đạt – Lê Thị Dung giúp 60 quan tiền, 2 sào ruộng. Một bia dựng trước đó 2 năm cũng cho biết nhân dân tuần du đạo phương Bắc. Đặc biệt, trong chùa còn pho tượng A-di-đà bằng đá, lớn bằng người thực, ngồi trên tòa sen, mang phong cách nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVI (thời Mạc) điển hình ở nước ta. Pho tượng A-di-đà này được thực hiện tỉ mỉ từ cụm tóc xoăn ốc, dải áo, móng tay đến khối hình, vẻ mặt, thuần hậu Việt Nam hơn các pho A-di-đà nổi tiếng ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Việc phát hiện và xác định niên đại cụ thể về pho tượng chùa Minh Thị là tiêu chí quan trọng để nghiên cứu nghệ thuật tạo hình Phật giáo. Bên cạnh tượng A-di-đà và một số bia đá thời Mạc, chùa còn bảo lưu được cây tháp bằng đất nung chín tầng cùng niên đại. Tháp hình tứ giác, các tầng cách nhau bởi cái mái đao cong. Bốn mặt mỗi tầng tháp đắp nổi hình rộng đơn, tượng Phật không phủ men, hình thức thể hiện tương tự như các chân đèn gớm thời Mạc được phát hiện ở chùa Thầy (Hà Tây), trổ một cửa hình vòm cuốn giống như ở tháp Bình Sơn (Phú Thọ) thu nhỏ. Trong lòng tháp đắp nổi hình chữ Hán ghi tên chùa và tên tín chủ, tín thí cúng dâng tam bảo, hình thức này chỉ xuất hiện dưới thời Mạc. Tiếc rằng ngôi tháp cổ mất tám tầng chỉ còn lại tầng thứ ba, tính từ dưới lên. Theo bia "Hoàng Đồ củng cố" dựng năm 1511 cùng với khu chợ Minh Thị (Toàn Thắng), ở huyện Tiên Lãng đã xuất hiện các dãy phố cổ Lồ, Khách, Đường Thung… hình thành một trung tâm buôn bán thịnh đạt mang hình bóng của một đô thị, thương cảng cổ. Cùng với sự phát triển hàng loạt các di vật, phế vật mang phong cách nhà Mạc (thế kỷ XVI và các thế kỷ tiếp theo), là các truyền ngôn ở địa phương giải thích về sự hình thành tên phố, tên làng giúp chúng ta hình dung về một thời "vang bóng" của mảnh đất lịch sử này. Phố Khách là nơi cư trú, buôn bán của người Trung Quốc xuống phương Nam khi giặc Mông xâm lược nước Tống. Phố Lồ là phố của các thương nhân phương Tây mở cửa hiệu giao dịch bán và mua hàng hóa và là trạm dừng chân, chuẩn bị cho các chuyến đi trên đại dương mênh mông hay mới từ biển cả đến để làm quen với con người và sản vật nước Nam…
Cùng với các hải cảng lớn đương thời ở nước ta như phố Hiến (Hưng Yên), Hội An (Quảng Nam)… đô thị và tiểu cảng cổ ở Tiên Lãng đã góp phần đưa sản phẩm hàng hóa của nước ta đến với bạn bè thế giới, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Mọi nhận định đánh giá về vùng đất này ngay từ bây giờ e quá sớm, và thiếu cẩn trọng. Nhưng từ kết quả nghiên cứu thực địa, chúng tôi nêu lên một số vấn đề và đưa ra vài nhận định mang tính dự báo khoa học bước đầu đối với một di chỉ khảo cổ học còn ẩn chứa nhiều giá trị về lịch sử, khoa học và kinh tế của thành phố Hải Phòng.
TG: Trần Phương LBL_NEWERNAME
LBL_OLDERNAME
|
Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 24 Tháng 10 2013 02:17 |