Thiên Sứ
Một số bài viết trên các báo mạng miêu tả về chùa Bối Khê như sau:
Chùa Bối Khê
Chùa có tên chữ là Đại Bi tự (nay thuộc xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây) là một ngôi cổ tự có giá trị lịch sử văn hoá lớn.
Chùa thờ Phật và còn thờ đức Thánh Bối. Ngài có tên là Nguyễn Bình An, quê ở Bối Khê, đến tu ở chùa Tiên Lữ (nay thuộc xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây), được chính quả và đã thành Thánh. Sự tích về ngày có nhiều yếu tố hoang đường kỳ ảo, nhưng đó là hình thức nghệ thuật dân gian nhằm tôn vinh một vị cao tăng đã trở nên linh thiêng trong dân chúng. Ngôi chùa còn bảo tồn được một toà Thượng điện nghệ thuật kiến trúc thời Trần (TK XIV), một nhang án đá hoa sen hình hộp chữ nhật có niên đại tương đồng với toà Thượng điện, một hệ thống trong thờ có niên đại trải dài từ TK XVI đến TK XIX và nhiều mảng kiến trúc nghệ thuật khác. Cũng ở nơi đây còn bảo tồn được những tập tục lễ nghi thờ phụng, những hình thức sinh hoạt văn hoá nghệ thuật dân gian phong phú và sinh động. Đặc biệt chùa còn nổi tiếng về tục lễ cầu nước. Hội chùa Bối Khê được tổ chức vào ngày 12 tháng Giêng âm lịch. Ngày hội đến, dân làng sắm lễ như tết nguyên đán. Những ngày này cháu con, họ hàng xa gần và bạn bè thường về trẩy hội. Cư dân người Việt là cư dân trồng lúa nước. Xưa, vì khoa học kỹ thuật chưa được phát triển, không có hệ thống kênh mương tưới tiêu đồng ruộng như ngày nay nên việc trồng lúa lệ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Hạn hán thì thiếu nước, mùa vụ khó khăn, còn lũ lụt thì ngập úng, mùa màng thất bát… đều làm cho đời sống gieo neo vất vả. Người ta tin rằng có những vị thần làm ra mưa, chẳng hạn như Mẫu Thoải (Mẫu Đệ Tam, trong hệ thống Tam Toà Thánh Mẫu) hoặc như Tìân Mây (Pháp Vân), Thần Mưa (Pháp Vũ), Thần Sấm (Pháp Lôi), Thần Chớp (Pháp Điện) trong hệ thống Tứ Pháp. Điều lý thú là từ Mẫu Thoải đến các vị thần Tứ Pháp đều mang lối hình nữ giới. Có lẽ các vị thần này được sản sinh trong tâm thức người Việt từ thời Mẫu hệ ? Điều chắc chắn là người Việt có truyền thống tôn vinh người mẹ. Dòng chảy về hình tượng người mẹ (khởi nguồn từ mẹ Âu Cơ) và dòng chảy về hình tượng thần thiêng "đẻ nước" đã hội nhập trên thần điện Việt Nam để cùng hoá thân thành các vị thần chủ về nguồn nước như Mẫu Thoải và các vị thần Tứ Pháp. Trong khuôn viên chùa Bối có điện Mẫu thờ Tam Toà Thánh Mẫu, gồm mẫu Thượng Thiên, mẫu Địa và mẫu Thoải. Trên điện thờ, ba pho tượng Mẫu ngồi cùng hàng, đều ở tư thế hai chân xếp tròn theo thế âm dương, hai tay để trong lòng, đầu đội mũ, mình mặc yếm áo truyền thống dân tộc, khuôn mặt trái xoan, cổ cao ba ngấn, dáng vẻ hiền từ đức độ. Mẫu Thượng Thiên chủ về điều hoà khí tiết, áo đỏ, yếm đỏ, ngồi chính giữa. Mẫu Địa chủ về nguồn đất và nhân gian, áo vàng, yếm vàng, ngồi bên phải. Mẫu Thoải chủ về nguồn nước, áo trắng, yếm trắng, ngồi bên trái. Những năm ít mưa, mùa màng khô hạn, ông thống làm lễ trước điện Mẫu rồi chuyển dịch tượng Mẫu Thoải nhô lên phía trước như có ý để ngài gần với dân chúng, nghe được tiếng cầu xin mà làm mưa cho mùa màng tươi tốt, đời sống yên bình no đủ. Giống như một số chùa thờ thánh khác (chẳng hạn như ở chùa Thầy xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai), ở chùa Bối không có hiện tượng truyền thừa. Việc hương đăng lễ bái chủ yếu do ông thống hoặc bà tự. Hịên tượng sư đến chùa là mới có khoảng trăm năm nay, khi mà ý nghĩa xa xưa đã phai mờ.
Nét đặc sắc trong lễ cầu nước ở chùa Bối là những nghi thức cầu đảo.
Năm nào trời đại hạn, đồng ruộng khô cháy, ao chuôm cạn nước, đã cũng lễ nhiều, tượng Mẫu Thoải đã được chuyển dịch nhô lên phía trước mà trời vẫn nắng hạn không mưa thì các cụ già ăn chay tụng niệm cùng ông thống vào lễ trước tượng thánh rồi "tróc" ngài ra ngoài sân phơi nắng. Bình thường, pho tượng đặt trong cung thánh thâm nghiêm phía sau điện Phật, chỉ vào dịp hội chùa, khi làm lễ Mộc đục (tắm tượng thánh), ông thống (hoặc nhà sư trụ trì ở chùa) kèm theo một vài người giúp việc, mới được vào cung để thực hiện một số nghi thức tắm tượng. Đó là một pho tượng to như người thật, đầu đội khăn thanh cát, dải khăn rủ dài xuống lưng, áo rộng, những nếp áo mềm mại buông như sóng nước. Tượng ngồi ở tư thế kiết già, mắt nhìn sâu vào nội tâm, vẻ mặt dữ dội chứa đựng một uy vũ tối thượng. Tương truyền, xa xưa, tượng được tạc bằng gỗ, màu cánh dán như màu tượng Tứ Pháp. Có lẽ vì thời gian xâm hại, tượng đã bị hỏng nên đã được thay bằng tượng đồng. Tượng đồng vẫn giữ phong cách tượng gỗ, nhưng không giữ được màu cánh dán mà chỉ tạo được máu xám đậm. Hịên tượng "tróc thánh" ra ngoài sân phơi nắng có vẻ như ngược chiều với lòng sùng kính một vị thánh thiêng trong tâm thức dân gian. Nhưng đó là ý thức mộc mạc dung dị của người nông dân. Họ muốn thánh cũng "đồng cam cộng khổ" với mọi người, trực tiếp chịu cái nắng nóng khô hạn để có thể "cảm thông" với nỗi khổ của dân chúng mà làm ra mưa. Tuy thế, khi đã "tróc thánh" ra sân, họ vẫn ý thức kính trọng giữ gìn "mình thánh" nên đã quây che kín đáo, không để mọi người có thể nhìn vào bằng con mắt thô thiển.Tượng thánh đã "tróc" ra sân rồi, ông thống chủ trì cuộc lễ, ông dẫn đầu đoàn người đi vòng quanh tượng. Đoàn người vừa đi vừa tụng niệm. Tiếng trống tiếng chiêng nổi lên ầm ào như tiếng sấm gọi mưa. Ông thống trong vài trò của một pháp sư vừa đi vừa niệm chú, vừa múa mênh bắt quyết, thỉnh thoảng lại nhảy lên hò hét vang động. Khi ông nhảy lên hò hét, lập tức trống chiêng đồng loạt gõ thật mạnh làm chấn động cả một vùng, tưởng như đã chuyển trời chuyển đất, mưa lớn đến nơi. Không gian linh thiêng vần vũ của buổi lễ cầu đảo như một thông điệp gửi tới thần linh, rằng trời đã nổi giống gió, sấm sét đã rền vang, xin hãy làm ra mưa kịp thời. Cuộc lễ kéo dài nhiều ngày, khi nào trời mưa mới rước tượng thánh hoàn cung và kết thúc cầu đảo.
Một hình thức cầu đảo đặc sắc nữa là lễ "tróc rồng".
Thay cho việc rước tượng thánh ra ngoài sân phơi nắng, người ta đắp bằng đất hoặc lấy rơm bện thành 5 con rồng và lập đàn cũng lễ ở sân chùa. Trên đàn thắp nến và cắm cờ ngũ sắc (cũng là cờ chỉ 5 phương vị), nhưng nổi trội là 5 con rồng rơm, trong đó 4 con hướng về 4 phương, con ở giữa chầu vào chùa. Rồng là linh vật, hiện thân của nước, có khả năng hút nước làm mưa. Vì thế, các con rồng đều ngậm ống đu đủ, đầu kia của ống cắm vào bình nước tượng trưng cho biển cả. Như thế là trên đàn tế người ta tạo hình năm con rồng hút nước ngoài biển khơi. Khi hành lễ, vẫn là ông thống giữ vai trò chỉ trỏ. Các già vãi và các ông sãi diễu quanh đàn, tiếng tụng niệm đều đều trầm trầm và tiếng trống chiêng làm nền cho vũ đạo và tiếng hét vang của ông thống. Tất cả như sai, như khiến trời mưa. Rồi… cuối cùng, ông thống tiến đến con rồng hướng về phương Bắc mà hạ tay kiếm, chém mạnh vào đầu rồng giữa tiếng hét vang và tiếng trống chiêng nhất loạt nổi lên mạnh mẽ. Bao giờ cũng thế, con rồng bị chém là con rồng phương Bắc. Là bởi :
Cơn mưa đằng Đông vừa trông vừa chạy
Cơn mưa đằng Tây mưa dây bão giật
Cơn mưa đằng Nam vừa làm vừa chơi
Cơn mưa đằng Bắc chả chắc gì mưa.
Cơn mưa bốn phương, chỉ có cơn phương Bắc là khó mưa nhất. Vì con rồng phương Bắc lười nhác không chịu hoạt động. Cho nên phải ra tay trừng phạt để nó tích cực hoạt động thì trời mới mưa. Vẫn là cách lý giải giản đơn, mộc mạc mà thiết thực của người nông dân. Ở đây ông thống trong vai pháp sư và cũng là "thay mình thánh" nên mới có thể chém rồng - động tác dứt khoát và tiếng thét vang động vừa là thị uy vừa là trừng phạt Lễ cầu đảo với những hình thức "tróc tượng thánh" và "tróc rồng" đã vượt qua thiền phái Mật tông, mang đầy yếu tố phù thuỷ, một phái của Đạo Lão, lại tồn tại ở một ngôi chùa, tưởng như một điều hiếm lạ. Nhưng đây lại là nét đặc thù ở những ngôi chùa thờ thánh như chùa Bối, nơi xuất xứ những huyền thoại lung linh và thần bí.Bấy giờ là vào thời kỳ nhà Trần, ở Bối khê có một gia đình họ Nguyễn, ông bà chăm chỉ làm ăn, thu nhân tích đức mà muộn đường con cái. Một hôm bà đi làm đồng, thấy có một dấu chân khổng lồ in trên phiến đá, bèn ướm thử, tự nhiên thấy xúc động, rồi mang thai. Đến ngày đến tháng, sinh được một trai khôi ngô tuấn tú, ông bà mừng rỡ, đặt tên là Bình An. Bình An lớn lên, cũng như các trẻ khác trong làng, chăn trâu cắt cỏ, vui chơi trong đám mục đồng. Nhưng Bình An khác với lũ trẻ là không phạm vào sát giới. Trẻ mục đồng bắt cua tát cá, Bình An thường tìm cách phóng sinh. Rồi đến tu ở chùa Tiên Lữ. Chẳng bao lâu đã nổi tiếng là một cao tăng thông tuệ Phật Pháp, lại giỏi phù chú, thành một pháp sư, được dân sùng kính và được triều đình nể trọng, phong làm chân nhân. Ngài có nhiều phép lạ, đi mây về gió, bước chân dài trăm dặm. Từ Tiên Lữ về Bối Khê, đường dài khoảng 20km, ngài chỉ đi mấy bước là tới nơi. Dấu chân khổng lồ còn in trên đất, đến nay vẫn còn, thành những hồ ao như ở Quán Thánh, Lương Xá, Ổ vực và in trên phiến đá trước cổng chùa Bối. Ngài về Bối Khê xin tương cà cho thợ làm chùa ăn. Chỉ một niêu cơm nhỏ mà đoàn thợ hàng trăm người ăn mãi không hết. Ngài con đi guốc trên mái nhà kiểm tra thợ làm chùa. Năm 95 tuổi, ngày 13 tháng Chạp, ngài vào khám nhập định, đến ngày mồng bốn tháng Giêng, dân làng thấy có mùi thơm mới mở khám ra xem thì thấy mùi thơm sực nức, hào quang sáng chói, biết là đã hoá mới lập ban thờ. Ngài đã thành thánh. Đức Thánh Bối tứ là Bồ Tát Bình Đẳng Hành Nghĩa, còn gọi là Bồ Tát Khai Sơn. Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, chúng tràn đến, giết người, cướp của, đốt phá, hành sự vô cùng tàn bạo, ngài đã làm ra mưa máu, khiến chúng bị bệnh mà chết rất nhiều, phái rút đi. Ta gặp trong sự tích đức Thánh Bối những mô típ nghệ thuật dân gian. Hình tượng người mẹ dẫm lên dấu chân khổng lồ mà sinh ra thánh nhân đã thấy trong sự tích Thánh Gióng. Dấu chân ngựa Gióng lên núi Sóc Sơn để lại một chuỗi hồ ao giống như dấu chân Nguyễn Bình An đi từ Tiên Lữ về Bối Khê. Niêu cơm Thánh Bối và niêu cơm Thạch Sanh là cùng một mô típ. Sự tích Thánh Bối gồm nhiều mô típ nghệ thuật dân gian. Những mảng nghệ thuật ấy đầy chất hoang đường kỳ ảo, nhưng là hình thức nghệ thuật dân gian vừa nhằm tôn vinh người anh hùng đã trở thành linh thiêng trong dân chúng, vừa nhằm thể hiện ước mơ tài năng, sức mạnh, đời sống no đủ của người bình dân. Ta còn gặp ở Thánh Bối những chi tiết tương đồng với Từ Đạo Hạnh (được thờ ở chùa Thầy và ở Không Lệ Thiền sư (được thờ ở chùa Keo)… Thực ra, những hình thức phù phép, hú gió gọi mưa, đi mây về gió… mang đậm chất phù thuỷ của các vị cao tăng kiêm đạo sĩ này là xuất xứ từ Đạo Lão. Đạo Lão thờ thần tiên, xuất xứ từ Trung Quốc vào thời Chiến Quốc, được truyền vào Việt Nam, đã song song tồn tại với đạo Nho, đạo Phật và đã hội nhập với tín ngưỡng bản địa. Các vị cao tăng như Từ Đạo Hạnh, Không Lệ Thiền sư, Nguyễn Bình An là tu theo thiền phái Mật Tông, nhưng cũng nhuốm màu phù thuỷ, một Đạo phái của Lão giáo. Bản thân các vị, khi còn là cao tăng đã từng gọi mây, hú gió, làm mưa, cầu đảo giúp dân. Đến khi viên tịch, thành thánh vẫn được dân làng viện đến để cầu mưa, chống hạn. Vì thế ở chùa Bối Khê, những khi đại hạn, đồng ruộng khô cháy, dân làng lại viện đến đức Thánh, hoặc cầu xin ngài làm ra mưa như hình thức "tróc tượng thánh" ra phơi nắng, hoặc mô phỏng khi xưa ngài đã cầu đảo như hình thức "tróc rồng". Mặc dù cả hai hình thức này đều có yếu tố Mật Tông và mang đậm màu sắc phù thuỷ, nhưng bao trùm lên tất cả là hình thức sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng truyền thống của người Việt.Giữ gìn, bảo vệ những hình thức văn hoá tín ngưỡng trên đây chính là góp phần giữ gìn bảo vệ bản sắc văn hoá Việt Nam.Đêm qua trời đã mưa rào, sáng ra thức dậy, cây lá hả hê, vạn vật như vừa được tắm gội sạch sẽ. Không gian tĩnh lặng. Hương hoàng lan và hương thiên mệnh (hoa dại) toả thơm ngan ngát. Không hiểu vì vừa đi qua cổng Tam quan, hay vì được tắm trong không khí mát lành buổi sáng mà lòng trần tục nhẹ tênh, ngỡ như đã trút bỏ được bụi trần cho lòng thanh sạch để bước vào cửa Phật. Còn đang lần theo những hàng gạch thoáng chút rêu phong cổ kính của chiếc sân rộng như lần theo những dấu mốc thời gian lịch sử văn hoá ở Đại Bi tự, đã bâng khuâng trước bóng ni sư thấp thoáng ở hiên chùa. Chiếc áo nâu khoe màu giản dị mà thướt tha mềm mại, nhẹ như một thoáng mây bay. Tưởng đã lọt vào cõi Phật, cõi Tiên. Theo bóng ni sư, bàn chân trần tục bước lên ba bậc thềm toà Tiền đường để vào cõi Phật. Chợt nghe một tiếng chuông ngân. Tiếng chuông trong như một giọt sương mai. Vội vàng niệm Phật : "Nam Mô A Di Đà…".
Lễ cầu nước ở chùa Bối Khê
Tác giả : Văn Lừng
===============================
Cây đa cổ hơn 600 tuổi trước chùa Khác với kiến trúc của các chùa ở đồng bằng Bắc bộ, chùa Bối Khê được bố cục theo kiểu “tiền Phật, hậu thánh”. Nơi thờ Phật được bố trí ở tòa tiền đường và tiền bái. Tiếp theo là tòa thiêu hương và thượng điện thờ đức thánh Bối. Hai bên có hai dãy hành lang dài, bày 18 pho tượng La Hán, bao quanh nhà thiêu hương và thượng điện tạo thành thế kiến trúc “nội công, ngoại quốc”.
===============================
Chùa Bối Khê
21/07/2010
Theo tấm bia khắc năm Hồng Thuận thứ 7 đặt tại đây, chùa được dựng vào năm Khai Hựu thứ 10 (1338) thời vua Trần Hiếu Tông.
Vào chùa qua hệ thống cổng ngũ môn và cầu là tới tam quan gồm ba gian bằng gỗ theo kiểu hai tầng tám mái. Phía trên tam quan là gác chuông. Tam quan được dựng vào năm 1603 thời Lê trung hưng. Hạng mục kiến trúc này vừa được sửa chữa vào năm 2006. Kiến trúc chính của chùa Bối Khê được bố cục theo kiểu “tiền Phật, hậu Thánh”. Việc thờ Phật được bố trí ở tòa tiền đường và tiền bái. Tiếp đó đến tòa thiệu hương và thượng điện là nơi thờ thánh. Nhìn tổng thể, ngôi chùa có hình “nội công ngoại quốc” bởi hai bên có hai dãy hành lang.
Đáng chú ý ở tòa tiền đường là hệ thống cột bằng đá xanh. Trên các cột đá có chạm nhiều đôi câu đối ca ngợi cảnh chùa. Bên trái tiền đường có một am nhỏ thờ bà công chúa thời Mạc đã có công tu sửa chùa. Hai dãy hành lang ở hai bên được xây dựng song song, mỗi bên có bảy gian. Nơi đây thờ 18 vị La Hán. Tòa tiền bái có chín gian. Hệ thống tượng Phật ở chùa Bối Khê khá phong phú và được bài trí, thờ phụng theo phái đại thừa. Ở đây có tượng Quan âm nghìn tay nghìn mắt đặt ở vị trí trang trọng nhất trên bệ đá khối hộp đồ sộ thời Trần, được tạo tác vào thế kỷ XVI. Ngoài các bức tượng, đáng lưu ý là bệ đá hoa sen thời Trần được làm năm Xương Phù thứ 6 91382). Văn tự khắc chìm ở bệ đá cho biết vào thời này đã có một số người cúng tiền và ruộng cho nhà chùa. Thượng điện của chùa là tòa nhà một gian hai chái cao 5,5 mét với bốn đầu đao trông như một bông sen hé nở. Cấu trúc tòa thượng điện bằng gỗ mít, được dựng vào khoảng thế kỷ XIV. Hiên của thượng điện có những bảy lớn đỡ mái qua những tấm ván nong, bảy hiên trang trí rồng há miệng đỡ các đấu vuông, đỡ hoành. Rồng được khắc mào lửa. Đó là những họa tiết hoa văn thời Trần. Hình tượng chim thần Garuđa dược chạm ở bảy góc trái càng khẳng định thượng điện này được xây dựng từ thời Trần là chính xác. Cạnh tòa nhà này có cây hoa sen (sen cạn) cao lớn, về mùa hè nở những bông hoa trắng thơm ngát. Người đến nơi đây dễ liên tưởng tới câu ca dao: “… Lê chùa bẻ một cành sen/Ăn cơm bằng đèn, đi cấu sáng trăng…”.
Trong thượng điện chùa Bối Khê thờ tượng đức thánh Nguyễn Bình An, người đời thường gọi là đức Thánh Bối và thêu dệt nhiều chuyện kỳ lạ về ngài. Theo truyền thuyết, ngày sinh năm Tân Tỵ (1281), quê ở làng Bối Khê, nhưng tu luyện ở chùa Trăm Gian (xã Tiên Lữ, huyện Chương Mỹ). Sự tu hành của ngài triều đình biết, vua Trần phong cho ngài là Chân nhân, tức người theo Đạo giáo, tu hánh đã đắc đạo. Khi ngài về quê có mây đen hiện ra như bầu trời sắp mua. Lúc dựng lại chùa Tiên Lữ, ngài chỉ thổi một niêu cơm mà đã đủ ăn cho cả trăm thợ. Khi quân Minh xâm phạm nhà chùa ngài đã làm ra mua máu buộc chúng phải rút chạy. Ngày 13 tháng chạp ngài vào am để hóa. Ngày 4 tháng giêng, dân mở khám thờ thấy thơm, bèn tạc tượng thờ. Chùa Trăm Gian là nơi thờ chính thức Nguyễn Bình An, còn ở Bối Khê thờ vọng. Tương truyền nơi thờ ngài rất thiêng, dân đến lễ, cầu gì được nấy. Hội chùa hàng năm tổ chức vào ngày 13 tháng giêng có nhiều trò vui như chọi gà, đánh đu, hát chèo… Chùa Bối Khê còn nhiều hiện vật quý giá như có tới 10 tấm bia, trong đó bia cổ nhất là “Bối động thánh tích bi ký” có từ năm Thái Hòa thứ 11 91453) nhưng cũng là tấm bia mới nhất vì được khắc lại năm Thành Thái thứ 7 (1895) kể lại sự tích đức Thánh Bối với nhiều tình tiết ly kỳ. Tiếp theo là bia “Đại bi tự” dựng năm Hồng Thuận thứ 7 (1515) ngoài việc nói thêm về đức Thánh Bối còn cho biết việc tu sửa chùa ở đầu thế kỷ XVI. Hiện vật đá đặc biệt quý hiếm là chiếc bệ hoa sen khối hộp, các góc chạm chim thần, trên chạm đài sen, dưới chạm sập thờ, mặt trước có chạm rồng và nhiều loài thú, do vị đạo sỹ ở Quốc Oai cúng tiến. Ngày 20-4-1979, Bộ VHTT đã công nhận chùa Bối Khê là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia đặc biệt.
Theo Hanoi.vn
===============================
Trong một dịp đi thực tế làm phong thủy, Mộc Miên một thành viên của diễn đàn và đang học lớp Phong Thủy Lạc Việt nâng cao giới thiệu với thày trò về chùa Bối Khê. Mộc Miên giới thiệu đây là một ngôi chùa cổ có rất nhiều hình tượng độc đáo. Cứ nói đến "cổ" là tôi mê ngay. Thế là thày trò quyết định đi thăm chùa. Chùa còn một tên nữa là Đại Bi ở thôn Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, thuộc Hà Tây chỉ cách Hanoi cũ khoảng 20 km. Thày trò hẹn nhau đúng Chủ Nhật kéo nhau đi, chen chúc trong một cái xe hơi bốn chỗ của tay lái lụa Mộc Miên.
Cổng Chùa Bối Khê.
Đây chỉ là ngôi chùa của làng Bối Khê, nhưng rất đẹp vì những cấu trúc cổ kính của nó từ tổng thể đến chi tiết.
Còn tiếp