 |
Sông Hương - Nguồn mạch tâm linh
Sông Hương – ḍng sông gắn liền với Huế, trải qua bao biến thiên, thăng trầm cùng thời gian, ḍng sông của lịch sử, ḍng sông của thơ ca, ḍng sông đă đi vào tâm thức của những con đất Huế như là ḍng sông của Vua Chúa…Hăy cùng trải nghiệm cảm giác bồng bềnh trên ḍng Hương để khám phá một Huế khác, trầm lặng hơn, giản dị hơn…

Những ngôi miếu thờ bên ḍng sông Như một quy luật từ xa xưa, con người và các ḍng sông luôn song hành với nhau, nơi nào có sông, nơi đó con người sinh sống và phát triển, nhiều nền văn minh đă ra đời gắn liền với những ḍng sông chẵng hạn nền văn minh Trung Hoa gắn liền với con sông Hoàng Hà và Trường Giang, Ai Cập gắn liền với sông Nile, Ấn Độ với Sống Ấn và sông Hằng…hay ở nước Việt ta th́ có Cổ Loa với con sông Hoàng Long, Thăng long với sông Hồng… và Huế là ḍng Hương.
Thượng nguồn sông Hương với cầu Tuần vừa được hoàn thành

Đồi Ngọc Trản với điện Ḥn Chén Tuy không quá dài như những ḍng sông ở trên, tổng chiều dài nếu tính cả nguồn dài nhất th́ sông Hương chỉ dài khoảng 100km, thượng lưu của ḍng sông là hai nguồn Tả trạch có chiều dài khoảng 67km, bắt nguồn từ dăy trường Sơn Đông, chảy qua khu vườn quốc gia Bạch Mă với 55 ngọn thác, ḍng này chảy ngang qua thị trấn Nam Đông sau đó hợp lưu với ḍng Hữu Trạch ở ngă ba Bằng Lăng, ḍng Hữu Trạch cũng bắt nguồn từ dăy Trường Sơn nhưng từ phía Nam và chảy ngược về phía Bắc với chiều dài 60km. Bắt đầu từ đây ḍng Hương đă trở nên rộng hơn, đổ ra cửa biển Thuận An với chiều dài 33km, nước chảy chậm do độ dốc thấp.
Hoàng hôn trên đồi Vọng Cảnh

Thấp thoáng những con đ̣ lẻ loi Trước khi xuôi theo hạ nguồn để khám phá một Huế nên thơ th́ chúng ta cũng nên t́m hiểu xem v́ sao ḍng sông có tên sông “Hương”. Theo các tài liệu cổ trong lịch sử th́ ḍng sông mang nhiều tên khác nhau, như trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trăi sông có tên là sông Linh…sau đó lại được mang tên Lô Dung, Yên Lục…và theo truyền thuyết sở dĩ có tên là sông Hương là do sông chảy qua những cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn với hàng trăm loài hoa, cây gỗ mang mùi thơm nhẹ nhàng, v́ thế mà nhân dân gọi là sông Hương.
Những dăi rừng xanh ngắt bên bờ sông Từ ngă ba Bằng Lăng, ḍng sông trôi chầm chậm qua những thằng cảnh của Huế, qua điện Ḥn Chén, qua đồi Vọng Cảnh, qua Vơ Miếu, Văn Miếu, qua chùa Thiên Mụ… rồi qua kinh thành Huế. Mỗi lần đi qua một nơi nó lại làm cho nơi đó trở nên trầm mặc, cổ kính, nên thơ hơn, mềm mại hơn…
Văn Thánh miếu Ḍng sông mềm mại uốn quanh, như ôm trọn kinh thành, khi chọn đất đóng đô, vua Gia Long đă khéo lẹo lựa chọn ḍng sông làm minh đường với hai cái cồn Hến và Giả viên làm tả Thanh Long và hữu Bạch Hổ, ông đă cho nắn hai ḍng phụ lưu là Kim Long và Bạch Yến thành hộ thành hà cho kinh thành.
Linh thiêng Thiên Mụ Tự Một điều khác biệt so với các kinh đô khác của Việt Nam ở chỗ, ḍng Hương chính là nguồn mạch tâm linh, một con đường nối giữa hai thế giới của những vị Vua đang tại vị với các Tiên đế đă băng hà, hầu như các khu lăng mô của các vua đầu triều đều nằm ở thương nguồn Hương giang. Không kể những làng mạc x̣m làng, những ngôi nhà vườn, những vườn cây ăn trái xanh mướt…
Bến Phu Văn Lâu Vào các dịp đầu xuân ngày xưa, ḍng sông trở thành nơi cho một cuộc biểu diễn đầy màu sắc và trang nghiêm của những chiếc Long thuyền, Phượng thuyền của hoàng gia trên bến Phu Văn lâu. Vua cùng cả hoàng gia ngự trên những con thuyền lộng lẫy ấy xuôi ḍng sông để đến với các lăng Tiên đế cũng như đến với ngôi quốc tự Thiên Mụ trên đồi hà khê, hay điện Ḥn Chén…và cũng chính ḍng sông là ranh giới giữa hai chế độ trong thời gian Pháp xâm lược nước ta: bờ bắc ḍng sông là kinh thành uy nghi cổ kính thể hiển uy quyền của Nam Triều, bờ Nam là ṭa khâm sứ khiêm tốn nhưng lại đè bẹp cái kinh thành kia, rồi ḍng sông cũng là nơi chứng kiến bao cảnh binh đao, bao biến đổi, màu cờ trên Kỳ đài thay đổi bao phen…
Kỳ đài sừng sững uy nghi Trải qua thời gian, thăng trằm cùng lịch sử, có những công tŕnh đă mất cùng thời gian, những con người chỉ c̣n trong quá khứ, ngay cả một triều đại cũng tàn lụi th́ ḍng Hương vẫn ở đó, vẫn hàng ngày làm xanh thêm cho Huế, một dải lụa mềm vắt ngang thành phố Huế, c̣n biết bao điều phải nói về ḍng sông một thời huy hoàng cùng Vương triều Nguyễn này, hẹn các bạn lại kỳ sau!
Hiện trạng các di tích Huế hiện nay và tương lai
Sau một chặng đường dài khám phá các di tích thuộc quần thể di tích cố đô Huế, bài này sẽ khái quát t́nh h́nh trùng tu tôn tao cũng như hiện trạng các công tŕnh đă trùng tu và được lên kế hoạch trùng tu trong tương lai.

Sự trống trăi đến nao ḷng hoàng cung xưa
Sau ngày thống nhất đất nước, các di tích huế bước vào một giai đoạn “tăm tối”, bỏ qua những tàn phá của các cuộc chiến tranh, mang trên ḿnh những vết thương nặng nề Huế lại tiếp tục oằn ḿnh gánh chịu những sự phủ phàng của con người, của những tư tưởng “tiến bộ”. Bị nhốt chung với cái rọ “phong kiến phản động”, những ǵ c̣n lại không được đối xử một cách trân trọng mà bị trưng dụng một cách thô bạo: Ngọ môn biến thành chỗ giữ xe, bán cà phê, Thế Miếu biến thành nhà tập thể, Thái Miếu thành nhà hàng,… rồi đàn Nam Giao bị biến thành đài liệt sĩ…
Trước sự đối xử không trân trọng của con người “tiến bộ” th́ những người có tâm huyết không thể làm ngơ, sau một thời gian dài kêu gọi bảo vệ và trùng tu tôn tạo và sau hàng chục năm thực hiện công cuộc này th́ Huế ngày nay đă khác, tuy chưa lấy lại được huy hoàng ngày xưa nhưng một phần nào Huế đă thực sự hồi sinh, loạt ảnh sau sẽ cho chúng ta thấy được sự đổi khác của Huế từng ngày.
Những h́nh ảnh trong và sau chiến tranh, sự tàn phá nặng nề của bom đạn làm cho Huế biến dạng hoàn toàn.

Kỳ đài chỉ c̣n lại cái nền không toàn vẹn

Bạn có nhận ra đây là cổng chính của hoàng thành không!!!


Không thể nhận ra ngôi chính điện của ngày huy hoàng

Điện Thái Ḥa đổ nát

Bước ra chiến tranh, cấm thành thật sự đổ nát

Điên Kiến Trung xưa tuyệt đẹp

Lầu Tứ Phương Vô Sự lúc chưa trùng tu lại là nơi chụp h́nh yêu thích của những đôi t́nh nhân

Thế Miếu nh́n từ phía sau

Hiển Lâm Các điêu tàn

Sự đổ nát, hoang tàn ngự trị khắp nơi trong hoàng thành
Dáng dấp xưa dần trở lại, nét huy hoàng một thuở.

Kỳ đài ngày nay vẫn sừng sững trước mặt hoàng thành

Ngọ Môn đă lấy lại được nét xưa

Điện Thái Ḥa

Quá tŕnh tôn tạo lại nhà Tả Vu

Tả Vu

Hệ thống trường lang đang được phục hồi bên hông điện Càn Chánh

Những khoảng trống dần được lấp đầy

Điện kiến Trung chỉ c̣n lại nền, và hiện đang lên kế hoạch hoàng nguyên

Quá tŕnh trung tu lầu Tứ Phương

Lầu Tứ Phương Vô Sự vừa được trùng tu

C̣n đó những công tŕnh chưa thể trùng tu

Hiển Lâm Các

Thế Tổ Miếu
Trong kỳ tới chúng ta sẽ tiếp tục với quá tŕnh trùng tu các di tích ngoài hoàng thành và các lăng tẩm.
Trùng tu các di tích ngoài đại nội và lăng tẩm
Hôm nay chúng ta sẽ tham quan các di tích đă và đang được trùng tu ở khu vực ngoài Đại Nội và ở các lăng tẩm. Cũng như Hoàng Thành th́ các di tích lịch sử ngoài Hoàng Thành cùng các khu lăng tẩm là một tổ hợp cấu thành di sản Huế. Mỗi một công tŕnh đều có chức năng và nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều tổng ḥa trong không gian thơ mộng của miền đất thần kinh một thuở.
>> Về với Huế Thương
>> Hiện trạng các di tích Huế hiện nay và tương lai

Long An điện hiện đang trùng tu
Long An điện, một ngôi điện được cho là đẹp nhất trong số các cung điện c̣n tồn tại ở Huế mà Sổ tay du lịch đă giới thiệu ở bài “Long An điện – thăng trầm cùng lịch sử”, hiện đang được trùng tu, công tŕnh này trước kia là trụ sở bảo tàng Mỹ Thuật Cung Đ́nh Huế và sau khi trùng tu sẽ trở về chức năng ban đầu của nó là nơi thờ tự Vua Thiệu Trị.

Những chiếc cổng thành trong nắng sớm

Nét mới cùng ḥa vào nét xưa
Các cổng thành của kinh thành cũng đă được trùng tu tôn tạo, trả lại cho Huế nét vương giả xưa, nét thăng trầm cổ kính cùng với sự kín đáo vốn có. Tùy thuộc chức năng mà mỗi mặt của kinh thành có số lượng cửa khác nhau: mặt Nam là mặt chính nên có tới 4 cửa, ba mặt c̣n lại có 2 cửa, sau chiến tranh những cửa này đa số bị hư hại, có cửa bị đổ nát hoàn toàn, hay những có những cửa bị phá hủy để xây dựng các locốt lên trên cũng được xây dựng lại…

Thiên Mụ trong một ngày nắng

Cảnh xưa chùa cũ

Ngôi chính điện vừa được trùng tu
Công tŕnh kế tiếp là Chùa Thiên Mụ, ngôi quốc tự gắn liền với sự hưng thịnh của Triều Nguyễn, tuy không uy nghi và hoành tráng như thời hoàng kim nhưng Thiên Mụ sau khi trùng tu chánh điện và bảo tháp, nó đă lấy lại được phần nào diện mạo.

An Định cung nh́n từ sông An Cựu
Cung An Định bên bờ sông An Cựu, ngày xưa đây là nơi tiềm để của Vua Khải Định, sau khi lên ngôi ông đă cho xây dựng lại cung này để làm nơi nghĩ ngơi, cung được xây theo phong cách kết hợp Đông Tây cũng như tất cả các công tŕnh khác được xây trong thời Khải Định.

Lăng Gia Long - cổng vào tẩm điện vừa được trùng tu

Các công tŕnh trong lăng đang dần được tôn tạo lại
Các lăng Tẩm hiện cũng đang được trùng tu, trong đó ưu tiên các lăng Gia Long, Minh Mạng, Đồng Khánh, hiện vẫn chưa có kế hoạch trùng tu lăng Thiệu Trị và Dục Đức, hai khu lăng này đang bị xuống cấp nghiêm trọng và có nguy cơ thành phế tích nếu không được tôn tạo kịp thời.
Lăng Gia Long là một quần thể kiến trúc kết hợp thiên nhiên rất rộng lớn cho nên đây là lăng được ưu tiên trùng tu trước tiên với các hạng mục công tŕnh: khu tẩm điện, khu lăng mộ, khu bia đ́nh…

Cảnh lăng Minh Mạng xưa

Hiển Đức Môn đang trong quá tŕnh tôn tại

Và đă hoàn thành

Nh́n từ bi đ́nh
Lăng Minh mạng vừa trùng tu chiếc cổng Hiển Đức Môn.

Nh́n trên sơ đồ ta có thể thấy được diện mạo lăng Đồng Khánh khi hoàn thành
Lăng Đồng Khánh đang được đầu tu trùng tu lại toàn bộ hệ thống tẩm điện

Lăng Thiệu Trị trong đổ nát

Lầu Đức Hinh xưa ở lăng Thiệu Trị nay không c̣n
C̣n nhiều nữa những công tŕnh đă và đang được trùng tu, Huế sẽ dần lấy lại diện mạo của ḿnh, chúng ta tạm thời chia tay Di sản Huế tại đây, loạt bài kế tiếp Sổ tay du lịch sẽ đưa các bạn ra khỏi kinh thành cổ kính để đến với những miền quê ngoại thành, những ngôi làng cổ, những khu nhà vườn đậm chất Huế, chất vương giả của Hoàng gia.
Độc đáo nhà vườn An Hiên
Nhà Rường, một trong những nét đặc sắc trong ḍng kiến trúc Huế, không chỉ được áp dụng trong xây dựng hoàng cung mà c̣n cho cả dân gian, tuy nhiên sự tuân thủ các nguyên tắc xây dựng rất khắc khe và nghiêm chỉnh, thông thường một ngôi “điện” của Vua thường có từ bảy đến chín gian cùng với hai chái đơn hoặc hai chái kép, một ngôi “phủ” của một vị hoàng thân hay hoàng tộc chỉ được năm gian hai chái, c̣n nhà dân thường chỉ được một gian đến ba gian cùng hai chái đơn. Hôm nay chúng ta sẽ cùng đền thăm nhà vườn An Hiên, một ngôi nhà vườn c̣n giữ được nét kiến trúc truyền thống, đậm chất Huế c̣n tồn tại ở Huế sau bao thăng trầm của thời gian.
Lối vào nhà vườn An Hiên Nằm trên con đường rợp bóng mát từ kinh thành đi chùa Thiên Mụ, nhà vườn An Hiên là một địa chỉ tham quan hấp dẫn đối với du khách muốn t́m về hồn Huế xưa. Đứng trước chiếc cổng nhỏ xinh nép ḿnh bên hàng cây cao vút xanh mát quanh năm, phía trước là ḍng Hương thơ mộng, bước qua công du khác như lạc vào một thế giới của cỏ cây hoa lá, con đường nhỏ dẫn vào nhà thật đẹp, bức b́nh phong nhỏ che cho ngôi nhà khỏi những điều không hay, con đường nhỏ rẽ sang hai bên b́nh phong đưa du khách vào sân của ngôi nhà với một cái hồ nhỏ đầy sung, chiếc hồ và b́nh phong có chức năng giống như núi Ngự B́nh và sông Hương là minh đường cho kinh thành Huế Vậy.
 Cuối sân là ngôi nhà ba gian hai chái đậm chất truyền thống Huế, với cột kèo được chạm khắc tinh tế, ngôi nhà có lịch sử lâu đời và trước năm 1895, là nơi ở của công chúa thứ 18 con vua Dục Đức, sau đó được chuyển lại cho ông Phạm Đăng Thập con một đại thần dưới Triều Gia Long. Sau đó ngôi nhà c̣n qua tay nhiều chủ nữa và gắn liền với một nhà hoạt động chính trị xă hội của Huế, bà Đào Thị Xuân.
Nội thất ở nhà vườn An Hiên Với cách bài trí đơn giản và thanh thoát, ngôi nhà có thiết kế ấm vào mùa đông, mát vào mùa hè, các bố trí những vật dụng sinh hoạt hàng ngày rất hợp lư và nhẹ nhàng, những hệ thống v́ kèo kết hợp với nhau mà không cần một cây đinh hay vật liệu kết dính nào. Mái nhà lợp ngói Nam, xung quanh nhà là một khu vườn rộng quanh năm sum sê hoa quả của khắp các miền đất nước.
Có đến thăm An Hiên th́ ta mới có thể cảm nhận được tại sao con người Huế luôn nhẹ nhàng kín đáo trong lời ăn tiếng nói, thanh thoát trong hành động, và dịu dàng trong tính t́nh, cũng như một tâm hồn văn thơ phong phú và lăng mạn, một t́nh yêu thiên nhiên như muốn đưa cả thiên nhiên vào vườn nhà.
Mộc mạc làng quê Phước Tích
Phước Tích – một cái tên mộc mạc, tọa lạc tại xă Phong Ḥa, huyện Phương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, nằm bên bờ ḍng Ô Lâu xanh mát, những ngôi nhà rường có lịch sử hàng trăm năm vẫn cùng nắng mưa thời gian, bao biến cố, bao thăng trầm của lịch sử cũng không thể làm mất đi nét xưa trong từng ngôi nhà.

Một ngôi miếu cổ trước ḍng Ô lâu
Công cuộc khai lập làng bắt đầu từ hơn 500 năm trước, ông tổ họ Hoàng là Hoàng Minh Hùng quê ở Nghệ An đă thân chính đem quân đánh đuổi Chiêm Thành, rồi thấy cuộc đất bên ḍng Ô Lâu này có thể gầy dựng cơ nghiệp nên ông đă chiêu mộ người dân về khai khẩn lập làng. Lúc đầu làng có tên là Phúc Giang với ư nghĩa nơi vùng đất gần sông này luôn tràn đầy phúc lộc để dân cứ có thể giàu có và sung túc. Sau hàng trăm năm phát triển đến thời Tây Sơn làng lại đổi tên thành Hoàng Giang như để tưởng nhớ đến công nghiệp khai lập làng của ḍng tộc Hoàng. Đến khi Gia Long lên ngôi đă cho đổi tên một lần nữa thành Phước Tích với ư nghĩa mong muốn nơi đây luôn tích lũy phúc đức. 
Màu ngói đă phai theo thời gian
Ḍng Ô Lâu xanh mát, uốn quanh ngôi làng làm cho nó như cách biệt khỏi sự xô bồ của thế giới bên ngoài nhưng cũng rất gần gũi. Những con đường nhỏ uốn quanh những tán cây cổ thụ quanh năm tỏa bóng mát, những hàng rào bằng chè tàu ngăn cách những ngôi nhà rường rêu phong cổ kính thấp thoáng sau những vườn cây ăn trái sum xuê. Cả ngôi làng hiện nay c̣n hơn 100 ngôi nhà nhưng chỉ c̣n khoảng 30 ngôi nhà là giữ được kiến trúc nguyên thủy từ lúc xây dựng cho đến nay.

Không gian thoáng đản
Chúng vẫn giữ được cái hàng rào bằng chè tàu, được cái sân lát gạch Bát Tràng, được những mái ngói liệt đă đổ màu thời gian, những hàng cột đen bóng…làm tăng thêm sự thâm nghiêm trong từng ngôi nhà. Trước mỗi ngôi nhà là một cái sân rộng lát gạch Bát tràng , trước mỗi nhà là bức b́nh phong cùng con đường nhỏ với hai hàng chè tàu thẳng tấp, tùy theo năng lực mà gia chủ có thể xây ngôi nhà theo kiểu 3 gian 2 chái hay 1 gian hai chái. Đường nét kiến trúc tuy tổng thể từng ngôi nhà đều giống nhau nhưng cách bày trí, các tác phẩm điêu khắc lại theo sở thích của người chủ nhà. 
Hàng chè tàu thẳng tấp
Sự phân chia thờ tự nơi đây cũng rất hay, ngay đầu làng là ngôi miếu thờ Khổng Tử cùng các vị hiền tài, giữa làng là miếu thờ chư vị Thần Phật, cuối làng lại thờ người khai lập làng cùng với ông tổ nghề nơi đây. Ở mỗi nơi như vậy đều có một gốc cổ thụ, trong đó ngôi miếu giữa làng tương truyền có trước khi lập làng và được xây dựng trên nền một ngôi tháp Chăm đă đổ nát, trước miếu là một cây thị cổ thụ đă hơn ngh́n năm tuổi. 
Những bức hoành cùng nét cổ trong từng ngôi nhà
Nhắc đến tổ nghề nhưng lại chưa nhắc đến một nghề truyền thống nơi đây, nó đă đi vào lịch sử, và không thua ǵ so với làng gốm Bát Tràng ở phía Bắc, đó là gốm Phước Tích, trong hàng trăm năm phát triển của ḿnh đă có thời gốm Phước Tích là sản phẩm dùng riêng cho Hoàng gia với câu ca dao nổi tiếng: “Om Phước Tích ngon cơm Hoàng Đế”, dưới triều Nguyễn những vật dụng như om nấu cơm riêng cho Vua đều được sản xuất từ Phước Tích và chỉ riêng Phước Tích mới có quyền sản xuất loại om tiến Vua này. Tuy vậy cũng rất nhiều người con của làng lại thành đạt qua con đường thi cử. 
Những sản phẩm gốm của làng
Trải qua thời gian, đă không c̣n nhiều ngôi nhà giữ được nét xưa, nhưng cái giá trị lịch sử, kiến trúc cũng như văn hóa của làng vẫn c̣n đó, thấp thoáng giữa những ngôi nhà cổ đă mọc lên những ngôi nhà bê tông vững chắc, nhưng không v́ vậy mà không gian cổ kính của làng. 
Thời gian...
Làng cổ Phước Tích vẫn ẩn chứa trong ḿnh những giá trị văn hóa không thể phai mờ dù thời gian có đi qua, tuy vậy từng ngày từng ngày thời gian đang hủy hoại dần những nếp nhà, lối sống văn minh đang len lỏi vào từng ngỏ ngách, nhưng không v́ đó mà làng có thể phục hồi, cho nên cần có một chính sách để có thể lưu giữ cho hậu thế những giá trị quư báu này.
Quốc học Huế - Dấu ấn thời gian
Huế không chỉ nổi tiếng với đền đài, lầu các, cung điện nguy nga mà c̣n nổi tiếng với một nền giáo dục khoa bảng, ngoài Văn Thánh Miếu được lập vào thời Gia Long, sau nay vào thời Thành Thái thêm một ngôi trường nữa được thành lập – trường Quốc Học. Trên nền của khu tập luyện thủy quân của triều Nguyễn, Pháp đă cho xây dựng trường, lúc đầu chỉ là ṭa nhà với mái tranh vách đất, sau đó đến đầu thế kỷ 20 đă cho xây dựng lại theo kiến Pháp.
 Ngày 23 – 10 – 1896, theo chỉ dụ của Vua Thành Thái và quyết định của toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ trường Quốc Học Huế được chính thức thành lập và do ông Ngô Đ́nh Khả làm trưởng giáo. Trường nằm bên bờ Nam của ḍng sông Hương đối diện với kinh thành ở phía bên kia, trước mặt trường là quảng trường bia chiến sĩ trận vong. Trong không gian xanh mát, những ṭa nhà mang đậm kiến trúc Pháp nương ḿnh với màu gạch đỏ tươi không phai theo thời gian, bước từ cổng vào là một con đường rợp bóng cây, dẫn đến tượng đài Nguyễn Sinh Cung, phía sau là ṭa nhà làm việc của trường, hai bên là những ṭa nhà riêng cho từng khối lớp, không gian kiến trúc đươc4 quy hoạch môt cách chặt chẽ và đối xứng xen kẽ những hàng cây cao niên, có những cây được trồng từ lúc mới xây trường. Những ṭa nhà cổ mái ngói, tường gạch này đă gắn bó với cái không gian cổ kính của Huế cả trăm năm nay như để chứng minh rằng Huế chính là vùng đất của khoa bảng, của những danh nhân, những con người xuất sắc của dân tộc. Lúc đầu trường có tên là trường Cao đẳng tiểu học hay thường gọi là Quốc Học (1896 – 1936), trường trung học Khải Định thời ḱ 1936 – 1954, sau đó là trường trung học Ngô Đ́nh Diệm (1955 – 1956), rồi trở lại với tên cũ từ 1956 cho đến nay. Ngay từ khi thành lập trường đă dạy cả giáo tŕnh tiếng Việt và tiếng Pháp, và là trường đệ nhất cấp đầu tiên ở Huế. Ban đầu trường chỉ dạy tới đệ tứ cấp (tức lớp 9 bây giờ), sau đó đến thời Khải Định trường mở rộng và dạy thêm từ đệ tam cấp đến đệ nhất cấp. Trong thời gian Pháp thuộc, trường là nơi lưu dấn của những con người xuất sắc, ưu tú của đất nước như: Nguyễn Sinh Cung hay Bác Hồ vĩ đại của chúng ta, dă theo học tại đây từ 1908 và đă tham gia nhiều hoạt động của sinh viên học sinh chống Pháp. Hiện nay trước sân trường có bức tượng của Bác như để tưởng niệm một người con vĩ đại của dân tộc đă theo học ở đây, đại tướng Vơ Nguyên Giáp, tổng bí thư đầu tiên của Việt Nam – Trần Phú… trong đó có cả Ngô Đ́nh Diệm – tổng thống của Việt Nam cộng ḥa. Ngoài ra trường c̣n gắng liền với các nhà thơ, nhà văn, bác sĩ, các nhạc sĩ: Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Nguyễn Lân, Tôn Thất Tùng, Tôn Thất Tiết… Không chỉ dừng lại ở đó, hiện nay trường vẫn đào tạo ra những lớp học sinh giỏi kế thừa truyền thống hiếu học của vùng đất thần kinh. Có những học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế góp phần làm rạng rỡ nền văn hiến nước nhà. Hiện nay trường Quốc Học Huế là một truong ba trường trung học phổ thông chất lượng cao của Việt Nam, đứng ngang vời trường Chuyên Lê Hồng Phong ở tp Hồ Chí Minh và trường Chu Văn An ở Hà Nội.
Lăng đăng Lăng Cô
Nằm trên cửa ngỏ vào Huế, Lăng Cô hiện ra như một bức tranh thủy mặc khổng lồ, từ trên đèo Hải Vân chúng ta đă có thể ngắm nh́n Lăng Cô, một nơi vừa có rừng vừa có biển, kỳ chúng ta sẽ khám phá một phần biển Lăng Cô, một trong những vịnh biển đẹp của Việt Nam và thế giới.

Cầu vượt Lăng Cô nh́n từ đèo Hải Vân
Trên con đường thiên lư Bắc Nam, nơi nào cũng có cảnh đẹp, và với một bờ biển dài hơn 3000km, Việt Nam sở hữu những băi biển và vịnh biển tuyệt đẹp, trong đó Lăng Cô là một điển h́nh. Lăng Cô theo dân gian truyền lại ngày xưa có tên là “Làng c̣” v́ có nhiều c̣, sau dần đọc trại đi thành Lăng Cô, cũng có một giả thuyết là người Pháp đọc trại từ “An Cư” mà ra. 
Đoàn tàu Bắc Nam
Núi cùng biển tạo nên vẻ đẹp huyền ảo
Sở hữu một vị trí địa lư thuận lợi, nằm sát biển với một dải cát trắng dài cả chục km, thực ra Lăng Cô nằm trên một bán đảo nhỏ có tên là An Cư, nằm giữ đầm Lập An và biển Đông. Lập An là một đầm kín v́ chỉ có một lối ra biển ở phía Nam, diện tích đầm khoảng 1600ha, đây là nơi tránh băo cho tàu bè và cũng là một vị trí thuận lợi để nuôi trồng thủy hải sải nước lợ, xung quanh đầm là những con suối nhỏ chảy ra từ các dăy núi sườn Nam dăy Trường Sơn, trên các dăy núi này là những cánh rừng nhiệt đới quanh năm xanh tốt, trong đó có bạch Mă là một trong những vườn quốc gia. 
Doi cát trắng mịn trải dài theo bờ biển
Chiều trên đầm Lập An
Nh́n từ đèo Hải Vân, Lăng Cô trải dài theo bờ biển với băi cát dài, trắng tinh, nước biển trong xanh một màu cộng với thời tiết không quá oi bức v́ nằm một bên là rừng núi, một bên là biển bao la, các khu resort đang được xây dựng, các tour tham quan đang được xúc tiến, cộng với cơ sở hạ tầng đang được đầu tư phát triển, cùng cảng nước sâu Chân Mây gần đó th́ không bao lâu Lăng Cô sẽ phát triển rất nhanh chóng. 
Núi non trùng điệp
Người dân của đầm
Lăng Cô nằm cách Huế 70km, cách Đà Nẵng 30km và nằm trong tam giác 3 khu di sản thế giới của Việt Nam là: cố đố Huế, đô thị cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn, điều này có nghĩa đây sẽ là một nơi tham quan nghĩ dưỡng rất tốt, nếu biết khai thác hợp lư cảnh quan và con ngươi th́ Lăng Cô có thể trở thành nơi thu hút khách du lịch rất đông, giản áp lực lên cho Huế và Đà Nẵng mà lại tăng thêm lượng khách. 
Đầm Lập An nh́n từ đèo Phú Gia
Vào ngày 06 – 06 – 2009 Lăng Cô đ̣n nhận danh hiệu “Lăng Cô – vịnh đẹp thế giới” do câu lạc bộ các vịnh đẹp thế giới b́nh chọn.
Hoài Cổ - Cầu ngái Thanh Toàn
Huế yên ả và thanh b́nh, bên ngoài một “kinh thành” cổ kính với cung điện vàng son lộng lẫy, th́ c̣n đó những miền quê luôn nép ḿnh bên nhưng ḍng sông cây cầu đơn sơ giản dị. Trong đó miền đất Thủy Thanh thuộc xă Thủy Thanh huyện Hương Thủy đă trăi hàng trăm năm vẫn giữ được cho ḿnh những “báu vật” mà thời gian không thể làm mất đi, trong đó có cầu ngói Thanh Toàn. Hôm nay loạt bài “Về với Huế thương” sẽ cùng đọc giả khám phá ngôi làng thanh b́nh và tham quan cây cầu ngói nổi tiếng này.
Đây là một trong những cây cầu gỗ có giá trị c̣n sót lại trên đất nước ta và được xếp hạn di tích lịch sử quốc gia vào ngày 14 - 7 - 1990 
Chiếc cầu gỗ với giá trị lịch sử to lớn
Không gian bên trong cầu
Cầu ngói Thành Toàn là một cây cầu gỗ được xây dựng từ cuối thế kỷ 18, vào năm 1776, người bỏ tiền ra xây dựng cây cầu này là bà Trần Thị Đạo, vợ một vị quan cao cấp trong triều đ́nh Vua Lê Hiển Tông, do không có con nên bà đă đi cầu tự bằng cách xây cầu.
Bảo tàng nhỏ
Cây cầu được xây dựng theo lối “thượng gia hạ kiều”, nghĩa là phía trên là nhà – có mái lợp ngói âm dương, phía dưới là cầu bắc qua sông. Nguyên xưa ầu có chiều dài gần 19m và rộng gần 6m, được xây dựng bằng gạch gỗ và ngói. Cầu có 7 gian, hai bên thành cầu là lan can và bục gỗ làm nơi nghĩ chân cho người dân và du khách lỡ bước nghĩ ngơi tránh mưa nắng, các trụ đỡ cầu ngày xưa được làm bằng gỗ lim rất to và cứng.

Trong ánh chiều tà, chiếc cầu soi bóng xuống ḍng sông
Chợ quê yên b́nh
Các cấu kiện kiến trúc trong cầu được chạm trỗ đơn giản nhưng vẫn toát lên nét cổ kính, ngói lợp là ngói âm dương tráng men xanh, các phù điêu đắp nổi bằng sành sứ, các bờ nóc, bờ đao, bờ quyết được trang trí h́nh long phụng trông rất sinh động và uy nghi. Trong quá tŕnh tôn tại trải hơn 200 năm cầu đă trải qua nhiều lần trùng tu cho nên hiện nay cầu đă bị ngắn và hẹp hơn so với lúc nguyên thủy. Các chân cầu gỗ lim cũng được thay thế bằng trụ xi măng để đảm bảo cầu đứng vững hơn, ngói được thay mới, các phù điêu được phục hồi. 
Từ trong cầu nh́n ra
Đặc biệt trên cầu có một án thờ nhỏ, là nơi thờ bài vị bà Trần thị Đạo, người có công xây dựng cầu này, và đây cũng là chỉ dụ của vua Khải Định, ông đă ban sắc phong cho Bà là “Dực Bảo Trung Hưng Linh Pḥ”. Hàng năm vào ngày giỗ của Bà dân làng thường tổ chức lễ rước bài vị để rồi sau đó là các hoạt động vui chơi sẽ bắt đầu như: đua thuyền, chơi tổ tôm, hội hè…
Án thờ bài vị bà Trần Thị Đạo

Bài thơ được treo phí trong cầu
Hiện nay vào mỗi mùa Festival diễn ra, cầu ngói là nơi du khách có thể tham quan, chiêm ngưỡng vẻ đẹp truyền thồng nơi đây, cũng như ḥa ḿnh vào cuộc sống của người dân ngay ngôi chợ cạnh cầu: chợ Cầu Ngói. Cạnh đó c̣n có một bảo tàng nhỏ, nơi trưng bày các nông cụ của người dân, cũng như kể lại quá tŕnh h́nh thành ngôi làng.
Lế tế Nam Giao Xưa - Vua ngự trị Trai cung Như đă có dịp giới thiệu đến quư độc giả về Đàn Nam Giao và lễ tế Nam Giao của triều Nguyễn xưa, kỳ này Sotaydulich.com sẽ cùng độc giả trở về với một lễ tế giao xưa với những khung h́nh xưa để chúng ta có thể h́nh dung lại lễ tế một thời.

Xa giá rời cung Trong bài “Đàn Nam Giao-linh thiêng cùng non sông”, chúng ta đă biết được vị trí và chức năng của đàn, cũng như vậy, lễ tế Nam Giao là cuộc lễ lớn nhất của triều đ́nh xưa, tùy theo từng triều Vua mà lễ tế được tổ chức dao động từ 1 đến 3 năm tế 1 lần. Tất cả những nơi đoàn ngự đạo của Vua đi qua từ hoàng cung đến đàn tế đều được sửa sang và trang hoàng, hương án được bày sẵn, tất cả những bô lăo đều phải ra nghênh đón khi kiệu Vua đi qua.

Đám rước qua Ngọ Môn
Phía ngoài quảng trường Ngọ Môn
Hàng năm khi vừa đón xuân sang, nhà vua lại chỉ dụ chọn ngày đẹp để tổ chức lễ tế cáo Trời Đất ở đàn Nma Giao, sau khi ngày tốt được chọn, trước lễ tế mười lăm ngày sự chuẩn bị bắt đầu, nhà Vua cho cái quan đại thần đến làm lễ tế cáo các vua tiền nhiệm ở các miếu thờ trong Đại Nội, các lăng tẩm tiên đế cũng như cho sửa sang và quét dọn sạch sẽ con đường từ hoàng cung đến đàn tế.
Xa giá rời kinh thành Trong thời gian trước lễ bảy ngày vua Trai tịnh trong một gian pḥng ở điện Cần Chánh, trong pḥng có đặt tượng đồng nhân, vào đêm ngày thứ 3 trước khi tế, Vua rời hoàng cung lên xa giá ngự về Nam Giao, có lẽ đoàn rước ngự đạo này đă làm nên sự hoành tráng cho lễ rước Vua. Đoàn rước gồm 3 đạo chia làm: tiền đạo, trung đạo và hậu đạo
Tiền đạo:
Là đoàn rước đi đầu gồm hai con voi được trang hoàng lộng lẫy, dàn thành hai hàng cùng với bốn người lính cầm gậy chỉ huy trang trí mao tiết, cầm cờ. Tiến theo sau là các vơ quan cao cấp: thống chưởng có hai chánh quản hai bên, hai bên lại có trồng và chiêng đều có lọng che cùng với nhạc cụ, mỗi một toán lính lại có một chinh đội trưởng chỉ huy.

Hai thớt voi dẫn đầu tiền đạo Phía sau Tổng chưởng là vơ quan mang truyền thanh đồng cùng với hàng lính cầm cờ Ngũ tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi đạo đều có một đội cờ như vậy, cờ Thổ Tinh luôn đi giữa, bên phải là Mộc Tinh và Kim Tinh, bên trái là Hỏa Tinh và Thủy Tinh.
Đại kỳ trong đoàn rước Theo thứ tự phía sau đoàn cầm cờ là đoàn nhạc công mang xập xơa, sau đoàn nhạc công là bốn mươi lính mang cờ cùng với một toán lính khác mang tràng phan. Tiếp đến là hàng lính mang tràng phang có khắc chữ và một hàng lính khác đi hai bên mang cờ có h́nh Tứ linh. Rồi phía sau là bộ cờ tượng trưng cho vũ trụ quan lúc bấy giờ: một lá cờ lớn tượng trưng cho sao Bắc Đẩu, hai mươi tám lính chia làm bốn hàng dàn hai bên cầm cờ Nhị Thập Bát Tú.
Toàn cảnh đoàn rước
Phía cuối của tiền đạo là một con voi cũng được phục trang lộng lẫy kéo theo lộ xa, có hai lính cầm đại phiến, có hai hàng kỵ binh hộ tống hai bên, theo sau có mười bốn lính đi bộ tháp tùng, tiếp đến có Long đ́nh xa gồm bốn ngựa kéo mỗi bên lại có bốn lính cầm đại phiến. Theo sau làm một toán lính mười hai người cùng với hai hàng lính mang cờ thêu các con vật như báo, hạc…có một đội nhạc tám người đi theo.
Trong bốn hàng lính mang cờ là những toán lính mang xen kẽ bàn Phúc Tửu là bàn đặt rượu thịt khi vua tế lễ, Long tiễn cùng với bốn lọng và hai mươi lính hầu, cuối cùng là Cửu Long Khúc Bỉnh tay cán uốn cong có hai lọng che và bốn người hầu.
Nguồn: wwww.sotaydulich.com
Bài viết khác:
|
|