Ký sự nhân vật
Tướng Đờ Cát- Chuyện bây giờ mới kể
QĐND - Thứ Năm, 07/05/2009, 6:33 (GMT+7)

Tướng Đờ Cát và bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ra hàng. (Sách: Điện Biên Phủ hình ảnh và sự kiện)

Sinh ngày 11-8-1902 tại Pa-ri, với cái tên dài dằng dặc Chistian Mari Fecdinand DelaCroix De Castries, chứng tỏ Đờ Cát (De Castries) thuộc dòng họ quý tộc trong giới thượng lưu Pháp. Dòng họ này đã sản sinh ra một trung tướng, bảy thiếu tướng, một đô đốc hải quân và bốn thống đốc. Được Phó tổng thống Mỹ khi đó là Ních-xơn gợi ý, tướng 4 sao Na-va, Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương đã bổ nhiệm Đờ Cát làm chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Y đã hai lần bị thương trong đại chiến thế giới lần thứ hai và một lần ở chiến trường Việt Nam năm 1951, bị gãy 2 chân. Theo báo chí Pháp, khi ra trận, viên chỉ huy này có điệu bộ rất oai phong với chiếc mũ ca lô đỏ trên đầu, khoác trên người chiếc khăn quàng sặc sỡ của trung đoàn Xpahi thứ ba giàu truyền thống, tay luôn cầm chiếc can (gậy) bằng gỗ tuyếc phít nhẵn bóng. Ngoài binh nghiệp, Đờ Cát với thân hình cao lớn cũng là nhà thể thao có hạng, hai lần vô địch thế giới về điền kinh: Vô địch nhảy cao năm 1933, vô địch nhảy xa năm 1935. Đờ Cát còn lái được cả máy bay dân dụng và là kỵ sĩ đua ngựa giỏi. Tuy bị thương ở Việt Nam, khi được hồi hương còn phải chống gậy, nhưng Đờ Cát vẫn giành giải nhất trong cuộc thi đua ngựa tháng 11-1952 ở Sô-muya (Pháp).

Ngày 8-12-1953, Đờ Cát bay lên Điện Biên Phủ chính thức nhận nhiệm vụ chỉ huy trưởng GÔN (Groupement Operadionnel du Nord-Ouest) tức binh đoàn chiến Tây Bắc, cũng là tên gọi tắt tiếng Pháp của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Có người đã khái quát 5 tháng ở cương vị này của Đờ Cát bằng một loạt chữ H theo trình tự thời gian như sau: Hoan hỉ, huênh hoang, hung hăng, hoảng hốt và hẩm hiu.

Từ “huênh hoang”, “hung hăng...”

Thời gian đầu được bổ nhiệm chỉ huy một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương cả về quân số và phương tiện chiến tranh mà đáng ra phải giao cho một cấp tướng, Đờ Cát rất lấy làm hoan hỉ vì được cấp trên tin cậy. Ông ta đã ra sức ngày đêm củng cố Điện Biên Phủ, biến tập đoàn cứ điểm này thành một pháo đài phòng ngự bất khả xâm phạm, thành một Véc-đoong (Vecdun)* của quân Pháp tại Việt Nam. Rất chủ quan về sự vững chắc kiên cố của tập đoàn cứ điểm ngày càng được tăng cường, Đờ Cát đã huênh hoang cho máy bay đi rải truyền đơn xuống các khu vực xung quanh Điện Biên Phủ như: “Gửi ngài Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nghe tin ngài mang nhiều sư đoàn đến đây để giao chiến và đưa quân của ngài vào ăn Tết trong Điện Biên Phủ, chúng tôi sẵn sàng đón tiếp ngài! Ký tên: Đại tá De Castries”. Ông ta còn dùng những lời khiêu khích quân ta qua làn sóng phát đi từ các máy thông tin quân sự đại loại: “Còn đợi gì nữa mà không tấn công đi, nếu các người không phải là những kẻ hèn nhát” hoặc “Chúng tôi đã sẵn sàng đợi các người bởi các người mạnh quá đấy, thì hãy cứ dấn thân đến đây…” v.v... và v.v...

Thái độ chủ quan, huênh hoang của Đờ Cát còn thể hiện khi phóng viên Ghi-lanh lo ngại về cái thế ở dưới thấp của lòng chảo Điện Biên Phủ, y đã nhún vai trả lời: “Được lắm, họ từ trên cao bắn xuống chúng tôi ư? Tôi sẽ đội cái mũ ca lô đỏ đứng giữa trời để họ trông rõ hơn mà bắn!”. Đờ Cát còn nói thêm với Ghi-lanh “Phải làm cho Việt Minh kéo nhau xuống thung lũng này. Nếu họ xuống, chúng tôi sẽ tóm được họ…”. Và một lần, Đờ Cát đã huênh hoang nói với Cô-nhi, Tư lệnh Bắc Bộ: “Việt Minh ư? Chúng tôi sẽ tiêu diệt ở ngay các sườn núi phía đông này khi chúng từ trên các đỉnh núi tiến xuống…”. Cho đến ngày 7-3-1954, tức là 6 ngày trước khi quân ta nổ súng mở màn chiến dịch, Na-va định đưa lên Điện Biên Phủ thêm 3 tiểu đoàn nữa để tăng cường phòng thủ, thì chính Đờ Cát trả lời: “Không cần, sẽ gay go nhưng chúng tôi giữ được”. (Trích sách “Thảm kịch Đông Dương” của Laniel Joseph, xuất bản năm 1957 và cuốn “Trận Điện Biên Phủ” của Roy Jules, xuất bản năm 1963).

Đến khi nổ ra chiến cuộc đợt 1, Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo đã bị tiêu diệt, Đờ Cát còn hung hăng dùng xe tăng, pháo cối, bộ binh phản kích quyết liệt, hòng lấy lại các vị trí đã mất, nhưng không thành…

... đến “hoảng hốt”, “hẩm hiu”

Đến giữa tháng 4-1954 khi đã mất sân bay Mường Thanh, khu vực chiếm đóng bị thu hẹp, vòng vây ngày một bị quân ta siết chặt thì Đờ Cát lại chuyển từ huênh hoang, hung hăng sang hãi hùng, hoảng hốt. Không còn cảnh Đờ Cát đội mũ ca lô đỏ đứng ngoài trời chĩa ống nhòm quan sát xung quanh nữa. Cũng không còn cảnh Đờ Cát đều đặn đi kiểm tra các cứ điểm nữa, suốt ngày ông ta ngồi lì trong hầm Sở chỉ huy mái cong chất đầy các bao cát dày tới 3 mét đủ sức chống đỡ đạn pháo 105mm. Ngày nào cũng vài lần, Đờ Cát gửi điện hoặc nói chuyện trực tiếp với tướng Cô-nhi về tình hình bi đát ở Điện Biên Phủ và khẩn thiết yêu cầu tăng viện cứu nguy.

Ngày 23-4-1954, Đại tá Đờ Cát được thăng hàm Thiếu tướng. Cùng đợt này còn có Trung tá Langlais và Trung tá Lalande cũng được lên hàm Đại tá. Tướng 3 sao Cô-nhi từ Hà Nội gửi điện cho Đờ Cát thông báo tin vui này và nói đã gửi lon mới và quà mừng lên Điện Biên Phủ. Nhưng chờ mãi chẳng thấy lon và quà đâu, Đờ Cát đành sai lính cắt vỏ đồ hộp sắt tây làm cho ông ta bộ lon cấp tướng 1 sao đeo tạm, thay cho lon đại tá chỉ có 6 vạch vàng.

Vậy thì lon tướng chính hiệu và quà mừng của Đờ Cát đi đâu? Theo sách “Điện Biên Phủ những nẻo đường” của S.Milan thì chính bọn lính lê dương thuộc Đại đội 4 đóng tại Êlian 1 (Đồi C1) đã nhặt được kiện hàng từ máy bay ném xuống đề đích danh “Gửi tận tay Thiếu tướng De Castries”. Tò mò mở ra xem thấy toàn sâm banh Mác-tin, thuốc lá thơm Lucky và bánh kẹo ngon, nên đang cơn thiếu đói, bọn lính này quên cả kỷ luật nhà binh, đã lén gọi nhau đến chén sạch, còn lon thiếu tướng của Đờ Cát chúng mang đi chôn để phi tang. Thế là Đờ Cát mất cả lon mới và quà mừng.

Chưa hết, xế chiều 27-4-1954, chỉ sau 4 hôm Đờ Cát được thăng cấp, một đơn vị của ta đang bao vây ở phía tả ngạn sông Nậm Rốm đã đoạt được một chiếc dù màu đỏ đeo phía dưới chiếc hòm sắt, mở ra, bên trong toàn những gói quà hảo hạng như thuốc lá Philip, rượu Uýt-xki, xúc xích, bít tết bò, mùi xoa, áo may ô và cả hộp dao cạo râu Gilette cùng một lá thư viết trên giấy pơ-luya hồng thơm nức nước hoa của vợ Đờ Cát từ Hà Nội gửi cho chồng kèm theo quà mừng Đờ Cát mới được lên lon.

Kể lại những chuyện này để thấy, số phận của Đờ Cát thật hẩm hiu. Bị đẩy vào nơi tử địa, đến lúc sắp thua mới được trên chiếu cố cho lên lon, nhưng việc này có lẽ chỉ nhằm khích lệ tinh thần tử thủ của Đờ Cát và binh sĩ dưới quyền nhiều hơn là vì công trạng của ông ta. Được thăng cấp mà chẳng thấy lon, thấy quà đâu, hóa ra đã bị lính thuộc quyền “nẫng tay trên” mất. Đến quà mừng và thư riêng của vợ gửi cho cũng không nhận được vì rơi vào tay đối phương. Đeo lon tướng được đúng 2 tuần, thì Đờ Cát phải vào trại tù binh. Rõ ràng trong hàng ngũ các tướng lĩnh của quân đội Pháp tại Đông Dương, Đờ Cát thuộc loại “họa vô đơn chí”, hẩm hiu nhất.

THẾ TRƯỜNG - chiến sĩ Điện Biên Phủ

(Tổng hợp theo báo chí nước ngoài)

Vecdun (Véc-đoong) là một tỉnh của Pháp nằm trên bờ sông Meuse (Mơ-dơ). Năm 1916, quân Pháp đã phòng ngự rất chắc chắn ở đây và đã đánh thắng quân Đức trong thế chiến thứ nhất (1914-1918).

Họ và tên:
Email:
Tiêu đề:
Mã xác nhận:

Nội dung
Gõ tiếng việt :    Off   Telex   VNI   VIQR
Các tin khác