Di tích cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 và đền thờ Đội Cấn(06/09/2012 08:00 AM)
Đây là một trong những di tích lịch sử văn hóa của thành phố Thái Nguyên, cùng với các di tích đền Xương Rồng, chùa Phủ Liễn, Bia tưởng niệm Thanh niên xung phong…
Khu di
tích cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917 gồm có địa điểm dinh Công Sứ, trại
lính Khố Xanh, nhà lao Thái Nguyên, phòng tuyến Gia Sàng và đền thờ Đội Cấn.
Binh
lính ở trại lính Khố Xanh đóng tại thị xã Thái Nguyên nổi dậy khởi nghĩa đêm 30
rạng sáng 31/8/1917, nghĩa quân đánh chiếm dinh Công Sứ Pháp, phá đề lao, giải
phóng tù nhân, chiếm kho bạc của thực dân Pháp, làm chủ thị xã Thái Nguyên
thành lập chính quyền mới với quốc hiệu là “Đại Hùng”.
Thái
Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng, tiếp giáp giữa miền đồng bằng với vùng
trung du, miền núi có đường giao thông nối liền giữa các tỉnh Bắc Kạn, Cao
Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang…Có truyền thống chống giặc ngoại xâm,
kiên cường, bất khuất. Thực dân Pháp đã cho xây dựng nhiều dinh, lũy, đồn bốt,
trại lính tây, lính ta, nhà tù, để đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân địa
phương. Dưới ách cai trị của thực dân, phong kiến, người dân bị áp bức bóc lột
cùng cực phải đi phu, đi lính cho Pháp. Đội Cấn lãnh đạo binh lính khởi nghĩa
với chí hướng “Binh lính người Việt Nam giành độc lập cho Tổ quốc”.
Đền thời Đội Cấn tại phường
Hoàng Văn Thụ, thành phố Thái Nguyên
Trịnh
Văn Cấn (Đội Cấn) tên thật là Trịnh Văn Đạt, sinh năm 1881 tại làng Yên Nhiên
(thường gọi là làng Nhan) xã Vũ Di huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay. Ông
xuất thân từ một gia đình lao động ở nông thôn. Dư âm của phong trào Cần Vương
và cảnh sống khổ ải, đọa đầy của nhân dân ta đã gieo vào đầu óc của người thanh
niên nông dân lòng căm thù. Để cứu nước, Trịnh Văn Cấn ra ứng mộ lính tập ở
Vĩnh Yên, nuôi hy vọng chờ thời cơ “dùng gậy ông, đập lưng ông”. Từ năm 1910,
Đội Cấn đóng ở Thái Nguyên. Trong cuộc đời lính Khố Xanh, nhiều lần Đội Cấn bị
bắt đi càn quét tiêu diệt nghĩa quân Tam Kỳ, Đề Thám, trái với lương tâm của
Đội Cấn. Đến khi gặp Lương Ngọc Quyến tại nhà lao TháiNguyên hai người đã kết bạn tâm phúc và cùng
chung chí lớn giết giặc cứu nước.
Lương
Ngọc Quyến còn gọi là Lương Lập Nham (tức Ba Quyến) là con trai cụ Lương Văn
Can, người cùng với Phan Bội Châu sáng lập phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục
1908. Lương Ngọc Quyến sang Nhật năm 1905. Được cụ Phan Bội Châu cho học trường
quân sự Chấn Vũ của Nhật và tốt nghiệp sau 2 năm học tập. Năm 1908, phong trào
Đông Du tan giã, ông trở về Trung Quốc và lại vào học trường Quân nhu Quảng
Đông và trường sỹ quan Bắc Kinh. Năm 1912, được cử làm Ủy viên quân vụ trong bộ
chấp hành của Việt Nam Quang Phục Hội. Năm 1914, ông trở về nước vận động khởi
nghĩa. Bị lộ, ông phải trốn sang Hương Cảng (Trung Quốc) và bị mật thám Anh bắt
giao cho Pháp. Chúng định khép tội ông tử hình nhưng không đủ chứng cứ nên chủ
trương đối sử tàn bạo cho Lương Ngọc Quyến chết mòn trong nhà lao. Từ tòa án
quân sự Cao Bằng, ông bị giải về Hỏa Lò rồi về Đề lao Sơn Tây, Đề lao Phú Thọ
và cuối cùng là ở Đề lao Thái Nguyên. Tại đây Lương Ngọc Quyến gặp Trịnh Văn
Cấn, cuộc khởi nghĩa bắt đầu được chuẩn bị.
Ban chỉ
huy khởi nghĩa được thành lập gồm: Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến, Đội Giá, Đội
Xuyên, Đội Nam…quyết định khởi sự vào đêm 30 rạng ngày 31 tháng 8 năm 1917.
Cổng trại lính khố xanh tỉnh
Thái Nguyên xây năm 1913, nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa năm 1917
Trại lính Khố Xanh
là nơi tập trung binh lính người Việt trong đó có Trịnh Văn Cấn. Trước khi cuộc
khởi nghĩa nổ ra, trại lính khố xanh đã trở thành “Đại bản doanh” thành lập ban
chỉ huy cuộc khởi nghĩa cũng là nơi Đội Cấn ban lệnh thổi kèn, tập hợp nghĩa
quân yêu nước gồm 311 người rồi tuyên bố khởi nghĩa.
Đội Cấn
được phong là “Thái Nguyên Quang phục Quân Đại Đô Đốc” và ông Lương Ngọc Quyến
là “Quân Sư”. Từ đây nghĩa quân tỏa đi đánh chiếm dinh Công sứ, nhà lao Thái
Nguyên, tòa án, kho bạc, kho vũ khí. Buổi sáng, hôm sau ngày khởi nghĩa, nhân
dân Thái Nguyên đã thấy cờ “Ngũ Tinh” treo trên nóc trại, ngoài cổng dăng ngang
tấm vải đề 4 chữ “Nam Binh Phục Quốc”. Cũng tại nơi đây, chủ tướng Trịnh Văn
Cấn cùng các quân sĩ đã phát Hịch tuyên bố “Thái Nguyên độc lập” và kêu gọi
toàn dân giết giặc thù cứu nước. Nhiều công nhân mỏ và người dân thị xã Thái
Nguyên và vùng phụ cận đã xung vào hàng ngũ nghĩa quân đánh Pháp.
Đề lao
Thái Nguyên nơi giam giữ những tù án nặng, trong đó có những người yêu nước là
thủ hạ của Đề Thám như: Ba Chi, Ba Quẹo, Ba Lâm, Tú Hồi Xuân, Nguyễn Gia Cầu,
Ba Nho…
Trịnh
Văn Cấn phái Đội Giá cùng với 30 nghĩa quân đi phá đề lao, giải phóng tù nhân.
Tại đây viên giám ngục, người Pháp tên là LOEN đã bị tiêu diệt, Đội Giá ra lệnh
phá nhà lao, chặt xiềng xích thả khoảng 200 tù nhân bổ sung vào đội Quang Phục
Quân. Lương Ngọc Quyến bị giam cùm lâu ngày, liệt nửa người không đi được. Đội
Giá sai lính cõng ông sang bên trại lính nơi có Đội Cấn đang chờ sẵn để cùng
nhau lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.
Dinh
Công Sứ được xây dựng năm 1896-1897
Dinh
Công sứ Pháp: là tòa nhà xây kiên cố đại diện cho quyền lực thống trị cao nhất
của thực dân Pháp ở thị xã Thái Nguyên do công sứ DARLES, một tên được liệt vào
hàng gian ác nhất trong các công sứ thời bấy giờ. Ngay sau khi phát lệnh khởi
nghĩa, Đội Cấn cho quân lính chiếm dinh Công sứ Pháp. Công sứ DARLES và phó sứ
TUSLE đều đi nghỉ mát ở Đồ Sơn – Hải Phòng nên thoát chết.
Phòng
tuyến Gia Sàng: Vị trí trọng yếu của quân khởi nghĩa nơi diễn ra trận đánh ác
liệt với quân Pháp đánh chiếm tỉnh lỵ Thái Nguyên. Vào hồi 6 giờ sáng ngày
02/9/1917 quân Pháp mở cuộc tiến công vào Phòng tuyến Gia Sàng. Mặc dầu trang
bị và quân số kẻ địch mạnh hơn nhiều lần quân khởi nghĩa chiến đấu dũng cảm,
kịch chiến diễn ra một ngày liền. Kết quả 107 tên giặc bị giết, 17 tên bị
thương. Giám binh MACSTINI bị giết tại trận…Do địch có hỏa lực mạnh và quân
đông gấp bội nghĩa quân phải rút lui khỏi phòng tuyến Gia Sàng và tỉnh lỵ Thái
Nguyên, vừa chiến đấu vừa hành quân qua các huyện, tỉnh trung du gần 6 tháng.
Sau khi
cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên thất bại chủ tướng Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc
Quyến hy sinh anh dũng. Tưởng nhớ, khâm phục lòng yêu nước của 2 ông và quân
sĩ, nhân dân đã dựng đền thờ trên một quả đồi ở trung tâm tỉnh lỵ Thái Nguyên
gọi là đền thờ Đội Cấn. Một số địa điểm di tích khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 và
đền thờ Đội Cấn thành phố Thái Nguyên được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa
quốc gia tại quyết định số 2619/QĐ-BT ngày 27/8/1997.
Trích bài viết của tác giả Vi Văn Biên
trong cuốn sách “Di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh Thái Nguyên”
Nguồn: thainguyen.gov.vn
Tác giả: Phòng Biên tập - Trị sự (sưu tầm và biên tập)