HÀ NỘI VỚI
PHỐ “VŨ PHẠM HÀM” & PHỐ “NGUYỄN KHUYẾN”

Tam nguyên Thám hoa Vũ Phạm Hàm (1864 – 1906)

Vũ Phạm Hàm đã đậu Nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi triều nhà Nguyễn (lúc ông 29 tuổi). Trong lịch sử Việt Nam chỉ có hai Tam nguyên là Đệ nhất giáp, gồm có Lê Quý Đôn (triều Hậu Lê) và Vũ Phạm Hàm.

Tiểu sử

Vũ Phạm Hàm sinh năm Giáp Tý (1864), quê ở làng Đôn Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông(nay là Hà Nội) tự Mộng Hải, Mộng Hồ, hiệu Thư Trì. Ông thuộc Biệt chi Vũ-Phạm (Phân chi 33) thuộc dòng họ PHẠM-VŨ, Đôn Thư, Thanh Oai, Hà Nội.

Năm 21 tuổi, ông đỗ đầu kì thi Hương (Giải nguyên) khoa thi Giáp Thân đời vua Kiến Phúc (1884). Đến khoa thi Hội năm Nhâm Thìn, Thành Thái thứ tư (1892) ông đỗ thủ khoa ( Hội nguyên ). Do vậy tờ Đồng văn nhật báo đã đăng: Vũ quân kỳ khôi tinh giáng thế, nghĩa là ông Vũ phải chăng là sao khôi giáng thế. Dự thi Đình cùng năm đó, ông lại đỗ thủ khoa (Đình nguyên), giành học vị Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh (tức Thám hoa) nên thường được gọi là Tam nguyên Thám hoa hay Thám Hàm. Khoa này dự vào hàng Tam khôi (Đệ nhất giáp) không có Trạng nguyên, Bảng nhãn, chỉ có Thám hoa. Cũng xin nhắc lại là từ triều vua Gia Long nhà Nguyễn đã không lấy đỗ Trạng nguyên tại kỳ thi Đình. Khoa thi này lấy đỗ 9 tiến sĩ, 7 phó bảng, trong đó có Nguyễn Thượng Hiền đỗ Đệ nhị giáp thân (Hoàng giáp) và Chu Mạnh Trinh đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân.

Vũ Phạm Hàm đỗ Đệ nhất giáp Tam nguyên lúc 29 tuổi. Triều nhà Nguyễn có ba Tam nguyên: Vị Xuyên Trần Bích San, Yên Đổ Nguyễn Khuyến và ông. Nhưng Vị Xuyên và Yên Đổ tiên sinh đỗ Đệ nhị giáp (Hoàng giáp). Toàn thể lịch sử Việt Nam chỉ có Vũ Phạm Hàm và Lê Quý Đôn (triều Hậu Lê) là đỗ Đệ nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi đó. Ông cũng là vị Tam khôi cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.

Ông làm Giáo thụ rồi thăng Đốc học Hà Nội sung Đồng văn quán (báo Đồng Văn), lên đến Án sát các tỉnh Hưng Hóa, Hải Dương, sau đó cáo quan về trí sĩ ở quê và dạy học cho đến lúc mất.

Khi ông qua đời (1906), khu mộ ông được đặt tại làng Đôn Thư, huyện Thanh Oai, Hà Nội.

Tác Phẩm

Tác phẩm của ông chủ yếu được viết bằng chữ Hán, song cũng có nhiều tập văn thơ phú viết bằng chữ Nôm. Trong thư viện Khoa học Trung ương còn lưu trữ một số sách của ông, được thống kê như sau[2]:

- Kinh Sử Thi Tập (văn, sử), ký hiệu A.133

- Tập Đường Thuật Hoài (văn), A.2354

- Thám Hoa Văn Tập (văn), A.528

- Hưng Hóa Phú (văn, sử), A.1055

- Thư Trì Thi Tập (văn), tập thơ chữ Hán còn bản chép tay

- Cầu Đơ Tỉnh nhân đinh phong tục tổng sách (địa), A.173

- Đề từ một số sách như: Quốc triều Khoa bảng lục (tự), A.37 và Lễ trai văn tập (tự), A.1020

Văn thơ của ông chưa được phổ biến và ngày càng có ít người biết vì sách được lưu giữ trong thư viện đều là chữ Nôm và chữ Hán. Những bài đã được phiên dịch ra hoặc phiên âm nhiều người biết như bài phú Hương Sơn phong cảnh, bài Vịnh con cua, bài Đề ở lăng Đinh Tiên Hoàng trên núi Mã Yên - Mã Yên Sơn Lăng và khoảng hơn một chục bài vịnh về Hồ Tây và Hà Nội chỉ là một phần rất nhỏ trong toàn tập thơ văn của ông.

Hoàn cảnh lịch sử:

Tác phẩm chữ Hán của ông nói lên lòng chán ghét danh lợi, mơ ước được sống thanh nhàn, thể hiện lòng gắn bó với cảnh vật đất nước và tỏ lòng kính phục đối với một số người đã hy sinh vì đất nước...”.Về chữ Nôm, ông chỉ có một bài ‘Hương Sơn phong cảnh’, ứng tác ngay trên đường đi vãng cảnh Hương Tích cùng với bè bạn.

Đôi câu đối nổi tiếng:

Ông có đôi câu đối đề cao anh hùng khí phách của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, đề trước cửa Đền Kiếp Bạc, Hải Dương và sau cũng được khắc tại Đền thờ Trần Hưng Đạo , Tp.HCM.

Đền Kiếp Bạc

Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí

Lục Đầu vô thủy bất thu thanh

Tạm dịch nghĩa là:

Núi Vạn Kiếp đâu đâu cũng có tiếng gươm đao

Sông Lục Đầu không ngọn sóng nào không có tiếng trống trận

Chữ thu trong vế đối thứ hai của ông đã gây ra tranh luận từ nhiều năm sau này về ẩn ý của chữ đó, tuy nhiên, Viện Hán Nôm năm 1998 thông báo chính thức:

Từ “ Thu thanh” trong câu đối thì “Thu” là mùa thu, với nghĩa hàm xúc là để chỉ ‘chiến tranh và đau thương tang tóc”, như các vị Trần Thái Tông, Trương Hán Siêu, Nguyễn Du đã ghi trong thơ của mình. “Thu thanh” là tiếng mùa thu trừu tượng, nếu đối với “Kiếm khí” (hơi kiếm) cũng là trừu tượng, là những dạng phi vật chất mà ta chỉ có thể cảm nhận được bằng linh cảm là rất hợp, rất chỉnh”.

- Trong thời gian phụ trách báo Đồng Văn (Đồng Văn Quán), bài phú Lê triều tiến sỹ đề danh bi của ông được các báo Trung Hoa thời đó ngợi khen là văn chương lỗi lạc và uyên bác. Đây là tờ báo đầu tiên ở Bắc Kỳ lúc ấy.

- Bia Tiến sỹ khắc tên ông được đặt tại Văn Thánh, Huế.

Giai thoại chứng tỏ lòng yêu nước của Vũ Phạm Hàm

Giai thoại 1:

Thời ấy ở Hà Nam có một ông công sứ Pháp tuổi còn trẻ mà đã giỏi tiếng Việt, không chỉ giỏi tiếng Việt, ông ta còn đọc được cả bia chữ Hán, thơ văn chữ Hán. Vài năm một lần các quan chức Pháp sang cai trị ở ta đều phải dự một lần khảo hạch tiếng Việt, ai qua được thì được đặc cách lên lương sớm. Cái mẹo này khuyến khích người ta chịu khó học, nhiều ông đâm thua thiệt nhưng lắm ông mừng vì lương có cơ lên vùn vụt. Như viên công sứ Hà Nam chẳng hạn. Nhưng giỏi quá dễ kiêu, một hôm ông ta thở dài bảo, không biết năm nay tìm ai để khảo giám tôi đây. Vừa hay cũng là dịp có cụ Vũ Phạm Hàm từ bên Hải Dương thuyên chuyển về đất Hà Nam làm đốc học. Chuyện ấy đến tai ông cụ. Cuối năm ông cụ được mời đứng ra làm người hỏi thi tiếng Việt cho quan công sứ, gặp nhau ông cụ chỉ nói, quan lớn là người nổi tiếng, khắp Bắc Kỳ này ai chả biết học lực tiếng Việt của quan lớn, bây giờ tôi không đòi quan lớn phải dùng đến bút mực làm gì, chúng ta chỉ cần nói chuyện, tôi sẽ hỏi quan lớn một câu ngắn, quan lớn cũng trả lời bằng một câu ngắn thế là đủ, mà tôi cấm quan lớn không được hỏi lại, hỏi lại là quan lớn trượt, quan lớn có bằng lòng không? Quan lớn nghe thế thì bằng lòng quá, ông già này xem ra rất biết điều. ông già dõng dạc hỏi:

- Xin quan lớn cho biết trong tiếng Việt em gái mẹ gọi là gì?

-Thì trong tiếng Việt em gái mẹ gọi là dì.

Ông công sứ trả lời tắp lự (ngay lập tức). Nhưng cũng vì là người giỏi tiếng Việt cho nên chỉ vừa thoáng thấy cụ Hàm cười là ông ta chợt vỡ lẽ, mình trượt mất rồi, ông già này bẫy mình mất rồi. Câu trả lời cũng có thể xem là một câu hỏi lại. Về tới dinh, nhìn thấy bà đầm thì ông hoảng thật sự, với ông miếng đòn này đâu có sá gì, nhưng với bà ấy thì lại là chuyện trời sập, còn ghê gớm hơn cả một cuộc chiến tranh.

Bà công sứ vội vã tìm đến nhà riêng cụ Đốc học. Đợi bà lau nước mắt kể lể xong ông cụ mới chậm rãi bảo, phải để ông nhà hỏng thi tôi cũng lấy làm tiếc như bà, có một người Pháp yêu tiếng Việt như ông nhà sao tôi lại không quý. Giờ tôi ra cho bà một điều kiện nho nhỏ, bà làm được thì xem như ông nhà đỗ. Tôi về đây nghe dân tình xì xào là mỗi lần bà ra chợ, qua dãy hàng bún mắm tôm bà đều bịt mũi nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu, có phải vậy không? Vậy bà làm sao thì làm. Bà công sứ vui vẻ ra ngay chợ, vui vẻ sà vào hàng bún mắm tôm, chuyện trò rôm rả thân tình. Rồi bà yêu cầu ông chồng phải đến mời bằng được cụ Đốc học tới thăm nhà mình một buổi. Ông cụ nhận lời. Vợ chồng Công sứ hôm ấy mời ông cụ ở lại cùng họ dùng bữa trưa, chỉ có bún lá và mắm tôm. Suốt bữa bà đầm lấy làm sung sướng với món đặc sản đó. Năm ấy tai qua nạn khỏi, quan Công sứ vẫn đỗ, vẫn lên lương như thường. Chẳng qua cũng chỉ là một sự nhắc nhở nhẹ nhau vậy thôi.

Giai thoại 2:

Khi ở Hải Dương, viên Công sứ Pháp hồi ấy thích chơi hoành phi, câu đối, vốn biết Thám hoa Vũ Phạm Hàm là bậc danh nho mới xin một bức làm kỷ niệm. Ông cho hắn bốn chữ “Ôn kỳ như ngọc”. Chữ Kinh thi, thiên Tần phong: ngôn niệm quân tử ôn kỳ như ngọc. Ý nói: mến người quân tử ôn hòa như ngọc quý. Chủ tâm ông Thám cốt lấy điển Tần phong là thơ khen người rợ phương Tây để tặng công sứ người Pháp. Lập ý thật thâm thúy, ám chỉ Pháp chẳng qua là mọi rợ Tây Nhung khi xưa bên Tàu. Công sứ Pháp tất nhiên là chẳng hiểu gì, trịnh trọng treo bức hoành giữa nhà khách.

PHỐ VŨ PHẠM HÀM (hai lần được đặt tên phố)

- Tại Hà Nội, tên của ông đã từng được đặt cho một con phố trong giai đoạn 1945 - 1964 (thời Pháp thuộc gọi là Voie 104), thuộc Khu 1, gần Ngũ Xã, nay là phố Lạc Chính, Hà Nội. Tại Sài Gòn, từ thời Pháp thuộc đến năm 1975, tên của ông cũng được đặt cho một con phố nằm dọc Kênh Ngang số 3 nối từ Kênh Đôi sang Rạch Lò Gốm (thuộc quận 6), nay là phố Bình Đức, Tp. Hồ Chí Minh. Cả hai con đường trên đầu bị dẹp bỏ sau năm1975 mà không biết lý do. Dư luận cho rằng có lẽ lý do là quan đại thần Hoàng Cao Khải, (tay chân của Pháp, người đã chiêu dụ Phan Đình Phùng đầu hàng Pháp, nhưng bất thành) đã viết nhiều bài ca ngợi vị quan Tam nguyên trẻ tuổi Vũ Phạm Hàm, cùng làm quan đương thời, nên có nhiều nghi ngờ thái độ của ông, nhưng tới nay, đó chỉ là ngộ nhận vì qua thơ văn và các giai thoại, ông đã tỏ rõ tinh thần yêu nước của mình. Hy vọng Tp HCM cũng sẽ xét lại và phục hồi đường “Vũ Phạm Hàm” như trước năm 1975.

- Ngày 14/7/2010, HĐND Thành phố Hà Nội thông qua việc đổi tên phố và đặt tên phố mới ở một số quận, huyện. Trong đó, đáng lưu ý là việc thông qua đổi tên đường Trung Yên 1 (thuộc khu đô thị Trung Yên - do Ban quản lý khu đô thị tự đặt) thành Phố Vũ Phạm Hàm.

Phố Vũ Phạm Hàm (dài 750 mét, rộng 30m, có hai đoạn bị cắt bởi ngã tư) thuộc phường Trung Hòa và Yên Hòa, vốn được đề xuất đặt tên gồm hai danh nhân là Nguyễn Trung Ngạn và Vũ Phạm Hàm.

Theo Nghị quyết số 08/2010/NQ-HĐND của HĐND Thành phố Hà Nội, Phố Vũ Phạm Hàm kéo dài từ ngã tư giao với phố Nguyễn Khang, nối với cầu 361 ra đường Láng đến ngã tư giao với đường Trung Kính, nối với đường vào khu đô thị Nam Trung Yên đi ra Phạm Hùng, quận Cầu Giấy.

Tam nguyên Nguyễn Khuyến (1835 – 1909)

Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam Ninh nay là huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam[1]. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ.

Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi, thường gọi là Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan), nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạc.

Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau ( 1865), ông trượt thi Hội nên phẫn chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp) nên chỉ đỗ Nhị giáp Tam nguyên. Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.

Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây.

Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.

Hoàn cảnh lịch sử

Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.

Lúc này Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1882, quân Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, họ tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.

Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.

Tác phẩm

Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ,"Bạn đến chơi nhà", và 3 bài thơ hay về thu: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.

Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau . Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ngược lại, ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó xác định vì nó rất điêu luyện.

Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuỗm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công.

PHỐ “NGUYỄN KHUYẾN” (tên cũ là Sinh Từ)

Hình ảnh phố Sinh Từ trong văn học - Phố của những câu chuyện tình lãng mạn

Phố Sinh Từ, đã xuất hiện trong một số các tác phẩm văn học nghệ thuật:

- Phố Sinh Từ là bối cảnh cho câu chuyện Tú Uyên gặp Giáng Kiều trong truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ. Chàng học trò nghèo Trần Tú Uyên một hôm đi xem hội làm chay ở chùa Ngọc-Hồ ở cuối phố Sinh Từ:

Ngọc Hồ có đám chay tăng,

Nức nô cảnh Phật, tưng bừng hội xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngổn ngang mã tích xa trần thiếu ai.

Chiều đến, sắp về, Tú Uyên nhặt được một chiếc “lá hồng” có đề một câu thơ. Chàng định họa lại thì thấy một thiếu nữ tuyệt đẹp trước cửa tam quan, liền đi theo, nhưng đình Quảng Văn thì thiếu nữ bỗng biến mất.

- Cũng tại chùa Ngọc Hồ này, vua Lê Thánh Tông, trong một lần du ngoạn, đã bắt gặp và xướng họa thơ ca với một nàng tiên. Vua rất phục tài năng của nàng và mời nàng về cung. Nhưng đến cửa Đại Hưng thì nàng biến mất. Vua cho là tiên giáng trần, dựng lầu Vọng Tiên ở đó để tưởng nhớ. (tức là chùa Bà Ngô, một ngôi chùa cổ có niên đại từ thời vua Lý Nhân Tông)

- Trong “Văn thi Sĩ tiền chiến”, Nguyễn Vỹ cho biết, phố Sinh Từ là nơi chứng kiến mối tình lãng mạn giữa Tuấn Trình và cô Trần Thị Khánh. T.T.Kh chính là Thâm Tâm, là tác giả của bài thơ nổi tiếng " Hai sắc hoa ti-gôn" và mấy bài thơ nữa cũng ghi tên T.T.Kh: Bài thơ thứ nhất, Bài thơ đan áo, Bài thơ cuối cùng… T.T.Kh tên viết tắt của người yêu của ông, học ở trường Sinh Từ (tên chính thức lúc đó là trường Pierre Pasquier, nay là trường THCS Lý Thường Kiệt) và nhà cũng ở phố Sinh Từ. Tuấn Trình lấy bút hiệu “Thâm Tâm” cũng chính là đã xuất phát từ cuộc tình này, ông cho cô Khánh biết: “Hình ảnh của em, anh ghi vào Thâm Tâm anh”. Thâm Tâm đã nổi tiếng với bài thơ “Tống Biệt Hành” trước đó, trong khi cô Khánh không biết làm thơ. Nghi vấn suốt hơn 70 năm qua rất nhiều, nhưng xem xét kỹ, cân nhắc, so sánh lại thì T.T.Kh là chính Thâm Tâm.

- Điều thú vị là lúc sinh thời, nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng đã từng đi qua con phố này và cảm tác viết bài thơ chữ Hán "Quá quận công Nguyễn Hữu Độ sinh từ hữu cảm" (Cảm nghĩ lúc qua Sinh Từ quận công Nguyễn Hữu Độ) – “Sinh Từ” có nghĩa là Đền thờ người đương sống mà có sự nghiệp lớn.

- Nhà văn Thạch Lam từng nhắc đến phố Sinh Từ trong tác phẩm "Hà Nội băm sáu phố phường".

- Trần Dần viết về phố Sinh Từ: Trong bài thơ nổi tiếng "Nhất định thắng", một thi phẩm được xem là mở đầu cho phong trào Nhân văn Giai phẩm đăng trên "Giai phẩm mùa xuân" năm 1956.

- Tùy bút "Phố Sinh Từ" xuất bản năm 1968 của nhà văn Hồ Hữu Tường.

- Trong bài thơ "Yên lặng ban mai", nhà thơ Hoàng Anh Tuấn cũng viết về phố Sinh Từ.

TÓM TẮT

- Sách “Quốc triều đăng khoa lục (triều Nguyễn)” của Cao Xuân Dục cho biết: “Trong chánh bảng có 3 viên trúng Tam nguyên: Vũ Phạm Hàm trúng Nhất giáp Thám hoa, Nguyễn Khuyến và Trần Bích San trúng Nhị giáp”. Cao Xuân Dục xếp tên Vũ Phạm Hàm lên trên hai vị Tam nguyên còn lại, nói về phép chép sử là sai, vì cụ Thám Hàm đỗ năm 1892, sau hai cụ Nguyễn Khuyến và Trần Bích San, nhưng trong trường hợp này lại là sự cố ý biểu dương người đỗ cao. Trần Bích San đỗ Tam nguyên Nhị giáp khoa Ất sửu (1865), còn Nguyễn Khuyến đỗ Tam nguyên Nhị giáp khoa Tân mùi (1871).

- Toàn thể lịch sử khoa bảng Việt Nam chỉ có Vũ Phạm Hàm và Lê Quý Đôn (triều Hậu Lê) là đỗ Đệ nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi đó. - Giáo sư sử học Lê Lan đã nêu một so sánh như sau: “Nếu trí nhớ thần đồng của Tam nguyên Bảng nhãn Lê Quý Đôn thời Lê Trung hưng là có một, thì trí nhớ tuyệt vời của Tam nguyên Thám hoa Vũ Phạm Hàm thời Nguyễn có thể kể là thú hai!”.

Ông cũng là vị Tam khôi cuối cùng trong lịch sử khoa bảng Việt Nam.

- Để ghi công lao của Nhất giáp Tam nguyên Vũ Phạm Hàm và Nhị giáp Tam nguyên Nguyễn Khuyến, thủ đô Hà Nội đã vinh danh hai vị Tam nguyên bằng cách đặt tên Phố “Vũ Phạm Hàm” tọa lạc tại quận Cầu Giấy và Phố “Nguyễn Khuyến” nằm trong quận Đống Đa.

___________________________________

(Tham khảo: Sách báo và sách lịch sử về Tam nguyên Vũ Phạm Hàm – Nguyễn Khuyến)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật ngày 11.05.2013 theo nguyên bản của tác giả chuyển từ SaìGòn .
. Đăng tải lại vui lòng ghi rõ nguồn Newvietart.com