Cho đến tận nay đã
hơn bốn trăm năm mà nhân dân xứ Quảng vẫn còn tự hào và tôn vinh một người thôn
nữ rất mực xinh đẹp và đôn hậu chuyên nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa
ở làng Chiêm Sơn, thuộc Tân Dân, tổng Mông Lĩnh, huyện Diên Khánh, phủ Điện
Bàn, dinh Quảng Nam nay là làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam là Đoàn Thị Ngọc mà nhân dân thường gọi với cái tên kính ngưỡng là Bà Chúa Tàm Tang Xứ Quảng và về sau được
Phủ Chúa phong tước là Đoàn Quý Phi.
I.
Cuộc đời của Bà Chúa Tàm Tang
Cô thôn nữ Đoàn Thị
Ngọc là con gái thứ ba của ông Đoàn Công Nhạn, một hào trưởng ở làng Chiêm Sơn
và bà thứ thất Võ Thị Thành, sinh năm 1601. Cuộc đời của cô gái trồng dâu, nuôi
tằm, ươm tơ, dệt lụa ở làng Chiêm Sơn, bên bờ sông Thu Bồn có một giai thoại
nên thơ đã đi vào truyền thuyết dân gian và sử sách Triều Nguyễn.
Sách "Đại Nam Liệt truyện Tiền biên” của Triều
Nguyễn đã viết về người thôn nữ đó và mối tình thơ mộng của mình, về sau trở
thành Quý Phi: "Bà là người con thứ ba của Thạch Quân Công Đoàn Công Nhạn. Mẹ
là phu nhân Võ Thị. Bà là người minh mẫn thông sáng..., sáng thơm, tú mị, phép
tốt trinh thuần” và "Năm mười lăm tuổi (Bà) hái dâu bên bãi, trông trăng mà
hát. Bấy giờ Huy Tông Hoàng Đế ta (tức Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên) đi chơi
Quảng Nam,
Thần Tông Hoàng Đế ta (tức Chúa Thượng
Nguyễn Phúc Lan) theo đi hộ giá. Đêm đáp thuyền chơi trăng, đỗ thuyền ở Điện
Châu (bây giờ là An Phú Tây) câu cá, nghe tiếng hát lấy làm lạ, sai người đến
hỏi, biết là con gái họ Đoàn, cho tiến vào hầu Chúa ở tiềm để, được yêu chiều
lắm”.
Truyền thuyết dân
gian Xứ Quảng cũng đã kể lại rằng vào một đêm trăng đẹp năm 1615, Chúa Sãi
Nguyễn Phúc Nguyên trong một chuyến tuần du Quảng Nam đã cùng Hoàng tử thứ hai
lúc đó khoảng 15 tuổi là Nguyễn Phúc Lan, dạo thuyền trên sông Thu Bồn. Khi
thuyền rồng ngược dòng sông từ Dinh trấn Thanh Chiêm (nay thuộc xã Điện Phương,
huyện Điện Bàn) đến thôn Điện Châu, châu Đông Yên, huyện Duy Xuyên (nay là xã
Duy Trinh, huyện Duy Xuyên) thì nghe một giọng hát trong ngần và quyến rũ của
một thôn nữ từ một nương dâu bên bờ sông vọng tới theo làn gió mát. Cô gái hát
rằng:
Tai nghe Chúa ngự
thuyền rồng,
Thiếp thương phận
thiếp má hồng nắng mưa...
Một lúc sau, cô gái
lại hát tiếp:
Thuyền rồng Chúa
ngự nơi đâu,
Thiếp thương phận
thiếp hái dâu một mình...!
Giọng hát và lời ca
của cô thôn nữ trong đêm thanh vắng đã làm rung động tâm hồn và xao xuyến trái
tim của hoàng tử đa cảm Nguyễn Phúc Lan. Được phép của vương phụ, hoàng tử cho thuyền rồng men theo triền sông
đi tìm tiếng hát. Khi lên bờ, bên bóng dâu xanh thắm nhuộm ánh trăng vàng,
chàng trai vương bá đem lòng say đắm người thục nữ kiều diễm vừa độ trăng tròn
rất mực đôn hậu là Đoàn Thị Ngọc, ái nữ của hào trưởng Đoàn Công Nhạn. Hình như
cuộc kỳ ngộ này đã được sắp xếp từ trước bởi bàn tay Ông Tơ Bà Nguyệt xe duyên.
Hoàng tử Nguyễn
Phúc Lan cùng cô thôn nữ Đoàn Thị Ngọc đã bén duyên nhau ở tuổi mười lăm và kết
duyên trăm năm vào tuổi mười bảy (1617) và ban đầu họ chung sống cùng nhau tại
Dinh trấn Thanh Chiêm.
Về sau, nhà khoa
bảng Tiến sĩ Mã Sơn Trần Đình Phong (1843 – 1909), quê ở Nghệ An, làm Đốc học
Tỉnh Quảng Nam dưới thời vua Thành Thái (1889 – 1907) vào khoảng năm 1892, đã
cảm tác bài phú "Quảng Nam tỉnh phú”
trong đó có đoạn ca ngợi Đoàn Quý Phi:
"Còn như khuê môn bồ liễu cũng có những kẻ lừng danh,
Đoàn Lệ Phi tiếng
hát trong dâu, được vời vào nội.
Phong tư dù có khác nhau
Tài hạnh cũng đều đáng trọng”.
Trong thời gian
này, Dinh trấn Thanh Chiêm do Thế tử Hữu Phủ Chưởng Phủ Sự Nguyễn Phúc Kỳ,
Hoàng tử trưởng của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, làm quan trấn thủ từ năm 1614. Sau
khi lập gia thất một thời gian, Hoàng tử Nguyễn Phúc Lan được phong tước Nhân
Lộc Hầu.
Sau khi trở thành
phu nhân Nhân Lộc Hầu Nguyễn Phúc Lan, Bà Đoàn Thị Ngọc bắt đầu quan tâm đến
việc khuyến khích phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa truyền
thống trên quê hương Xứ Quảng.
Đến ngày 22.7.1631,
Thế tử Hữu Phủ Chưởng Phủ Sự Nguyễn Phúc Kỳ qua đời còn quá trẻ, hưởng thọ 31
tuổi và Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cử
Hoàng tử Nguyễn Phúc Anh làm quan trấn thủ Quảng Nam dinh và sau đó quyết định
lập Nhân Lộc Hầu Nguyễn Phúc Lan làm Thế tử và phong tước Nhân Quận Công.
Sau khi Chúa Sãi
băng hà ngày 19.11.1635, Thế tử Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan trở thành Chúa
Thượng và sống cùng với phu nhân ở Phủ Chúa tại Phú Xuân. Bà Đoàn Thị Ngọc được
Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan phong tước là Đoàn
Quý Phi và thân phụ Đoàn Công Nhạn của Bà cũng được phong tước là Thạch
Quận Công.
Sau khi Chúa Nguyễn
Phúc Nguyên (1613 – 1635) quyết định Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan làm Thế tử
để lên ngôi Chúa nối ngôi mình thì bà Tống Thị Toại, phu nhân của Thế tử Nguyễn
Phúc Kỳ đã qua đời, là con gái của Mậu Lễ Hầu Tống Phúc Khang, một vị quan to ở
Phủ Chúa, là một người đàn bà có sắc đẹp nhưng đa đoan, cho rằng con trai bà
phải là Thế tử nối nghiệp chồng lên ngôi Chúa, nên âm mưu cướp ngôi Chúa. Bà
tìm mọi thủ đoạn để mê hoặc bằng sắc đẹp của
mình và chiếm trái tim của Chúa Hiền Nguyễn Phước Lan, đồng thời dựa vào
uy quyền của Chúa để chiếm đoạt tài sản của dân. Về sau, nhờ có quan Nội Tán
Viên Hiền Hầu họ Phạm dùng lời lẽ đanh thép khuyên can, Chúa Thượng Nguyễn Phúc
Lan mới rời bỏ được Tống Thị Toại.
Đoàn Quý Phi sinh
hạ được ba hoàng tử và một công chúa. Hoàng tử thứ nhất Nguyễn Phúc Võ và hoàng
tử thứ ba Nguyễn Phúc Quỳnh đều qua đời sớm, hoàng tử thứ hai Nguyễn Phúc Tần
làm quan trấn thủ Quảng Nam dinh vào năm 1638 và sau đó trở thành Thế tử.
Còn công chúa út,
theo hồi cố của các trưởng lão tộc Đoàn ở làng Chiêm sơn, xã Duy Trinh, huyện
Duy Xuyên có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng thường được gọi là Nguyễn Phúc Ngọc
Dung và có dị tật bẩm sinh, đã hạ giá với Chưởng Cơ tên là Minh và cũng đã mất
sớm.
Về cuối đời, không
rõ năm nào, Đoàn Quý Phi rời Phủ Chúa ở Kim Long, Phú Xuân quay trở về sống ở
Dinh trấn Thanh Chiêm, Quảng Nam cùng với con cháu, bà con trên quê hương mình.
Người ta cho rằng có thể có hai nguyên nhân đã làm Bà quay về Xứ Quảng: Thứ nhất, Bà muốn sống gần gũi với
làng quê, nơi có mồ mả ông bà, cha mẹ và các con trai cùng con gái đã qua đời
quá sớm. Thứ hai, sâu lắng hơn là vào năm 1639, Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đã
đem lòng say đắm người chị dâu trẻ, xinh đẹp góa bụa Tống Thị Toại nên Bà muốn
xa lánh cảnh đau lòng này.
Chúa Thượng Nguyễn
Phúc Lan băng hà vào ngày 26.2 năm Mậu Tý 1648 và Thế tử Dũng Lễ Hầu Nguyễn
Phúc Tần lên ngôi Chúa và trở thành Chúa Hiền (1648 – 1687).
Sau khi Chúa Thượng
Nguyễn Phúc Lan qua đời, bà Tống Thị Toại đã mật cử người ra Đàng Ngoài dâng
thư lên Chúa Trịnh Tráng (1623 – 1637) xin cất quân đánh chiếm Đàng Trong và
thị sẽ đem gia sản của mình để nuôi quân Chúa Trịnh. Nhận được sự hậu thuẫn đó,
ngay năm 1648, Chúa Trịnh Tráng đã đem quân đánh Đàng Trong lần thứ tư. Chúa
Hiền Nguyễn Phúc Tần đã chỉ huy đại quân đánh địch và giành thắng lợi hoàn
toàn, bắt được một số tướng và 3.000 quân Trịnh và vô tình phá tan được âm mưu
vô cùng thâm độc của Tống Thị Toại.
Đến năm Giáp Ngọ
1654, Tống Thị Toại mua chuộc và được Chưởng dinh Quảng Nam Nguyễn Phúc Trung
là chú ruột của Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần ủng hộ làm phản để cướp ngôi Chúa,
nhưng âm mưu này đã bị một thuộc hạ của
Chưởng dinh Nguyễn Phúc Trung là Thắng Bố tố cáo. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần
liền ra lệnh bắt giữ Chưởng dinh Nguyễn Phúc Trung đem giam vào ngục và cho xử
trảm Tống Thị Toại tại Dinh trấn Thanh Chiêm, tịch thu toàn bộ gia sản của thị
đem phân phát cho quân và dân, đồng thời ra lệnh đốt danh sách "đồng tâm hướng thuận” gồm những người bị
Tống Thị Toại lôi kéo tham gia làm phản để yên lòng sĩ dân, làm cho Chúa Hiền
Nguyễn Phúc Tần càng được nhân dân kính phục.
Có lẽ việc trừng
trị đích đáng Tống Thị Toại bởi con trai mình đã làm cho mẫu hậu Đoàn Quý Phi
hết sức hài lòng trong những năm cuối đời.
Sau mười ba năm
ngày qua đời của Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan, Đoàn Quý Phi mất vào ngày 17.5
Tân Sửu tức ngày 12.7.1661, hưởng thọ sáu mươi tuổi. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần
đã mai táng mẫu hậu tại Gò Cốc Hùng ở tổng Mông Lĩnh, cách Lăng mộ của Hoàng
Hậu Mạc Thị Giai, hậu của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, chừng nửa cây số và cách
không xa mộ của Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung.
Năm 1806, vua Gia
Long truy tôn Đoàn Quý Phi là Trinh Thục
Từ Tĩnh Mẫn Duệ Hiếu Chiêu Hoàng Hậu và khắc tên vào Kim sách (sách bằng
vàng) của Hoàng tộc và tôn hiệu này được thờ phụng với Hiếu Chiêu Hoàng Đế (tức Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan) trong gian
bên phải của Thái Miếu ở Huế.
Về phần Lăng mộ của
Hiếu Chiêu Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc, sách Đại
Nam
Nhất Thống Chí đã cho biết "Năm Gia Long thứ năm (1606) dâng tên lăng là Vĩnh Diên” để phân biệt với Lăng mộ của
Hiếu Văn Hoàng Hậu Mạc Thị Giai là Vĩnh
Diễn”. Lăng Vĩnh Diên được nhân dân địa phương gọi là Lăng Trên còn Lăng Vĩnh Diễn thì gọi là Lăng Dưới.
Khoảng năm 1824,
vua Minh Mạng đã cho xây dựng thêm ở giữa Lăng Vĩnh Diễn và Lăng Vĩnh Diên một
ngôi chùa làm nơi thờ cúng cho hai Hoàng Hậu, gọi là Chùa Vĩnh An mà nhân dân địa phương thường gọi là Chùa Vua hay Chùa
Ngự. Dưới thời Triều Nguyễn hàng năm, các vua Nhà Nguyễn đều đến cung yết Lăng
mộ hai Hoàng Hậu và Chùa Vĩnh An tại xã Duy Trinh.
Bên cạnh việc mai
táng mẫu hậu một cách chu đáo, xây Lăng Vĩnh Diên, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần
còn xây dựng Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu
Hoàng Hậu tại thôn Đông giáp, làng Đông Yên bên bờ sông Thu Bồn, gần sát
với Dinh trấn Thanh Chiêm, nay thuộc thôn Đông Khương 2, xã Điện Phương, huyện
Điện Bàn.
Trận lụt lớn sông
Thu Bồn năm Canh Thân 1680 dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Tần năm thứ 32 đã làm Nhà
thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu bị hoàn toàn hủy hoại do đất bị sạt lở ở ngay
giữa làng Đông Yên.
Đến dưới thời Chúa
Ninh Vương Nguyễn Phúc Thụ (1725 – 1738) vào khoảng năm 1730, Nhà Thờ Đức Bà
Hiếu Chiêu Hoàng Hậu đã được xây dựng lại lần thứ hai trên đất Đông Yên và lùi
xa bờ sông Thu Bồn. Một thời gian sau,
do bờ sông Thu Bồn tiếp tục bị sạt lở, làm Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu
Hoàng Hậu bị hư hại phần tiền sảnh.
Sau khi chiếm Xứ
Quảng vào cuối năm 1774, quân Tây Sơn đã triệt phá hoàn toàn Nhà thờ Đức Bà
Hiếu Chiêu Hoàng Hậu và Chùa Bảo Châu Sơn Tự ở Trà Kiệu (nay thuộc xã Duy Sơn,
huyện Duy Xuyên) do Chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1617. Sau khi
đánh thắng quân Tây Sơn, thống nhất đất nước và lên ngôi năm 1802, vua Gia Long
(1802 – 1820) đã cho xây dựng lại Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu khang
trang hơn trước tại Bãi Bắc ở Đông Yên Đông.
Đến năm Nhâm Thìn
1894, dưới thời vua Thành Thái (1889 – 1907) nhà vua đã cấp 1.000 lạng bạc để
xây lại phần hậu tẩm Nhà Thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu bị xuống cấp và dưới
thời vua Bảo Đại (1926- 1945), Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu cũng đã được
trùng tu năm 1930.
Sau hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi, Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu bị
xuống cấp nặng, Hội đồng Gia tộc Đoàn tộc Quảng Nam đã vận động bà con đóng góp
tài chính và đã tiến hành đại trùng tu, làm cho Nhà thờ Đức Bà Chiếu Chiêu
Hoàng Hậu được khang trang như ngày nay.
Về Chùa Vĩnh An,
sau cách mạng tháng 8.1945, do không có người chăm sóc đã dần dần bị hư hại hoàn
toàn. Về Lăng Vĩnh Diên của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu đến nay đã bị xuống cấp nặng
như báo chí ở địa phương và trung ương đưa tin và đề nghị chính quyền tỉnh
Quảng Nam quan tâm khắc phục, bởi vì đây là một di tích văn hóa lịch sử cổ xưa
nhất của Nhà Nguyễn còn tồn tại đến nay trên đất Quảng Nam và đã được công nhận
là Di tích lịch sử văn hóa của tỉnh.
Ngày nay, hàng năm
vào ngày 17.5 âm lịch, tại làng Chiêm Sơn quê hương Bà và Nhà thờ Bà ở làng Đông Khương 2, tộc
Đoàn Quảng Nam đã tổ chức Lễ tưởng niệm Đoàn Quý Phi – Hiếu Chiêu Hoàng Hậu một
cách trang trọng.
II.
Bà Chúa Tàm Tang trong sự nghiệp phát triển nghề tơ tằm Xứ Quảng
Xứ Quảng (gồm Quảng
Nam và Đà Nẵng ngày nay) vốn là một khu vực địa chất nằm giữa hai khối kiến tạo
lớn là địa khối uốn nếp Trường Sơn Bắc và rìa bắc của địa khối Kontum thuộc
Trường Sơn Nam, nhờ sự phún xuất dung nham nên lòng đất Xứ Quảng có nhiều
khoáng sản và màu mỡ hơn so với các vùng đất phía bắc và phía nam.
Lê Quý Đôn đã đánh
giá sự giàu có của Xứ Quảng rằng "Xứ Quảng là đất phì nhiêu nhất thiên hạ”.
Vì vậy, từ xưa Xứ
Quảng đã là một vùng đất nổi tiếng về nông nghiệp phát triển, trong đó có nghề
tơ tằm, một vùng đất nổi tiếng từ lâu "đàn
ông trồng dâu, đàn bà dệt lụa”.
Vốn là một người
lao động xuất thân từ một làng quê mà nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa
là một nghề cha truyền con nối, nên cô thôn nữ làng Chiêm Sơn Đoàn Thị Ngọc đã
sớm thành thạo và đam mê nghề nghiệp của cha ông.
Sau khi trở thành
phu nhân phu nhân Nhân Lộc Hầu Nguyễn Phúc Lan ở Dinh trấn Thanh Chiêm và cả
sau khi trở thành Đoàn Quý Phi quay trở về sống trên quê hương trong những năm
cuối đời, Bà luôn luôn khuyến khích bà con nông dân ở các phủ huyện của quê
hương mình phấn đấu trồng thật nhiều dâu, nuôi thật nhiều tằm, sản xuất thật
nhiều tơ và lụa để bán ra nước ngoài nhằm cải thiện đời sống.
Thỉnh thoảng Bà đi
thuyền từ Dinh trấn Thanh Chiêm và ngược dòng sông Thu Bồn và cả sông Vu Gia
đến tận các làng xã tơ tằm ở ven đôi bờ các con sông đó để thăm hỏi, chuyện
trò, trao đổi kinh nghiệm trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa với bà con nông dân
khuyên bảo họ một cách ân cần và thân mật, nên được bà con nồng nhiệt tiếp đón
một cách trọng thể và một lòng nghe theo.
Nhờ vậy, dần dần ở
những làng xã nằm dọc hai bên sông Thu
Bồn, Vu Gia, Ba Kỳ... các nương dâu xanh thắm mênh mông chạy tít đến tận chân
trời. Khắp xứ Quảng, nghề tơ tằm trở nên phổ biến và phát triển, nhưng tập
trung và nổi tiếng hơn cả là ở phủ Điện Bàn, huyện Duy Xuyên, huyện Đại Lộc và
phủ Hà Đông.
Từ xa xưa, văn học
dân gian Xứ Quảng đã cho thấy những làng Đông Yên, Thi Lai, Tứ Mã, Phú Bông,
Xuân Đài, Phú Triêm, Vĩnh Điện .v.v.. là những làng tơ tằm nổi tiếng của phủ
Điện Bàn.
* Tiếng đồn ba xã Phú Triêm,
Trồng dâu có mã, ươm tằm được tơ.
* Thợ dệt có làng Thi Lai
Đông Yên, Tứ Mã gai trai biết nhiều.
* Phú Bông dệt lụa dệt sa,
Kim Bồng thợ mộc, Ô Gia thợ rừng.
Ở huyện Duy Xuyên,
nổi bật những làng tơ tằm lâu đời như Chiêm Sơn, Mã Châu, Trà Kiệu.v.v...
* Chiêm Sơn là lụa mỹ miều,
Ban mai dệt cửi, buổi chiều xe tơ.
* Lụa tơ Trà Kiệu, Mã Châu
Đã từng có tiếng
từ lâu chắc bền.
Ca dao dân gian
thời xưa cũng đã nói tới những vùng trồng dâu nuôi tằm phong phú của huyện Đại
Lộc:
* Nhớ quê Đại Lộc êm đềm,
Bùng dâu, nà bắp tình thêm đậm đà.
* Con tằm Đại Lộc xe tơ,
Bãi dâu Đại Lộc lờ mờ bên sông,
Hỡi cô buôn thị bán hồng,
Đi qua Đại Lộc thấy tằm nong mà thèm.
* Ai về Hà Dục thì về,
Thấy nong tằm chín khó bề bỏ đi
Và phủ Hà Đông cũng
có những vùng tơ tằm lâu đời:
Kỳ Lam bắp rầy, dâu nà,
Ươm tơ dệt lụa cũng là từ lâu.
Dưới thời Bà Đoàn
Quý Phi ở Xứ Quảng trong một năm có hai vụ dâu tằm tơ lụa: vụ hè từ tháng 4 – 6 âm lịch và vụ
đông từ tháng 10 – 12 âm lịch. Nông dân đã biết kết hợp các kinh nghiệm của
cha ông từ Đàng Ngoài truyền lại với các kinh nghiệm trồng dâu nuôi tằm (giống
dâu, giống tằm) của người Chămpa cũng như bí quyết dệt lụa của người Minh Hương
để tạo ra được một nguồn tơ sống phong phú và nhiều mặt hàng lụa có chất lượng
cao.
Nguồn tơ sống của
Xứ Quảng vào thời kỳ ấy dưới thời Chúa Nguyễn quả thật là dồi dào mà Giáo sĩ
Alexandre de Rhodes đã đến Hội An vào cuối năm 1624 đã nhìn thấy như vậy và ông
đã có nhận xét "Ở Đàng Trong nhiều tơ lụa đến nỗi còn dùng để đan lưới và bện
dây thuyền”.
Tận mắt nhìn thấy
những cánh đồng trồng dâu mênh mông để nuôi tằm lấy tơ sống trên Xứ Quảng mà
Giáo sĩ Christoforo Borri đến Cửa Hàn năm 1618 đã viết: "Người Đàng Trong không
những cung cấp tơ cho nhu cầu của họ mà còn cung ứng cho Nhật Bản và đưa sang
Vương quốc Lào để từ đó người ta lại chuyển đến Tây Tạng, bởi lẽ loại tơ này
tuy không nhỏ mịn bằng loại tơ của Trung Hoa nhưng bền chắc hơn nhiều”.
Từ đó, Xứ Quảng sản
xuất được nhiều mặt hàng lụa với nhiều kiểu dệt khác nhau, sợi mịn hay thô,
mỏng hay dày, trơn hay có hoa văn, nhuộm màu hay không, có chất lượng cao hay
thấp, được chia thành nhiều sản phẩm khác nhau: trừu là loại lụa thô và to sợi; lượt
là loại lụa thưa và trơn; sa là loại
lụa mỏng và trơn; the là loại nhẹ màu
sáng; xuyến là loại lụa trơn dày hơn,
màu sáng; nhiễu là loại lụa trơn, dày
và bền; là là loại lụa dệt bằng tơ
nõn với những đường sọc nhỏ cách đều và nhuộm đen; lãnh là lụa trơn, dày và nhuộm đen; đoạn cũng là loại lãnh nhưng chất lượng tốt hơn; vóc là loại lụa bóng mịn, có dệt hoa; văn là loại lụa dày có dệt hoa lớn, chất
lượng cao hơn và gấm là loại lụa hoa
cao cấp.
Trong sách "Phủ Biên Tạp Lục” Lê Quý Đôn đã đánh giá
cao chất lượng lụa của Xứ Quảng và đã viết " Các vóc, sa, lãnh, gấm, trừu cải
hoa rất khéo” và "Người phủ Thăng, phủ
Điện dệt được các thứ the, đoạn, lụa, là hoa hòe tinh xảo chẳng kém gì Quảng
Đông”.
Vì vậy, hàng năm
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558 – 1613) đã
chọn lụa của Xứ Quảng để làm tặng phẩm, vật cống cho vua Lê. Về vấn đề này, Lê
Quý Đôn đã viết: "Ở Quảng Nam,
lụa thuế chỉ lấy ở hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn. Phủ Điện Bàn, huyện Phú Châu
nộp thuế hai ngàn ba trăm lẻ năm tấm... Lụa mà Đoàn Quận Công lấy để cống phù
thì rộng một thước bảy tấc, dài ba mươi thước, dày như nấm sợi. Phủ Thăng Hoa,
thuộc Hóa châu, hàng năm nộp lụa thuế tám trăm lẻ chín tấm, lụa lễ mười một
tấm; thuế là để dâng lên (vua) lễ là để biếu quan trên”.
Lịch sử cho thấy
dưới thời Chúa Nguyễn, hàng năm tơ sống và các loại lụa của Xứ Quảng và Đàng
Trong đã được xuất khẩu cho các nước Đông Nam Châu Á và phương Tây qua cảng thị
Hội An tại Hội chợ quốc tế kéo dài từ tháng hai cho đến tháng sáu âm lịch.
Hàng năm, các tàu thuyền
của Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Hà Lan.v.v... đã đến đây để mua tơ sống và các loại
lụa; riêng các tàu thuyền của Trung Hoa thường chỉ mua tơ sống. Trong số tàu
thuyền nước ngoài đến buôn bán tại cảng thị Hội An trong các thế kỷ XVII –
XVIII thì Thuyền Châu Ấn của Nhật Bản đến mua nhiều tơ và lụa nhất. Li Tana
viết về vấn đề này rằng: "Người Nhật đến Đàng Trong trước tiên là vì tơ lụa. Họ
có thể mua tơ lụa ở đây dễ dàng hơn nơi
khác vì tại cảng thị Hội An có một số người Nhật sinh sống và những người Nhật này
có thể thu gom tơ sống trước khi tàu của họ tới”.
Theo Nhà nghiên cứu
Nhật bản Morimoto Asako, trong một bài viết vào đầu năm 1997 cũng cho biết "
Giữa thế kỷ XVI, những trao đổi thương mại giữa Nhật Bản và Đại Việt dựa trên
cơ sở chủ yếu là việc nhập khẩu tơ của Đại Việt”.
Tác giả W. M Bush
cũng cho biết vào năm 1677 có bốn tàu Nhật Bản nhổ neo từ cảng thị Hội An để
chở về Nagasaki nhiều tơ sống và lụa tơ tằm. Cũng theo tác giả đó, năm 1633, đã
có hai tàu Hà Lan đến cảng thị Hội An mua về nhiều tơ lụa và năm 1634 một tàu
Hà Lan xuất phát từ Batavia đến cảng thị
Hội An đã mua tơ lụa nhưng gặp phải nhiều khó khăn do sự cạnh tranh của người
Nhật Bản.
Theo báo Cambridge University Press của Anh từ 1604 – 1635
đã có 124 tàu buôn Nhật Bản cập bến cảng thị Hội An để mua tơ lụa và các mặt
hàng khác.
Li Tana cũng cho
biết "Từ 1633 – 1637, mỗi năm Hà Lan có hai tàu đến Đàng Trong trong việc mua
tơ, nguồn lợi chính của họ, nhưng họ không địch lại nổi với người Nhật Bản”.
Nói tóm lại, trong
những thế kỷ XVII – XVIII, nhờ một vị thế địa lý thuận lợi, nhờ tổ chức một hội
chợ quốc tế hàng năm kéo dài nhiều tháng, nhờ một tiềm năng kinh tế nội địa dồi
dào, cảng thị Hội An đã trở thành một trung tâm trung chuyển của con đường tơ
lụa quốc tế xuyên đại dương, nối liền phương Đông với phương Tây trong thời kỳ
Trung Đại của lịch sử.
Chúng ta có thể
đánh giá một cách khách quan rằng sở dĩ nghề tàm tang Xứ Quảng trong các thế kỷ
XVII – XVIII dưới thời Chúa Nguyễn đã thực sự ngày càng phát triển và đã tạo ra
được những sản phẩm tơ tằm có khối lượng lớn và chất lượng cao, một mặt là nhờ
môi trường đất đai màu mỡ, nhân dân cần cù lao động, mặt khác còn nhờ công đức
to lớn của một người phụ nữ xinh đẹp là
Đoàn Thị Ngọc – Đoàn Quý Phi – Hiếu Chiêu Hoàng Hậu mà nhân dân Xứ Quảng quen
gọi với tấm lòng kính mến và ngưỡng mộ là Bà Chúa Tàm Tang, đã hết lòng khuyến
khích sự phát triển nghề tàm tang trên quê hương mình.
Có lẽ hiếm có một
nữ nhân vật lịch sử nào ở Đất Quảng đã để lại những ấn tượng và tình cảm sâu
đậm trong đời sống tâm linh của người dân Đất Quảng như Bà Chúa Tàm Tang – Đoàn
Quý Phi – Hiếu Chiêu Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc. Công đức đối với nghề tàm tang
trên quê hương cũng như thiên diễm tình một thời vang bóng của Bà vẫn còn âm
vang cho đến tận ngày nay mà các cô gái trên quê hương Bà vẫn hát:
Thuyền rồng mái đẩy
đi đâu
Để cho em đứng hái
dâu một mình...!
Chúng tôi thiết
nghĩ đến nay ở Quảng Nam
Đà Nẵng đã đến lúc nên có một con đường mang tên Đoàn quý Phi./.
N. P. T
Tài
liệu tham khảo
1. Quốc sử quán
Triều Nguyễn. Đại Nam liệt truyện tiền
biên, Tập I. Nhà Xuất bản Thuận
Hóa, 1993.
2. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Tập I – Nhà Xuất bản
Khoa học xã hội – Hà Nội, 1977
3. Nguyễn Phước
Tương. Quý Phi Đoàn Thị Ngọc, Tạp chí
"Nghiên cứu lịch sử”. Số 1. 2003
4. Nguyễn Phước
Tương. Quan trấn thủ Quảng Nam dinh Nguyễn Phúc Kỳ, Tạp chí "Khoa học
và Sáng tạo” Quảng Nam.
Số 11.2008
5. Li Tana. Xứ Đàng Trong. Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam.
Thế kỷ 17 và 18. Nhà Xuất bản Trẻ. 1999
6. Cristoforo Borri. Relation de la Nouvelle mission au Royaume
de la Cochinchine. BAVH N0 4.1932
7. W.M. Bush. La Compagnie des Indes néerlandaises et de
l’ Indochine BEFEO. Tome 37.1936
8. Nguyễn Phước
Tương. Hội An Di sản thế giới. Nhà
Xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. 2004
|