Cover Image
Đóng cuốn sách này Lý Thừa Ân
(LyThuaAn.htm)
đóng thư mục này Tác phẩm
Xem tài liệu Bảo - Ninh Sùng Phúc Tự Bi

BẢO - NINH SÙNG PHÚC TỰ BI

Tri vị - long châu, phụ ký lang, đô tri tả vũ vệ đại tướng quân, kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu thái phó, đồng trung thư môn hạ bình chương sự, kiêm quản nội khuyến nông sự, thượng trụ quốc, thực ấp tam thiên cửu bách hộ, thực thực phong cửu bách.

Phù trạm tịch chân không, uẩn thanh trọc vị phân chi thượng; phát huy diệu hữu, bao hình khí vận động chi tiên. Lượng xả không nhi triệu trẫm phi không; vọng chấp hữu nhi hy di mạc hữu. Miến duy Hoàng Giác, trí năng  cứu tận; mị hữu kiết di. Ẩn thực hiển quyền, thị vĩnh viễn thường lạc chi đạo; tòng vô nhập hữu, tư hồi hướng giải thoát chi cơ. Thiện khai vạn vạn pháp môn; hóa dụ thiên thiên sa giới. Phiếm Trúc càn nguyên phái; cự Chu Mục lạm trường. Kinh thủy nhân từ; khôi sùng tượng giáo. Tiên dân húc nhĩ, tân tân bất đình; hậu thế truyền yên, sinh sinh tương tục. Hữu duyên hề giới trụy đầu châm; bất ngộ giả, thủy phiêu phác thạch.

Ô mục Thái phó Hà công Hưng Tông. quyết tổ nguyên thuộc Ung - châu, Đông - đô, Hà huyện, Thạch - bách hương, Ca - nông lý. Cao tổ Hà Đắc Trọng, dao văn thánh hóa, thũng nguyện vi thần. Thủ thành Vị - long châu dã. Dàn ký phú hỹ; thế xưng trường yên. Lũy thích bát đại, viên cập tổ tiên, thái tướng nhị đại, dịch diệp di xương, mậu huân vĩnh trước. Quản tứ thập cửu động, nhất thập ngũ huyện. Thuần bị mỹ hóa; hàm qui nhất quĩ. Kinh ngũ đại toại chi thử, phụ khảoThái bảo, thú vu Thái Tổ hoàng đế đệ tam công chúa trọng nữ, phối vi quận quân. Nhân thụ Hữu đại liêu ban. Sinh thử nghiêm khảo đẳng, hiền nam tứ, quí nữ tam. Duy nghiệm khảo Thái phó, nhân chính thi phát , lư lý lạc khang. Thú tỷ thân vu Phú - nghĩa châu Thái thú, Lý thị đệ lục nương tử, lập vi quận quân. Thủy sinh mạnh tử, kỵ đệ tứ nam Hưng Tông khảo tỷ. Nãi tái cúc tái dục; lộng ngõa lộng chương. Nam huấn nữ công; nguyệt tương nhật tựu. Nghiêm khảo dĩ Thái Ninh Ất mão, viên thỉnh vương sư;  tái xâm sóc tái. Vi Ung thành nhi hách nộ; bạt vũ tướng nhi hiến phù. Thưởng tứ thiên Hữu đại liêu ban đoàn luyện sứ. Canh liễm cửu nhất, tắc mạch như để; tân khách tam thiên, môn đình nhược thị.

Vu Anh Vũ Chiêu Thắng Đinh tỵ, thời duy cửu tuế, tử nê phong chiếu, lệ chỉ đan đình tiên tịch trung luân, hảo cầu đế muội. Vu thời thượng ấu, cáo qui dưỡng mông. Chí Mậu ngọ mạnh xuân, tài đăng thập tuế. Phục hạnh hoàng đế tái linh nội phụ văn tư lang trung Kiểu Nghĩa, mật hàm luân chỉ; tương phó nhân phong. Nghinh thiếu ấu ư hà hoang; đối thiên nhan chi xich chỉ. Dĩ phối Khâm Thánh công chúa, tưởng sức vi Tả đại liêu ban. Ô hy! Bỉnh tư nhã tiết; doãn chấp lễ dung . Phụng khuê bích dĩ nga nga; bôn phủ bạt nhi lệ lệ. Dĩ Nhâm tuất quí đông, đế nãi di tiễn công chúa, hạ giá bản châu. Tứ hanh gia chi diên; bị thần nghinh chi lễ. Cửu thập kỳ nghi, chiêm vọng dữ nhân thành đổ; lục ngũ chi vị, tập ngự tỷ điệt như vân. Thất gia chi đạo vị hoàn; xướng họa chi tình vị kỷ. Hốt giới Quảng Hựu Ất sửu, khảo tỷ câu vong; vương cơ tang điệt.

Đãi vu Bính dần tuế, hoàng đế chiếu tuyên tứ mệnh, tỷ tự khảo phù, nhưng cựu tước dĩ Tả đại liêu ban, kiêm trí Vị - long châu, thủ tiết độ sứ, kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu thái phó. Viên nghị bố nhiếp, thủy tự tằng tổ, chung vu đại hoán, thùy dụ Hưng Tông, nhất thập ngũ đại. Thời tai! Đạo kiến quốc nhược chỉ; tục ẩm hóa như lưu. Hoặc vương sự vô thành, tái tam thổn kỷ; nãi khảo cổ phong hữu dực, thủ nhất tồn tâm, Biện hựu từ lâm, biến sưu nhập vịnh; lễ môn nghĩa lộ, tận tụy lai du. Tín chủ hữu nhi thiết thiết tư tư; hiếu phụng tiên nhi căng căng chiến chiến.

Y! Thủ vinh trung vi bảo, cụ lạc cực tắc bi; hoài y lý chi châu, khủng ký đắc nhi thất. Nghĩ liên thuần hỗ; tiết mộ thắng nhân. Dĩ Long Phù Nguyên Hóa Đinh hợi mộ xuân, suất thử hương lão; tướng bỉ quận ngung. Định Hán - lộc chi Nam; đới mẫu cung chi Sóc. Hội tương cân phủ, tiễn phạt vân lâm; phương mệnh công sư, kinh thủy cam vũ. Tước tử tài nhi thác; triệu luy lý dĩ đăng đăng. Lương yển phân hình, ngộ hồng song khóa; thiềm a dực thế, như điểu tứ phi. Diên phấn thự chu hồi, bất cách tam ma địa; liệt kim dung phu tọa, hề thù Ngũ tịnh thiên. Trầm đàn phiêu nhi cao tiễu vân nghê; chung khánh hài nhi viễn xung động hác. Tùng hoa uất mậu, trường chiếm từ phong; mao nghễ qui y, câu phao hỏa trạch. Dự chúc vị kim thượng, ngự bảo đồ nhi hữu vĩnh; ác huyền giám nhi vô cương. Cư tuy phụng thổ chi thần; chung vọng tựu nhất chi chí. Thứ nguyện quận quân, đạo nương kỵ nam nữ, trí thước hữu sào chi đạo, kim thạch tề linh; quyết dương quì nhũ chi ân, tùng thung tỷ thọ. Mạt tiến vị cửu huyền thất tổ, hàm thừa diệu quả chi công; tiên khảo hậu côn, tịnh mộc lương duyên chi tích.

Dục hiểu thời đại; khả kỷ trinh mân. Mệnh ngu củ dẫn; triếp tự vu tả.

Từ viết:

Định thể phi không,

Nhập dụng phi hữu.

Không, hữu vật ly,

Quả, nhân nan hủ.

Trung đạo bất an,

Nhị biên hề thủ.

Ẩn thực hiển quyền,

Hà khả thục phủ?

Viết hoàng chí giác,

Đạo hóa quần sinh.

Vô khuể vô ngại,

Hữu duyên hữu tình.

Vĩ tai Hà thị,

Chiêu hồ lệnh danh,

Tiên tổ du vãng,

Hậu tôn tái canh.

Tứ thập cửu động,

Nhất thập ngũ đại.

Chu bảo sơn xuyên,

Phủ tuy nhân ái.

Chân tính phỉ mê,

Thiện căn hà hoại.

Đế cấu thanh uyên,

Trang thành kim giới.

Mẫu - cung chi sóc,

Hãn - lộc chi Nam.

Địa thanh trần phân,

Cảnh uất nùng lam.

Hiền ứng ngũ bách,

Đạo võng nhị tam.

Công danh kỷ thạch,

Vĩnh trước nham nham.

 

Dịch nghĩa

VĂN BIA CHÙA BẢO - NINH SÙNG - PHÚC

[Viết về HÀ HƯNG TÔNG, giữ chức] tri Vị - long châu, phò ký lang, đô tri tả vũ vệ đại tướng quân, kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu thái phó, đồng trung thư, môn hạ bình chương sự, kiêm quản nội khuyến nông sự, thượng trụ quốc, thực ấp ba nghìn chín trăm hộ, thực thực phong chín trăm hộ.

Ôi! Cái chân không trong lặng, giấu hình khi trời đất chưa chia; cái diệu hữu nẩy sinh, bao trùm trước hữu hình vận động. Sáng thì gạt bỏ cái "không", Vì cơ vi chẳng phải là không; mê thì bám lấy cái "có", coi mầu nhiệm cũng là không có. Xa nghĩ đức Phật tổ xưa, trí tuệ của người xem xét tất cả không sót một ai. Cho nên người: giấu kín cái "thực", làm rõ cái "quyền", để gọi bảo cái đạo "thường", "vui" mãi mãi; từ cái "không" đi vào cái "có", để giúp cho sự hồi hướng giải thoát đời đời. Khéo mở ra muôn vạn pháp môn; để dạy bảo muôn nghìn thế giới. Lênh đênh dòng nước trời Tây; vời vợi suối nguồn Chu Mục. Bắt đầu xây dựng chùa này; hết dạ tôn sùng tượng giáo. Người xưa khuyên bảo, đổi mới không ngừng; hậu thế lưu truyền, đời đời nối dõi. Kẻ có duyên thì cải ném đầu kim; người không hiểu thì nước trôi xô đá.

 Kính thay Thái phó Hà Hưng Tông, thủy tổ là người ở xóm Ca Nông, hương Thạch Bách, huyện Hà, thuộc Đông Đô, châu Ung Cao tổ là Hà Đắc Trọng, xa nghe giáo hóa của vương triều, dời gót xin làm thần thứ. Từ đó gìn giữ an toàn châu Vị Long vậy. Dân đã ấm no; người đời tôn trưởng. Cho tới đời thứ tám, kể cả tổ tiên xưa có hai đời làm Thái bảo và Thái phó, nghiệp lớn càng thịnh, công cả càng cao. Được coi giữ bốn mươi chín động, mười lăm huyện, dân chúng đều thấm nhuần giáo hóa tốt đẹp, đều hướng về một khuôn phép chung. Trải qua năm đời thì đến đời bấy giờ. Ông của Thái phó giữ chức Thái bảo, lấy công chúa thứ ba của Thái Tổ hoàng đế làm phu nhân. Nhân việc đó lại được Thái Tổ trao cho chức Hữu đại liêu ban. Phu nhân sinh ra hàng cha chú của Thái phó; tất cả có bốn trai tài, ba gái đảm. Riêng thân phụ Thái phó là người thi hành nhân chính; làng xóm yên vui. Thân phụ của Thái phó lấy con gái thứ sáu của quan Thái thú họ Lý ở Phú Nghĩa làm phu nhân. Từ khi sinh con trai đầu lòng cho đến người con trai thứ tư, cha mẹ Thái phó đều nuôi dạy ân cần; cho chơi đùa hợp cách con trai thì dùi mài kinh sử; con gái thì kim chỉ thêu thùa. Ngày qua tháng lại, năm Ất mão niên hiện Thái Ninh [1074], thân phụ Thái phó chỉnh đốn vương sư, đánh sang ải Bắc. Vây thành Ung cho bõ giận; bắt tướng võ dâng tù binh. Do đó, phụ thân Thái phó được nhà vua ban chức Hữu đại liêu bàn đoàn luyện sứ. Cấy cày theo phép tỉnh điền, thóc lúa ùn ùn như núi; khách khứa ba nghìn đông đúc, cửa nhà nhộn nhịp phố phường.

Năm Đinh tỵ niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng [1077], bấy giờ Thái phó mới lên chín tuổi, chiếu gắn hồ son vời về sân đỏ; sổ tiên lựa chọn, kết bạn em vua. Nhưng vì Thái phó còn nhỏ, nên xin được về nấp bóng mẹ cha. Đến tháng Giêng năm Mậu ngọ [1078], Thái phó mới lên mười tuổi. Nhà vua lại sai quan Nội phụ văn tư lang trung là Kiểu Nghĩa, ngầm mang thánh chỉ, thẳng tới ấp phong, đón trẻ thơ ở nơi xa vắng, cho gang tấc gần gũi mặt rồng, để kết duyên với công chúa Khâm Thánh và phong làm Tả đại liêu ban. Than ôi! Giữ lễ tiết trang nhã; sửa dung mạo đoan trang. Nâng khuê bích nguy nga; vận lễ phục rực rỡ.

Cuối đông năm Nhâm tuất [1082], vua tiễn đưa công chúa về nhà chồng ở bản châu. Nhà vua ban tiệc mừng long trọng; Thái phó sắm đủ lễ đón dâu. Ăn mặc đủ màu, dân chúng xem đông như hội; năm cung sáu viện, chị em đưa tiễn rợp đường. Đạo thất gia chưa vẹn, tình xướng họa chưa lâu, bỗng năm Ất sửu niên hiệu Quảng - Hựu [1085] mẹ cha đều mất, công chúa tóc tang.

Đến năm Bính dần [1086] nhà vua xuống chiếu cho Thái phó được nối chức cha, vẫn giữ tước củ là Tả đại liên ban, lại kiêm thêm Tri châu Vị - long, giữ tiết độ sứ, kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu Thái phó.[Thế là] được quyết định chính sự bắt đầu từ tằng tổ, sau đó cứ lần lượt thay nhau xuống đến mãi Hưng Tông, tất cả mười lăm đời. Ôi, chữ "thời"! Nước xây dựng trên đạo, vững như cột đá; dân hấp thu giáo hóa, xuôi như dòng sông. Hoặc việc nước có điều chưa trọn, thì suy đi nghĩ lại không thôi; xét thói xưa có chỗ đáng tin, thì tạc dạ ghi lòng nào bỏ. Vườn văn rừng phú, sưu tập khắp nơi; cửa lễ đường nhân, dạo chơi đủ chốn. Điều tín là ở nơi bè bạn thì tha thiết ân cần; chữ hiếu là thờ cúng tổ tiên thì băn khoăn khép nép.

Ôi! Giữ lòng thanh làm của báu, sợ một điều "lạc cực sinh bi"; mang hạt trai trong mình, e đã được mà lại mất. Muốn hưởng phúc thuần; lòng ham đạo Phật. Cho nên cuối xuân năm Đinh hợi niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa [1107], Thái phó dắt dẫn hương lão, xem hướng ở góc quận, chọn đất phía Nam Hán Lộc, giáp bên mạn Bắc Mẫu - cung [làm nơi dựng chùa]. Cùng đem rìu búa; phát xén rừng mây. Lại chọn thợ hay, xây dựng đền tía. Đẽo gỗ rừng chan chát; chuyển quang sọt rộn ràng. Xà uốn cong cong ngỡ cầu vồng bắc nhịp; mái hiên xòe cánh như chim chóc tung bay. Nhà trắng bao quanh, Tam ma địa gần gũi; tượng vàng đặt giữa, Ngũ tịnh thiên khác nào. Trầm hương nghi ngút, bốc tới trời mây; chuông khánh nhịp nhàng, vang lừng hang động. Hoa thông xanh tốt, chiếm mãi gió từ; cờ phướn quy y, bỏ xa nhà lửa. Nguyện chúc hoàng thượng ngự ngôi báu đời đời; giữ gương huyền mãi mãi. Phận dẫu chỉ là bầy tôi giữ đất; vẫn mang chí mong được gần trời. Thứ chúc quận quân, nương đạo cùng con gái, con trai: gái thì chọn đạo vu quy, đá vàng chung thủy; trai thì hết lòng phụng dưỡng, tùng bách xanh tươi. Cuối cùng kính chúc các vị tổ tiên, đều hưởng công ơn diệu quả; đầy đàn con cháu, tắm chung ân huệ lương duyên.

Muốn làm tỏ rõ đời nay, phải ghi bia đá; [cho nên Thái phó] đã sai tôi ghi dẫn và bầy tỏ như sau:

Lời rằng:

Định thể không phải là "không",

Mà diệu dụng cũng không phải là "có".

Chớ có tách rời "không" và "có",

"Quả" và "nhân" không thể tiêu ma được.

Nếu không vững tin ở Trung đạo,

Thì ["không" và "có"] biết chọn lấy bên nào?

Làm sáng tỏ cái "quyền" và giấu đi cái "thực",

Đằng nào "nên", và đằng nào "không nên"?

Rằng: chỉ có bậc Đại giác,

Dìu dắt và giáo hóa quần sinh;

Mới không vướng mắc gì cả,

Có duyên và có tình.

Lớn lao thay họ Hà,

Tiếng lành rạng rỡ.

Tổ tiên qua đời,

Thì con cháu nối gót.

Bốn mươi chín động,

Đúng mười lăm đời.

Bảo toàn sông núi,

Vỗ yên nhân dân bằng điều nhân ái.

Chân tính không mê hoặc,

Thì căn tuệ vững bền.

Xây dựng nên [ ngôi chùa] lợp ngói xanh,

Và trang hoàng nơi mà ranh giới quy định bằng dây vàng.

Ở phía bắc Mẫu - cung,

Ở phía nam Hãn - lộc;

[Là nơi] mà đất thì sạch trong bụi bặm,

Cảnh thì nghi ngút hơi lam.

[Họ Hà là người] ứng vào cái khí số "cứ năm trăm năm thì người hiền ra đời",

Đạo tâm chuyên nhất.

[Nên] công danh được ghi vào bia đá,

Lâu dài mãi như núi non.

Dịch thơ

Định thể nào không,

Diệu dụng đâu có.

"Không", "có" chớ lìa,

"Quả", "chân" khôn xóa.

Không yên trung đạo,

Biết chọn bên nào?

Tỏ "quyền" giấu "thực",

Đôi đằng tính sao?

Rằng xưa Phật tổ,

Dắt dạy quần sinh.

Không vướng không mắc,

Có duyên có tình.

Lớn thay họ Hà,

Rỡ ràng tiếng tốt.

Tiên tổ qua đời,

Cháu con nối gót.

Bốn mươi chín động,

Đúng mười lăm đời.

Non sông giữ vững,

Nhân ái giúp thời.

Chân tính sáng suốt,

Căn tuệ vững bền.

Ngói xanh lại lợp,

Cõi vàng dựng nên.

Phía Nam Hãn - lộc,

Phía Bắc Mẫu - cung.

Đất không bụi bặm,

Hơi núi mịt mùng.

Người giỏi ra đời,

Đạo thì thống nhất.

Công đức tạc bia,

Như non khôn mất.

                             ĐỖ VĂN HỶ