Christian de Castries
Christian de Castries |
|
---|---|
Tiểu sử
|
|
Nơi sinh | Paris, Pháp |
Nơi mất | Paris, Pháp |
Binh nghiệp
|
|
Phục vụ | Pháp |
Thuộc | Quân đội Pháp |
Năm tại ngũ | 1921-1959 |
Cấp bậc | General de brigade |
Chỉ huy | Binh đoàn cơ động số 2 Binh đoàn cơ động số 1 Binh đoàn cơ động Tây Bắc |
Tham chiến | Thế chiến thứ hai Chiến tranh Đông Dương *Trận Điện Biên Phủ |
Christian Marie Ferdinand de la Croix de Castries (1902-1991) là một sĩ quan chỉ huy người Pháp tại trận Điện Biên Phủ năm 1954. Tại Việt Nam, Christian de Castries thường được viết Tướng Đờ Cát, hay Đờ Ca-xtơ-ri.
Christian de Castries sinh 11 tháng 8 năm 1902, xuất thân từ một gia đình danh giá ở Pháp theo binh nghiệp từ lâu. Năm 19 tuổi, Christian de Castries nhập ngũ. Ông đã được học Trường Kỵ binh Saumur vào năm 1926 và được phong hàm sỹ quan nhưng sau đó ông đã xin nghỉ để theo môn thể thao đua ngựa. Sau khi tái gia nhập quân ngũ vào thời kỳ Thế chiến thứ hai, ông đã bị bắt năm 1940 và đã trốn thoát trại tù binh của Đức năm 1941 và tham gia chiến đấu với lực lượng Đồng Minh ở Bắc Phi, Ý và Nam Pháp.
Năm 1946 Castries lên hàm thiếu tá và đã được phái đến Đông Dương thuộc Pháp. Sang Đông Dương năm 1946, ban đầu De Castries chỉ huy đơn vị kị binh Ma rốc và nhanh chóng nổi tiếng vì xông xáo trận mạc. Theo báo France-soin số ra ngày 10 tháng 5 năm 1954 cho biết, trong thời gian tham chiến tại Việt Nam, De Castries đã chỉ huy nhiều cuộc hành quân bình định vùng Hưng Yên, Ninh Bình và đã chiến đấu ở Nho Quan.
Đầu năm 1951, sau khi trở về nước Pháp học xong bổ túc tại Trường Quân sự Saint Syr và được đề bạt trung tá, ông trở lại Đông Dương. Ông được cử làm chỉ huy trưởng Binh đoàn cơ động Ma-rốc (Groupement Mobile des Tabors) nhưng không lâu sau ông bị thương do xe cán phải mìn và được đưa về Pháp chữa trị. De Castries bị thương nặng gãy hai chân, từ đó phải đi khập khiễng và phải chống gậy. Chức vụ Chỉ huy trưởng GM Tabors được giao lại cho phó của ông là Trung tá Leve.
Năm 1952, sau khi phục hồi sức khỏe, ông trở lại Việt Nam với hàm đại tá. Tháng 12 năm 1953, ông được giao nhiệm vụ phòng thủ ở Điện Biên Phủ[1] với chức vụ chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm. Ông là người chỉ huy cao nhất tại tập đoàn cứ điểm, chống trả cuộc bao vây kéo dài 8 tuần của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong trận Điện Biên Phủ và được thăng hàm chuẩn tướng (General de brigade) tại mặt trận vào ngày 16 tháng 4 năm 1954. Tuy nhiên, đến ngày 7 tháng 5, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh bại lực lượng quân Pháp và đồng minh tại tập đoàn cứ điểm, trên thực tế đã kết thúc Chiến tranh Đông Dương cũng như sự hiện diện của quân đội Pháp tại Đông Nam Á. Castries đã bị bắt giam làm tù binh trong 4 tháng trong lúc hiệp định đình chiến đang được các bên liên quan thương thảo ở Genève, Thụy Sĩ.
Ông rời quân ngũ năm 1959 và qua đời ngày 29 tháng 7 năm 1991 tại Paris, Pháp.
[sửa] Thông tin thêm
Ngày 10 tháng 10 năm 1954, tại Ủy ban Quân chính thành phố Hà Nội, Chủ tịch Quân chính Hà Nội - Thiếu tướng Vương Thừa Vũ (Tư lệnh Đại đoàn 308 - quân tiên phong tại chiến dịch Điện Biên Phủ) đã tặng Giáo sư Hồ Đắc Di chiếc gậy của De Castries. Giáo sư trân trọng gìn giữ kỷ vật đó trong suốt 30 năm. Cây gậy này hiện được Viện Bảo tàng Lịch sử Quân sự lưu giữ và trưng bày tại Phòng “Chiến thắng Điện Biên Phủ” trong một chiếc tủ kính, bên trên là tấm ảnh lớn chụp De Castries tay cầm gậy đi thị sát ở Điện Biên Phủ.[2]
[sửa] Tham khảo
- ^ Martin Windrow, The Last Valley: Dien Bien Phu and the French Defeat in Vietnam Weidenfeld and Nicholson, London, 2004 ISBN 0-297-84671-X
- ^ Cây gậy của tướng De Castries