12/05/2010
|
18:36:00
Chùa Mía

|
Chùa Mía. (Nguồn: Internet) |
Đường Lâm là tên xã thuộc thị xã Sơn Tây, có tới 7 thôn, song chùa ở thôn,
Đông Sàng lại được dân trong vùng gọi là chùa Mía với tên chữ là “Sùng Nghiêm
tự”, chỉ cách thị xã Sơn Tây 5km trên đường đi huyện lỵ Ba Vì.
Đây là vùng đất cổ nhìn rộng ra một chút có sông Hồng ở phía Đông và núi
Ba Vì ở phía Tây Bắc, còn tại chỗ gò đồi san sát, ngòi lạch vòng vèo, dân tin là
nơi “địa linh” và đã sản sinh nhiều nhân tài cho đất nước.
Chùa Mía xây dựng trên quả đồi thấp bằng phẳng rộng chừng 1ha, hướng Nam,
nhìn xuống chợ Mía ở ngay trước chùa nên gọi là chợ chùa hay chợ Tam Bảo. Chùa
Mía vốn có từ xa xưa, nhưng chỉ là ngôi chùa nhỏ, đến đầu thế kỷ XVII được dựng
lại mở rộng qui mô nhờ sự công đức của Bà chúa Mía - Nguyễn Thị Ngọc Dao (nhưng
dân địa phương phải đọc chệch thành Dong hay Dêu) vợ yêu của chúa Thanh Đô Vương
Trịnh Tráng.
Tấm bia Sùng Nghiêm tự bi khắc năm Đức Long 6 (1634) cho biết vào năm 1632
đã dỡ bỏ chùa cũ, xây dựng chùa mới khang trang gồm các tòa Thượng điện, Thiêu
hương, Tiền đường, Hậu đường và hành lang hai bên, cả thẩy 27 gian. Một số bia
và tài liệu cho biết thêm, năm 1750 xây thêm tòa Tiền đường nữa, 7 gian 2 đốc ở
phía trước Tiền đường cũ.
Năm 1843 xây Tam quan, 1853 sửa chữa lớn tòa Tiền đường mới. Năm 1916 mở
rộng hành lang mỗi bên ra 7 gian. 1928 mở rộng và tôn cao Thượng điện. 1963 tu
sửa nhỏ những chỗ bị hư hỏng. Năm 1993 tu bổ, tôn tạo hoàn toàn nhà Thượng điện,
nhưng thêm cây tháp Cửa phẩm Liên Hoa ở góc vườn đằng trước. Ngoài ra, từ cuối
thế kỷ trước cho đến tận nay còn xây thêm nhiều công trình phụ như nhà thờ Tổ,
nhà Khách, Tăng phòng và các kiến trúc phục vụ sinh hoạt đời thường khác.
Khuôn viên chùa hiện nay được mở đầu bằng Tam quan 3 gian 2 tầng mái, tầng
trên là gác chuông, do vừa dàn ngang vừa nâng cao, thông thoáng, trang nghiêm
nhưng mộc mạc. Tuy nhiên, hai gian bên bị dựng bia chắn ngang và có hàng rào
chấn song, nên việc đi lại đều qua cổng phụ xây gạch ở phía bên trái. Qua cổng
là sân ngoài cũng là vườn chùa trồng nhiều cây lưu niên, trong đó có cây đa cổ
thụ ở góc ngoài của vườn đã vài trăm tuổi, xòe rộng tán và vươn cao đánh dấu đất
Phật và cũng tạo sự tương phản với những kiến trúc cổ để cùng tôn lên. Từ vườn
chùa theo đường lát gạch qua cửa Bát nhã vào sân trong chùa với một vườn cảnh
gợi một thế giới thần tiên, thanh khiết.
Từ sân qua hệ thống bậc gạch cao chừng 1m sẽ bước vào khu Tam bảo với bình
đồ chữ nhất ở trước chữ quốc, xum xuê trải rộng mà không nâng cao, tạo một không
khí ấm cúng, thần Phật cũng quanh đâu đây.
Rất hiếm chùa có hai Tiền đường, đây là một biệt lệ, nó đổi mới công thức
cũ song không xa lạ. Tòa Tiền đường ngoài là để mở rộng chỗ cho các phật tử ngồi
hành lễ vọng vào khu Tam bảo ở phía trong. Ở tòa này chỉ có điện Mẫu ở hồi bên
trái, đối diện với tấm bia dựng năm Đức Long ở hồi bên phải, là một tác phẩm
lịch sử - nghệ thuật có nhiều giá trị cụ thể cả ở bài văn và hình trạm trang
trí.
Từ tòa Tiền đường trong trở vào có bình diện theo kiểu “nội công - ngoại
quốc” quen thuộc thường gặp trên nhiều chùa dựng ở nửa đầu thế kỷ XVII, mở ra
một không gian rộng để chứa một số lượng tượng Phật đông đảo mà ở đây đạt kỷ lục
với con số gần 300 tượng. Trừ phần Thượng điện mới tôn tạo, tu bổ nhưng vẫn ở
trên nền cao vượt hẳn lên, các tòa khác vẫn giữ nếp kiến trúc cổ, kết cấu đơn
giản, dùng lại ít mảng có phong cách Mạc, lại cả một số mảng làm thêm thuộc
những lần tu sửa ở thời Nguyễn, tất cả đều thấp, bình dị. Ở Hậu đường có những
chiếc cột to quá cỡ bằng gỗ mít, không hài hòa với các thành phần kiến trúc liên
quan, song càng khẳng định sự cổ kính của công trình.
Trong số gần 300 tượng, các tượng gỗ tập trung ở trên điện Phật thuộc
Thượng điện và Thiêu hương, trong đó nổi lên các tượng Tam Thế, Tam Thân, Tam
Tôn, Thích Ca tọa thiền, Quan Âm chuẩn đề, Quan âm nghìn tay, nghìn mắt với vẻ
đẹp óng chuốt, quý phái mang phong cách thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII - XVIII.
Trong điêu khắc tượng tròn, ở chùa Mía trội hơn nhiều chùa lại chính là loạt
tượng đắp đất rồi sơn thiếp, là thành tựu mới của nghệ thuật tạo hình thời
Nguyễn.
Tòa Tiền đường có hai pho Khuyến Thiện và Trừng Ác, quả là “to như Hộ
Pháp”, cao tới 2,6m, đều ở thế ngồi trên sư tử, ngoài ra còn thêm bệ nữa, đầu
gần sát mái nhà. Vẫn tòa Tiền đường giáp tường hồi mỗi bên có 4 pho Kim Cương
cao 1,82m, đều trong thế võ, đứng vặn người cho bắp nổi cuộn, một tay thấp, một
tay cao, cương quyết mà thật trong sáng. Bộ Thập bát La Hán bày ở hai bên hành
lang, dàn ra theo nhịp điệu êm ả, có vẻ đẹp hồn nhiên chân chất của dân gian.
Tượng Di Lặc ở chính điện và tượng Tuyết Sơn ở Hậu đường do nhấn mạnh sự
đối lập hình thể mà cũng đối lập cả thể chất vô tư với đau đáu, cũng rất Việt
Nam. Tượng Quan âm Thị Kính thực sự là người mẹ Việt Nam hiền thục, duyên dáng
và điềm tĩnh. Tượng Phật nhập Niết Bàn nằm duỗi thảnh thơi là sự giác ngộ tột
cùng và sự trở về thanh thản… Các cảnh động Vân Trừu, động Linh Ngưu với vô số
tượng lớn nhỏ đều rất sinh động, đã bày ra như một bộ sử Phật giáo bằng hiện vật
có sức truyền cảm mạnh nhất.
Hệ thống tượng Mẫu ở chùa Mía, ngoài bộ tượng Tam tòa là biểu trưng chung,
còn có Mẫu Việt Nam đã huyền thoại hóa là công chúa Liễu Hạnh đầy quyền năng,
đặc biệt còn tôn vinh Bà chúa Mía thành vị Thánh đồng nhất với Mẫu Địa, có các
Mẫu Thượng Thiên và Mẫu Thượng Ngàn ở hai bên.
Chùa Mía không có lễ hội riêng, ngoài lễ vào các ngày sóc – vọng hàng
tháng, thì các lễ Tam nguyên và lễ Phật đản, lễ Phật thành đạo vào ngày rằm các
tháng Giêng, Tư, Bảy, Mười, Chạp đều thu hút phật tử cả vùng. Chùa Mía có nguồn
gốc cung đình, song ngay từ đầu đã đậm tính chân quê, không chỉ gắn với làng mà
với cả vùng./.
(Nghìn năm Thăng Long/Vietnam+)