Ngôi
chùa Báo Ân là một di tích được xây dựng vào thời Trần, nằm ở tả ngạn
sông Thiên Đức, nay thuộc địa phận thôn Trung, xã Dương Quang, huyện
Gia Lâm, cách trung tâm Thủ đô khoảng gần 20km. Từ Hà Nội, qua cầu
Chương Dương, dọc theo đường Nguyễn Văn Cừ, du khách rẽ vào đường Quốc
lộ 5, đến Phú Thị tiếp tục rẽ trái sẽ đến Dương Quang, một xã nằm giáp
ranh giữa Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh.
Ngôi
chùa Báo Ân là một di tích được xây dựng vào thời Trần, nằm ở tả ngạn
sông Thiên Đức, nay thuộc địa phận thôn Trung, xã Dương Quang, huyện
Gia Lâm, cách trung tâm Thủ đô khoảng gần 20km. Từ Hà Nội, qua cầu
Chương Dương, dọc theo đường Nguyễn Văn Cừ, du khách rẽ vào đường Quốc
lộ 5, đến Phú Thị tiếp tục rẽ trái sẽ đến Dương Quang, một xã nằm giáp
ranh giữa Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh.
Theo
sử sách và truyền thuyết dân gian thì đây là một ngôi chùa lớn, có quan
hệ với cuộc đời tu hành của ba vị Tổ sư phái Trúc Lâm thời Trần là vua
Trần Nhân Tông, sư Pháp Loa và sư Huyền Quang.
Các tài liệu về lịch sử phật giáo thời Trần như Tam tổ thực lục, Tam tổ hành trạng….đều
cho biết chùa Báo Ân liên quan mật thiết đến Thiền phái Trúc Lâm thời
Trần. Tên Báo Ân có nghĩa báo đáp lại 4 ân đức lớn của cha mẹ; của
chúng sinh; của vua và Tam bảo (Phật- Pháp- Tăng), một cái tên mang đậm
tinh thần và triết lý của Phật giáo thiền. Truyền thuyết dân gian nơi
đây cũng kể lại rằng, trước khi vua Trần Nhân Tông nhường ngôi đi tu,
quên mình làm đạo, Ngài đã cùng Hoàng hậu qua chùa Báo Ân, nghỉ lại một
đêm trước khi lên Yên Tử. Truyền thuyết này có thể phản ánh một sự thực
lịch sử như trong Tam tổ thực lục đã ghi. Đó là ngày
15/10 năm Mậu Thân (1308), trong dịp về thăm Công chúa Thiên Thụy bị
bệnh nặng, Ngài đã ngủ lại một đêm ở Siêu Loại trên đường từ Thăng Long
trở lại Yên Tử. Sau khi Trần Nhân Tông hoá ở Yên Tử, vua Anh Tông đã
cho đúc hai pho tượng của Ngài bằng vàng, một pho để chùa Báo Ân, môt
pho để ở chùa Vân Yên núi Yên Tử. Ngài đã lập 3 sở giới đàn ở 3 nơi, đó
là chùa Chân Giáo trong Hoàng Thành, chùa Báo Ân ở Siêu Loại và chùa
Phổ Minh ở Thiên Trường.
Những chi tiết trên đây được chép trong Tam tổ thực lục
cho thấy chùa Báo Ân hẳn có quy mô rất lớn và hết sức gắn bó với cuộc
đời của vua Trần Nhân Tông, một trong những vị vua để lại nhiều công
tích lớn cả trong chính trị và ngoại giao, đặc biệt là trong hai cuộc
kháng chiến lớn chống quân xâm lược Mông Nguyên vào những năm 1285 và
1287.
Nhưng
phải tới Pháp Loa, đệ nhị tổ của Thiền phái Trúc Lâm thì chùa Báo Ân
mới thực sự có vị trí quan trọng. Từ chùa Báo Ân có thể bằng đường thuỷ
ngược phía Bắc lên Yên Tử, sang Đông đến Côn Sơn- Kiếp Bạc, về Nam
đến Thiên Trường. Chính Trần Nhân Tông là người đã đặt pháp danh cho sư
Pháp Loa vào năm 1305 và cũng chính Ngài sai Pháp Loa khai đường và trụ
trì chùa Báo Ân vào ngày 1 tháng Giêng năm Mậu Thân, niên hiệu Hưng
Long 16 (1308). Vua Trần Nhân Tông còn lập sư Pháp Loa làm giảng chủ ở
chùa Báo Ân vào năm Hưng Long thứ 14 (1306) và cho sư Huyền Quang, Trúc
Lâm đệ tam tổ, làm thị giả. Trong sách Tam tổ thực lục
còn ghi năm Hưng Long thứ 21 (1313) sư Pháp Loa đã cho xây dựng lại
chùa Báo Ân, mọi phí tổn về vật liệu, thợ thuyền và tiền công đều do
nhà nước chu cấp. Vua Trần Anh Tông đích thân đến chùa 3, 4 lần và sai
các cấm binh khiêng gỗ, đổ đất. Gần đây, trong quá trình canh tác đã
tìm thấy các gạch có niên đại Hưng Long thứ 12 (1304), chứng tỏ cả sử
liệu thành văn lẫn cứ liệu hiện vật đều xác nhận vào khoảng cuối thế kỷ
13- đầu thế kỷ 14, chùa Báo Ân rất được các Vua triều Trần chú trọng.
Chùa
Báo Ân còn là một trung tâm truyền bá Phật Giáo, là nơi các sư Pháp Loa
và Huyền Quang đến giảng kinh. Rằm tháng giêng năm Quý Mão (1303), sau
khi vào kinh chầu Vua, sư Huyền Quang đã đến chùa Báo Ân giảng kinh Thủ
Lăng Nghiêm và ngồi thiền định tại chùa. Người nghe có hôm đông đến
ngàn người, thường cũng có đến 500- 600 người. Năm Đại Khánh thứ 10
(1323), sư Pháp Loa lại thể theo lời mời của Văn Huệ Vương và Uy Huệ
Vương tới chùa Báo Ân để truyền thụ những giới luật Bồ Đề và làm phép
tưới dầu cho hai vị Vương đó. những sự kiện được chép từ sách Tam tổ thực lục
nói trên cho thấy hoạt động sôi động của một trong những trung tâm
Thiền ở ngoại vi Thăng Long vào cuối thế kỷ 13- đầu thế kỷ 14.
Ngôi chùa Báo Ân hiện nay có quy mô nhỏ bé với bố cục mặt bằng hình chữ Đinh (J),
các công trình kiến trúc mới được xây cất gần đây. Nhưng nhân dân trong
vùng, đặc biệt là những người già còn nhắc tới ngôi Chùa Cả
vốn xưa kia nằm ở gò đất cao phía Tây chùa, có quy mô hoành tráng hơn
nhiều. Gò đất này cao hơn khu vực xung quanh từ 0,5-1m, có diện tích
khoảng hơn 15.000m2. Đáng tiếc, gần đây, gò đất đã bị khai thác đất, xây lò gạch.
Trong
chùa còn lưu lại được 6 tấm bia đá, 1 cây hương đá (Thiên đài), trong
đó tấm bia có niên đại sớm nhất là Đức Long năm thứ hai (1629) và muộn
nhất là tấm bia Thành Thái năm thứ 11 (1899). Nội dung những tấm bia
này ca ngợi ngôi chùa là một danh lam của xứ Kinh Bắc và ghi chép lại
những lần trùng tu sửa chữa dưới thời Lê và thời Nguyễn. Trên bề mặt di
tích thấy dấu tích của các loại vật liệu, móng kiến trúc và ống thoát
nước thời Trần. Trong quá trình canh tác, xây dựng và đào đất làm gạch
nhân dân trong vùng đã thu lượm được nhiều vật liệu và trang trí kiến
trúc thời Trần, Lê. Sưu tập hiện vật này hiện đang được lưu giữ tại
chùa Báo Ân và chùa Sủi do sư Thích Thanh Phương quản lý.
Trong
chương trình nghiên cứu khảo cổ học, tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long- Hà Nội, di tích chùa Báo Ân với những giá trị lịch sử- văn hoá to
lớn đã được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam coi là một trọng điểm những và
khai quật.
Kỳ sau: Kết quả khai quật di tích chùa Báo Ân (Gia Lâm- Hà Nội)