Được đăng bởi : Mytour.vn
Chùa tọa lạc ở ấp Thanh Ba, xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. ĐT: 072.874119. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa do Thiền sư Viên Ngộ dựng vào năm 1808 với tên chùa Lan Nhã.
Thiền sư Viên Ngộ húy Tánh Thành thuộc Thiền phái Lâm Tế chi phái Liễu Quán đời thứ 39. Ở nhà Tổ của chùa có đặt thờ bài vị các vị Tổ dòng thiền Liễu Quán: Tổ Thiệt Diệu – Liễu Quán (đời thứ 35), Tổ Tế Nhơn – Hữu Bùi (đời thứ 36), Tổ Đại Bửu – Ngọc Sâm (đời thứ 37), Tổ Đạo Tứ – Quảng Thanh (đời thứ 38), Tổ Tánh Thành – Viên Ngộ.
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, Tăng Ngộ tên là Nguyễn Chất (có tài liệu ghi Nguyễn Văn Chất, Nguyễn Ngọc Ngộ) người huyện Phước Lộc, phủ Tân An, tỉnh Gia Định. Năm 1806, Chất phát nguyện đi tu nhưng cha mẹ không cho. Cha của Chất còn bảo: “Ta nghe nói, đức Phật là nhất thiết không hư, không có vật gì dính ở thân mình. Mầy muốn bỏ trần theo Phật thì hãy xuống bếp lấy tay cầm than lửa đem lên đây cho cha hút thuốc, cha mới tin là con có chân tâm phụng Phật”. Nghe cha nói xong, Chất xuống bếp lấy than lửa bỏ trên bàn tay mang lên, than cháy bỏng cả lòng bàn tay. Người cha phải cho Chất đi tu.
Ngài xuất gia tại chùa Vĩnh Quang, được ban pháp danh là Viên Ngộ, người đời thường gọi là Tăng Ngộ. Ngài học đạo với hai vị Hòa thượng Đạo Huệ – Huyền Quảng và Đạo Tứ – Quảng Thanh. Ngài chuyên tâm tu hành, giới hạnh trang nghiêm, mỗi ngày chỉ ăn bữa Ngọ.
Ngoài việc tu học, ngài còn tham gia những công việc của cộng đồng. Ngài đã phát tâm một mình chặt gai đốn cây, sửa con đường từ Đông sang Tây ở trong làng bị bùn lầy, cây cối rậm rạp, có cả hùm beo trú ẩn, để người dân đi được thuận tiện, an toàn.
Năm 1808, ngài đến làng Thanh Ba (Cần Giuộc) cất chùa Lan Nhã rộng lớn (sau chùa đổi tên là Tông Thạnh. Đến năm 1841, vì kỵ húy tên vua Thiệu Trị là Miên Tông nên chùa đổi tên là Tôn Thạnh). Tại chùa, ngài cho mời thợ đúc từ Quy Nhơn vào đúc pho tượng Bồ tát Địa Tạng bằng đồng. Lần đầu, do phía sau tượng còn khuyết một lằn to bằng ngón tay, nên lần sau, ngài Viên Ngộ đã chặt một ngón tay ở bàn tay phải của mình bỏ vào nồi đồng, pho tượng được viên mãn.
Theo kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, đức Phật Thích Ca phó chúc cho ngài Địa Tạng cứu độ chúng sanh sau khi Phật nhập Niết bàn cho đến lúc đức Di Lặc ra đời. Biểu tướng của ngài thường được các chùa tạc tượng thờ là người xuất gia, đầu tròn, mặc áo ca sa, tay mặt cầm tích trượng có mười hai khoen (ý nghĩa là ngài luôn dùng pháp thập nhị nhân duyên cảnh tỉnh chúng sanh), tay trái nắm hạt minh châu (biểu thị ánh sáng trí tuệ).
Tượng Bồ tát Địa Tạng ở chùa cao 110cm, ngồi trên mình con thanh sư . Tay phải ở tư thế kết ấn, tay trái đặt ngửa ngang ngực, lòng bàn tay chứa hạt minh châu. Sách Sổ tay hành hương đất phương Nam (NXB. TP. HCM, 2002) cho biết đây là Bảo Châu Địa Tạng, là một trong sáu hình tướng của vị Giáo chủ cõi u minh – gọi là Lục Địa Tạng. Về tư thế tay là sự kết hợp giữa hai hình thức ấn quyết khác nhau: Thí vô ấn úy và An ủy ấn, làm cho tượng ít nhiều sinh động, giảm được tính chất đăng đối của thế ngồi trang nghiêm và sự tĩnh tại do hiệu quả của chiếc mũ tì lư trên đầu cùng con thanh sư quỳ mọp bên dưới bất động.
Về sau, cha ngài bị bệnh nặng, ngài lập đàn khấn nguyện trường tọa mười năm (ngồi luôn, không nằm) để cầu thêm tuổi thọ cho cha.
Năm 1820, trong vùng phát bệnh đậu mùa, nhiều người bị chết. Ngài lập đàn cầu kinh mật nguyện chung thân tịnh cốc (không ăn suốt đời) cầu nguyện cho người dân được bình yên. Cả vùng đều được bình an.
Đến năm 1846, ngài quyết định tuyệt thủy rồi viên tịch vào ngày 19 – 02 năm Bính Ngọ. Người trong làng xây tháp thờ Ngài trong khuôn viên chùa.
Tác giả Nhật Hà trong bài Chùa Tôn Thạnh được công nhận là Di tích lịch sư – văn hóa (Báo Giác Ngộ số 122, ngày 01 – 8 – 1998) cho biết tại xã Mỹ Lộc ngày nay có một địa danh Giồng Ông Ngộ để ghi nhớ công lao của vị cao tăng này.
Chính ở chùa này, cụ Nguyễn Đình Chiểu làm nơi viết văn, dạy học, hốt thuốc trị bệnh cứu người. Dưới mái chùa Tôn Thạnh, cụ đã cho ra đời nhiều tác phẩm văn học bất hủ như Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc… Hiện trong khuôn viên chùa có tấm bia kỷ niệm nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, dựng năm 1973. Nội dung trên bia được ghi bằng chữ Quốc ngữ như sau: “Dưới mái chùa Tôn Thạnh này, từ năm Kỷ Mùi (1859) đến năm Nhâm Tuất (1862), Đại Chí sĩ Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) bề ngoài mở lớp dạy học, bên trong lãnh đạo nghĩa binh chống Pháp. Và cũng nơi đây, cụ đã sáng tác thơ Lục Vân Tiên”.
Nhân dịp kỷ niệm 176 năm ngày sinh của cụ Nguyễn Đình Chiểu (01 – 7 – 1822 đến 01 – 7 – 1998), tỉnh Long An đã long trọng tổ chức Lễ rước bằng di tích lịch sử – văn hóa chùa Tôn Thạnh theo quyết định số 2890 của Bộ Văn hóa & Thông tin.
Điện Phật chùa được bài trí tôn nghiêm. Bàn thờ giữa tôn trí tượng đức Bổn sư Thích Ca, tượng Di Dà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí), tượng Đản sanh, tượng Di Lặc, tượng Hộ Pháp. Các bàn hai bên thờ tượng Bồ tát Địa Tạng, Thập bát La hán… đặc biệt, chùa còn giữ pho tượng cổ Tiêu Diện bằng đất nung.
Chùa đã được đại trùng tu năm 2005.
Chùa đặt văn phòng Ban Đại diện Phật giáo huyện Cần Giuộc.
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Bình luận