Trong lịch sử các triều
đại quân chủ Việt Nam, kể từ thời nhà Lý (1010-1225),
đàn Nam Giao đã được thiết lập ở Kinh đô Thăng Long
để tế trời. Trong thời Hậu Lê (1427-1788), quy cách kiến
trúc đàn tế trời và nghi lễ cúng tế được chỉnh đốn
đàng hoàng hơn.
Riêng ở Huế, xưa nay
có 4 vị trí xây đàn Nam Giao khác nhau để các vua lên tế
trời hàng năm, hoặc 3 năm một lần.
Dưới thời chúa Nguyễn
Phúc Lan (1635-1648), đàn tế trời được thiết lập ở
một khoảnh đất thuộc làng Kim Long, gần nơi chúa đóng
thủ phủ.
Qua triều Tây Sơn (1788-1801),
lễ tế trời diễn ra ở một ngọn đồi gần phía Tây
núi Ngự Bình, gọi là Hòn Thiên hay núi Ba Tầng.
Đến thời các vua nhà
Nguyễn, ngay sau khi lên ngôi (1802), vua Gia Long cho đắp đàn
ở làng An Ninh vào năm 1803 để tế trời.
Nhưng sau đó
3 năm, triều đình nhà Nguyễn lại bỏ vị trí ấy để
cho xây cái đàn tế khác ở làng Dương Xuân như chúng ta
đang thấy hiện nay. Đàn tế trời lộ thiên này được
khởi công xây dựng vào ngày 25-3-1806, do Thống chế Phạm
Văn Nhân đứng ra điều khiển. Nhân công làm việc tại
đây đều là lính và thợ thuộc bộ Công và bộ Binh.Không
thấy sử nói đàn làm bao lâu thì xong nhưng có lẽ hoàn
tất vào cuối năm ấy, vì qua đầu năm sau, 1807, triều
đình Gia Long đã cử hành lễ tế giao lần đầu tiên tại
đây.
Khuôn viên đất đàn Nam
Giao hình chữ nhật khá rộng rãi: bề dài 390m, chiều rộng
265m, giới hạn bởi một vòng tường thành xây bằng đá
bọc xung quanh. Trong khuôn viên ấy, ngày xưa trồng rất
nhiều thông, một loại cây tượng trưng cho người quân
tử. Khi mới xây đàn xong, người ta trồng một cụm thông
đứng biệt lập ở giữa phía nam đàn tế (trong khuôn viên)
để tượng trưng cho vua Gia Long. Tại khuôn viên này, các
hoàng thân và quan lớn trong triều mỗi người phải trồng
một cây. Ở mỗi cây treo một tấm thẻ bài bằng đồng
hay bằng đá khắc tên họ người trồng, ngày tháng năm
trồng và thước tấc của mỗi cây khi mới trồng. Các
quan có nhiệm vụ chăm sóc cây thông của mình, nếu thông
chết, phải trồng cây thông khác thế vào. Năm 1834, trong
một dịp lên tế giao, chính vua Minh Mạng cũng đã tự tay
trồng 10 cây thông ở Trai Cung. Nhà vua cho treo biển đồng
khắc bài bình do chính nhà vua soạn lên trên mỗi thân cây.
Nhờ chính sách "trồng cây gây rừng" như thế cho
nên ngày xưa ở đàn Nam Giao đã có được một rừng thông
xanh rì bát ngát.
Đàn Nam Giao được thiết
lập ở phía nam Kinh Thành Huế, Xây dựng đàn tế trời
ở vị thế ấy là giữ đúng nguyên tắc kiến trúc từ
ngàn xưa của Đông Phương.
Đàn Nam Giao triều Nguyễn
là một đàn tế lộ thiên. Mô thức kiến trúc này mang
ý nghĩa vừa tôn giáo vừa chính trị của nền quân chủ
Đông Phương, trong đó vương quyền được kết hợp chặt
chẽ với thần quyền. Đàn Nam Giao gắn liền với thuyết
thiên mệnh của đạo Nho. Nó cũng diễn tả được một
cách rõ ràng vũ trụ bị hạn chế của bao triều đại
trước trời tròn đất vuông.
Bên trong khuôn viên hình
chữ nhật (390m x 265m) có xây tường bằng đá để ngăn
cách thế giới bên ngoài, đàn đế được xây dựng thành
ba tầng, dưới lớn trên nhỏ chồng lên nhau, tượng trưng
cho thuyết tam tài: Thiên, Địa, Nhân. Mỗi tầng mang một
hình dạng và màu sắc riêng: trời tròn đất vuông, thiên
thanh địa hoàng.
Tầng trên hết hình tròn,
gọi là Viên Đàn (đường kính 40,5m x cao 2,80m), tượng
trưng cho trời. Lan can chung quanh quét vôi màu xanh. Đến
ngày tế giao, người ta dựng lên ở tầng này một cái
nhà hình nón lợp vải màu xanh gọi là Thanh Ốc.
Tầng kế có hình vuông,
gọi là Phương Đàn (mỗi cạnh 8,3m x cao 1m), tượng trưng
cho đất. Lan can bốn phía quét vôi màu vàng (địa hoàng).
Mỗi lần tế, người ta dựng lên ở đó một cái nhà vuông
lợp vải vàng, nhỏ hơn nhà trên gọi là Hoàng Ốc.
Tầng dưới cùng cũng
hình vuông, (mỗi cạnh 165m x cao 0,85m) lan can chung quanh quét
vôi màu đỏ, tượng trưng cho người (xích tử: con đỏ).
Tại đây, khi tế có 128 văn sinh và vũ sinh đứng múa.
Ba tầng cộng lại cao
4,65m.
Đàn Nam Giao quay mặt về
hướng Nam. Vòng tường bằng đá chung quanh khuôn viên của
đàn có trổ bốn cửa trông rất rộng nhắm theo bốn hướng
đông tây nam bắc. Trước mỗi cửa đều xây một bức
bình phong rất lớn (rộng 12,50m x cao 3,20m x dày 0,80m). Trong
dịp tế, trước mỗi cửa cắm hai lá cờ đại với màu
sắc khác nhau: cửa bắc màu đen, cửa nam màu đỏ, cửa
đông màu xanh, cửa tây màu trắng.
Như vậy, hình thức, phương
hướng và màu sắc kiến trúc đàn Nam Giao đều áp dụng
nguyên tắc âm dương ngũ hành của Dịch Học.
Những đàn tế trời của
các thời Lý, Lê, Trần, Tây Sơn đều không còn nữa. Đàn
Nam Giao triều Nguyễn ở Huế là di tích tế trời duy nhất
còn lại tương đối nguyên vẹn tại Việt Nam.
* * *
Gần đây, công chúng và
nhất là những người quan tâm đến các vấn đề văn hóa
vui mừng nhận được tin Nhà nước cho phép phục hồi đàn
Nam Giao - một di tích lịch sử đã xuất hiện gần 200 năm
nay tại Huế. Đây là nơi từng chứng kiến một nghi thức
truyền thống đã diễn ra trên đất nước ta từ lâu: lễ
TẾ GIAO.
Trời và Đất là hai ý
niệm quan trọng chi phối đời sống văn hóa và tư tưởng
của người Phương Đông. Các vua chúa ngày xưa thường
tự xưng là "con Trời" (Thiên tử), thay Trời để
chăm lo đời sống nhân dân. Vì thế, vua chúa thường phải
làm lễ tế cáo với Trời, Đất như một bổn phận của
con cái đối với cha mẹ, đồng thời cũng để cầu xin
sự an lành, hạnh phúc cho dân.
Lễ TẾ GIAO đã xuất
hiện ở Trung Quốc từ thời Nghiêu, Thuấn, cách đây hơn
4000 năm. Theo quan niệm thời đó, Trời thì tròn, Đất thì
vuông, cho nên trong năm, nhà vua làm chủ tế 2 lần khác
nhau: một lần vào tiết Đông chí, tế trời ở nơi viên
khâu (gò tròn), một lần vào tiết Hạ chí, tế đất ở
Phương Khâu (gò vuông). Gò tròn nằm ở phía Nam Quốc đô
nên gọi là Nam giao, gò vuông nằm ở phía Bắc Quốc đô
nên gọi là Bắc giao. Về sau, 2 lễ tế Trời, Đất gom
lại làm một và đàn tế gọi chung là đàn NAM GIAO.
Ở nước ta, tục Tế
Giao bắt đầu vào thời vua Lý Anh Tông (1138-1175). Nhà vua
cho lập đàn Viên Khâu ở thành Thăng Long, cứ ba năm một
lễ lớn, hai năm một lễ trung, một năm một lễ nhỏ.
Nhà Trần kế tục nhà Lý bỏ hẳn lệ Tế Giao trong gần
200 năm (1225-1400). Khi họ Hồ soán ngôi nhà Trần, Hồ Hán
Thương lập đàn tế Trời ở núi Đốn Sơn (Thanh Hóa).
Tương truyền, trong một buổi tế, Hán Thương run tay làm
đổ chén rượu nên truyền bãi tế. Người đương thời
cho đó là điềm gở của nhà Hồ. Năm 1428, Bình Định
Vương Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, định lệ Tế Giao vào
mùa Xuân, trong 3 ngày Xuân đán, chọn một ngày tốt để
làm lễ. Đến thời Lê Trung Hưng, nhà vua chỉ ngồi làm
vị cho chúa Trịnh giật dây: trong lễ Tế Giao, bên cạnh
nhà vua làm chủ tế trên điện chiêu sư, còn có chúa Trịnh
và quan tiết chế (thường là một thế tử con chúa Trịnh
giữ chức này) làm bồi tế. Lễ Tế Trời thời đó rất
giản lược, chỉ có lễ Thượng hương rồi đọc tờ tấu,
trước sau chỉ lạy 8 lạy (theo Vũ trung tùy bút của Phạm
Đình Hổ). Đến thời nhà Nguyễn, tháng 2-1806, vua Gia Long
cho lập Giao đàn ở phía Nam thành Phú Xuân và đàn chính
thức mang tên Nam Giao từ đó. Đàn chia làm 4 thành. Thành
thứ nhất là Viên đàn (đàn tròn, tượng trưng cho Trời),
thành thứ nhì là Phương đàn (đàn vuông, tượng trưng
cho Đất) thấp hơn Viên đàn; thành thứ ba và thứ tư thấp
hơn cả. Bên tả Giao đàn là Trai cung, nơi nhà vua ra đó
trai giới một ngày trước buổi lễ. Xung quanh đàn trồng
nhiều cây um tùm, rập rạp. Lúc bình thường, đàn chỉ
là những ô trống với nền đắp cao, khi tế lễ mới căng
vải dựng nhà, tế xong lại dỡ đi. Đời Gia Long đặt
ra lệ "Bốc giao" - Khâm Thiên giám chọn ra 3 ngày
lành trong tháng 2 tâu lên, nhà vua cho bói lại, lấy ngày
tốt nhất làm ngày Tế Giao. Trước lễ tế 3 ngày, cấm
tra khảo tù nhân, sát hại trâu bò. Đến đời Minh Mạng
lại đặt lệ "Thệ giao" - 3 ngày trước lễ tế,
nhà vua triệu tập đình thần ở điện Thái Hòa để tuyên
thệ về sự Tế Giao. Cuối thế kỷ XIX, vua Thành Thái đặt
ra lệ 3 năm Tế Giao một lần, không còn lệ 1 năm hay 2
năm một lần như trước nữa.
Một ngày trước lễ chính,
nhà vua đi từ cung điện đến Trai cung để trai giới. Quang
cảnh đường sá lúc đó đã vô cùng náo nhiệt. Các loại
cờ xanh, cờ đỏ, cờ đuôi nheo, cờ ngũ hành cắm san sát
hai bên đường. Các xã nằm quanh Kinh đô đều bày hương
án nối tiếp nhau trên đường vua đi, cứ vài thước lại
có một hương án.
Trong dịp lễ Tế Giao
vào tháng 3-1918, vua Khải Định ngồi trong loan giá, mặc
áo vàng, chít khăn vàng để đến Trai cung, các hoàng thân
và đình thần mặc triều phục đi theo. Đám đông đi tiếp
sau có cả ngàn người. Cuối đám rước có mang một hình
nhân bằng đồng gọi là đồng nhân, hai tay cầm một tấm
bảng khắc hai chữ "Trai giới". Loan giá nhà vua
đi đến đâu, các bô lão chờ sẵn cạnh hương án ở đó
đều sụp xuống lạy. Trước Trai cung, các quan đã chờ
sẵn, quỳ đón nhà vua. Đợi khi nhà vua vào ở hẳn trong
Trai cung, họ mới lục tục kéo về.
Chiều hôm đó, đình thần
tổ chức buổi Diễn nghi, tức là tế thử. Mọi nghi thức
của ngày lễ chính vào sáng hôm sau đều được diễn tập
cả, nhằm mục đích giúp các quan chức hữu trách được
thuần phục, không bỡ ngỡ, vấp váp khi đích tân nhà vua
làm chủ tế. Một quan Khâm mạng sẽ thay nhà vua làm chủ
tế trong buổi Diễn nghi này.
Đến đêm, đèn được
thắp sáng rực cả Giao đàn. Bên ngoài, dân chúng đi lại
như trẩy hội, nhưng bên trong thì lặng ngắt như tờ. Lính
An Nam và lính Pháp canh gác chặt chẽ, mọi hình thức ra
vào đều bị cấm chỉ. Đúng 0 giờ 40 phút sáng, vua Khải
Định lên xe từ Trai cung qua đàn Nam Giao để hành lễ.
Nhà vua đội mũ miện, mặc áo cổn, tay cầm ngọc trấn
khuê (hốt bằng ngọc); một số quan lại cầm quạt lông,
đèn lồng, đèn nến theo sau. Vua dừng lại ở nhà Đại
thứ làm lễ rửa tay, sau đó quan lễ bộ rước lên nhà
Hoàng ốc (nhà vuông căng vải vàng ở Phương đàn), đến
trước ngoại hương án, hành lễ nghinh thần theo lời xướng
của một viên quan Nội tán. Trong lúc đó, ngoài sân, phường
hát gồm hơn một trăm người vừa múa vừa ca khúc An Thành.
Trong ánh sáng lung linh giữa đêm trường, lời ca tiếng
hát vang vang, thấm đẫm vào lòng những người dân đứng
xem xa xa một cảm giác lâng lâng xúc động.
Bài hát vừa dứt, nhà
vua được mời lên Viên đàn, nơi có một cái nhà tròn
căng vải xanh, gọi là Thanh ốc, để làm lễ "Diện
ngọc bạch" (dâng ngọc lụa). Phường hát tấu khúc
Triệu thành. Tiếp theo là lễ "Tiến trở" (dâng
mâm trâu thui), tấu khúc Tiễn thành; lễ Sơ hiến (dâng
rượu lần thứ nhất), tấu khúc Mỹ thành.
Sau lễ Sơ hiến, nhà vua
quỳ xuống cho quan tư chức đọc chúc văn. Tiếp đến là
lễ Á hiến (dâng rượu lần thứ hai), phường hát tấu
khúc Thụy thành; lễ Chung hiến (dâng rượu lần sau cùng),
tấu khúc Vĩnh thành. Khi dàn nhạc cất tiếng, nhà vua làm
lễ Ấm phúc và Thụ tô (uống chén rượu cuối cùng, nhận
miếng thịt cuối cùng)
Trong lúc nhà vua hành lễ,
chỉ có những thượng khách như Toàn quyền Đông Dương,
Khâm sứ Huế và một vài quan chức cao cấp Pháp là được
đứng trên Viên đàn để chứng kiến. Các quan lại Việt
Nam từ tam phẩm trở lên phải phủ phục ở thềm đàn
thứ hai (Phương đàn), từ tứ phẩm trở xuống, phải phủ
phục ở thềm đàn thứ ba.
Buổi lễ dứt, phường
hát tấu khúc Nguyên thành. Nhà vua trở xuống Phương đàn
lạy 4 lạy để tống thần. Tờ chúc văn và các đồ bạch
soạn được đốt lúc đó. Xong, quan bộ Lễ rước vua xuống
đàn, trở về Trai cung. Lúc đó, vào khoảng 4 giờ rưỡi
sáng.
Nhà vua về Trai cung nghỉ
ngơi rồi thay khăn vàng, áo vàng ngự lên ngai để các quan
văn võ làm lễ Khánh thành trước sân Trai cung. Lễ xong,
nhà vua lên loan giá trở về cung điện. Hai bên đường,
các bô lão vẫn quỳ đón vua bên cạnh các bàn hương án.
Cảnh tượng bớt phần trang nghiêm hơn hôm trước, nhưng
sự vui vẻ trong công chúng có phần tăng lên.
Nghi lễ Tế Giao có một
tầm quan trọng đặc biệt trong sinh hoạt văn hóa thời
Nguyễn, nó thu hút sự quan tâm của ngay cả các viên chức
Pháp lúc bấy giờ. Paul Domer, viên Toàn quyền Đông Dương
nổi tiếng vào cuối thế kỷ XIX, đã dành một đoạn dài
trong tác phẩm "L'Indochine francaise Souvenirs" (Đông
Pháp - những kỷ niệm) xuất bản tại Paris năm 1905 để
mô tả khá chi tiết buổi lễ Tế Giao năm 1987 do vua Thành
Thái chủ tế. Còn học giả Phạm Quỳnh - chủ bút Nam Phong
tạp chí - vào năm 1918 đã thực hiện một chuyến Nam du
từ Hà Nội vào Huế, chủ yếu để tận mắt chứng kiến
lễ Tế Giao của vua Khải Định (mà một số nét chính
đã được kể ở trên).
Nhân dịp này, nhà học
giả cũng được thưởng thức Hội Hoa Xuân.
"Nhân dịp Nam Giao,
trong thành lại mở một hội đấu hoa nữa ở nơi vườn
hoa mới lập sau điện Long An, trước cửa bộ Học. Quan
dân nhà ai có chậu bông đẹp đều đem họp tại đấy.
Chiều chiều, những bậc trai thanh, gái lịch ở chốn Trường
An cũng đến họp mặt đông lắm, như muốn đua tài đua
sắc với trăm hoa…"
______________________________________________
(Di sản thế giới)