1. Hiện nay, có nhiều hố thám sát và khai quật được tiến hành ở các vị trí khác nhau trên gò đất, với diện tích gần 600m 2 .
Ngoại trừ dấu tích nền móng của lớp kiến trúc thời Nguyễn (cuối thế kỷ
19- đầu thế kỷ 20) đã huỷ hoại do lấy đất làm gạch, trong các hố đào
đều thể hiện rõ 2 lớp kiến trúc có niên đại Lê Trung Hưng (thế kỷ 17-
18) và thời Trần (thế kỷ 13- đầu 14). Lớp móng thời Lê Trung Hưng nằm ở
độ sâu trung bình 1m so với mặt bằng hiện tại. Móng kết cấu gồm một
hàng gạch xếp đứng, khoá hàng gạch lát phía trong. Giữa hàng gạch lát
và gạch khoá có một rãnh nhỏ rộng 5-7cm.
Thực
hiện đề án nghiên cứu khảo cổ học, tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long- Hà Nội, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, VP.Ban chỉ đạo kỷ niệm 1000
năm Thăng Long và Sở VH-TT Hà Nội đã tiến hành điều tra và khai quật di
tích chùa Báo Ân (vào các năm 2002, 2003, 2004).
Kết
quả thu được cho phép bước đầu nhận thức về ngôi chùa Báo Ân, một ngôi
chùa lớn thời Trần có quan hệ với cuộc đời tu hành của ba vị Tổ sư phái
Trúc Lâm thời Trần (vua Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang).
1. Hiện nay, có nhiều hố thám sát và khai quật được tiến hành ở các vị trí khác nhau trên gò đất, với diện tích gần 600m2.
Ngoại trừ dấu tích nền móng của lớp kiến trúc thời Nguyễn (cuối thế kỷ
19- đầu thế kỷ 20) đã huỷ hoại do lấy đất làm gạch, trong các hố đào
đều thể hiện rõ 2 lớp kiến trúc có niên đại Lê Trung Hưng (thế kỷ 17-
18) và thời Trần (thế kỷ 13- đầu 14). Lớp móng thời Lê Trung Hưng nằm ở
độ sâu trung bình 1m so với mặt bằng hiện tại. Móng kết cấu gồm một
hàng gạch xếp đứng, khoá hàng gạch lát phía trong. Giữa hàng gạch lát
và gạch khoá có một rãnh nhỏ rộng 5-7cm. Móng được xếp khít, không sử
dụng chất kết dính. Gạch hình chữ nhật có kích thước 30 x 12 x 5,5cm.
Kiểu kết cấu móng này đã gặp trong một số di tích thời Lê, rõ nhất là
khu di tích Lam Kinh (Thanh Hoá). Hiện nay còn chưa thể phục dựng được
mặt bằng và quy mô kiến trúc, nhưng dựa vào vết tích các đoạn móng dài
5 và 5,5m, có thể thấy kiến trúc thời Lê Trung Hưng trên cơ bản nằm đè
lên lớp móng thời Trần phía dưới.
Điểm
đặc biệt lý thú là việc phát hiện dấu tích móng và một số lượng phong
phú các loại vật liệu trang trí kiến trúc thời Trần nằm ở độ sâu từ
1,2- 1,6m (ảnh). Móng thời Trần được xếp gạch chữ nhật
so le có màu đỏ tươi, kích thước 32cm x 14cm x 4cm và 19,38cm x 19,4cm
x 3,5cm và cũng không dùng chất kết dính, tương tự như cách xếp móng
thời Lê. Đáng chú ý, có chỗ ở phía dưới đáy của móng được xếp thêm một
hàng gạch nghiêng ở phía ngoài để gia cố. Nhìn chung, lớp móng thời
Trần đã bị giai đoạn sau phá huỷ nặng nề. chúng
tôi cũng ghi nhận thấy hiện tượng bóc dỡ và tái sử dụng vật liệu thời
Trần ở những thời sau, đặc biệt là thời Lê Trung Hưng. Bên cạnh lớp
gạch bó móng, trong các hố khai quật còn tìm được những mảng nền được
lát bằng gạch vuông, có trang trí hoa cúc dây tinh tế, kích thước từ
31- 34cm, dày 5cm. Những mảng nền còn lại rộng từ 5-7m2 và còn ăn sâu vào vách hố đào.
Tuy
chưa tìm được toàn bộ các cạnh của móng, nhưng đã phát hiện được hai
góc của mặt bằng kiến trúc, cho phép chúng tôi đoán định kiến trúc có
hướng quay phía Tây, nhìn ra sông Thiên Đức. Trong lòng kiến trúc không
còn chân tảng nhưng vẫn nhận ra được dấu vết gia cố bằng ngói và gạch
đập nhỏ. Những vết gia cố này cho phép khôi phục được mặt bằng kiến
trúc chùa thời Trần.
Ngoài
móng và nền kiến trúc, còn thấy các hệ thống ống dẫn nước khá nguyên
vẹn chạy ngang/dọc, ở các cấp khác nhau trong hố đào. Ống nước được xếp
thẳng và liên kết với nhau bằng các đoạn ống đất nung hình trụ, dài
trung bình 20cm, đường kính từ 14- 15cm. Có những đoạn ống, một đầu
được dẫn vào một “hố ga” hình vuông bó bằng gạch bìa. Kiểu ống dẫn nước
này gặp ở khu di tích thời Trần Côn Sơn- Kiếp Bạc. Đây là bằng chứng
cho thấy, các “kiến trúc sư” đương thời đã rất lưu ý đến việc cấp thoát
nước và vệ sinh môi trường?
Ngoài
ra, còn có một mảng gia cố bằng gạch và ngói ken kiểu “nêm cối”, xếp
hình tròn, đường kính khoảng 3m. Cách gia cố này giống “con đường” ở di
tích Đoan Môn và di tích 18 Hoàng Diệu (Hà Nội). Tuy nhiên, chưa định
rõ chức năng. Có giả thiết đó là đường chạy đàn, nhưng chưa thuyết phục vì quy mô quá nhỏ.
2.
Sưu tập di vật chủ yếu là vật liệu kiến trúc và đồ gốm men, niên đại
kéo dài từ thế kỷ 13- 19, nhưng tập trung nhất là thời Trần (thế kỷ 13-
đầu thế kỷ 14).
Các
vật liệu kiến trúc và trang trí kiến trúc thời Trần hầu hết bằng đất
nung, được làm từ loại đất sét được lọc kỹ, màu đỏ tươi. Không thấy sự
tham gia của vật liệu kiến trúc bằng đá. Các loại gạch lát nền đều có
hình vuông, có viên được trang trí hoa cúc dây rất đẹp và rất điển hình
thời Trần. Loại gạch thẻ và gạch chữ nhật có ghi niên đại Hưng Long Thập Nhị Niên (1304) hoặc Vĩnh Ninh Tràng.
Ngói gồm các loại, mũi hài đơn, mũi hài kép, ngói ống để mộc hoặc tráng
men lưu ly, ngói bản. Đặc biệt là những loại ngói mũi hài và ngói ống
có gắn các tượng uyên ương và lá đề trang trí hình rồng phượng, tiên
nữ, cánh sen được chế tác rất tinh xảo. Đáng lưu ý trong số này là một
viên gạch ốp chạm hai tiên nữ đang múa với các dải lụa quấn quanh mình
trong hai khung chữ nhật. Hiện vật thứ hai là một hình lá đề chạm tiên
cưỡi mây, tay đang kéo đàn, đề tài thường gặp trong điêu khắc thời Trần
nhưng lần đầu thấy bố cục trên gạch hình lá đề (ảnh).
Ngoài ra, còn thấy một số mảnh trang trí các tháp với những môtíp hoa
lá và hình học rất ít thấy trên chất liệu đất nung thời Trần.
Đồ
gốm ít có những tiêu bản nguyên vẹn, với các loại hình bát, đĩa, âu,
chân đèn, lư hương. Những đồ gốm gia dụng như bát, đĩa, âu được phủ men
trắng ngà, men ngọc được trang trí hoa dây khắc chìm (ám hoạ). Đồ gốm
hoa nâu và men nâu chiếm tỷ lệ ít hơn. Ngoài ra còn thấy loại men lam
gỉ sắt, mà một số nhà nghiên cứu gọi là men tiền lam. Bên cạnh loại gốm men còn thu được một số lượng đáng kể đồ đựng bằng sành thời Trần gồm bình, vại, ang nông lòng.
Qua
nghiên cứu, cho thấy chùa Báo Ân là một ngôi chùa có quy mô to lớn, gồm
nhiều đơn nguyên kiến trúc, bao gồm cả chùa và tháp. Các công trình này
đều có quy mô “lớn” bởi đây là ngôi chùa “vua”, với sự quan tâm đặc
biệt của triều đình. Mặc dù diện tích khai quật còn “khiêm tốn”, nhưng
sự xuất hiện của các vết tích bó móng, nền, gia cố chân tảng…. cùng hệ
thống di vật đi kèm đã chứng minh điều đó.
Mặc
dù chưa thể phác dựng lại đầy đủ mặt bằng và quy mô to lớn của ngôi
chùa, nhưng kết quả khai quật ở di tích Báo Ân là rất có giá trị, đã
đem lại những nhận thức mới về nghệ thuật kiến trúc thời Trần cũng như
sự phát triển của lịch sử phật giáo Việt Nam và từng bước phát huy giá
trị trong đại lễ kỷ niệm Thăng Long- Hà Nội 1000 năm tuổi.