Nhà thờ và lăng đô đốc Nguyễn Công Triều

KTĐT - 

KTĐT - Thôn Đông Lao, xã Đông Lao, huyện Hoài Đức có công trình kiến trúc được Bộ VHTT công nhận là di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia từ năm 1996. Đó là nhà thờ Nguyễn Công Triều và lăng của ông.

Nhà thờ ở phía trước, lăng mộ ở phía sau, trong một khuôn viên rộng, có vườn cây cảnh, sân gạch. Phía chính diện xây bức bình hương, có trụ biểu ở hai bên. Sau sân là nhà thờ gồm ba nếp nhà song song hình chữ “tam”. Nhà ngoài là đại bái năm gian, nhà giữa là trung cung ba gian và nhà trong là hậu cung ba gian. Theo văn bia ở đây, cả ba nhà này được làm từ năm 1677-1678 khi đô đốc Nguyễn Công Triều còn sống. Ở nhà đại bái, ngay thềm hiên có tượng hai con chó đá cao 68 cm, vẻ mặt hài hước, ngồi hướng ra sân và quay đầu nhìn nhau. Trong nhà có đôi tượng ngựa hồng, ngựa trắng bằng gỗ cao hai mét. Đặc biệt có đôi voi đá khá lớn, đều ở dáng nằm. Con voi bên trái không có bệ là voi chở vật tư, cao 1,44 mét, dài 2,84 mét. Con voi đá bên phải là voi chiến, cao 1,20 mét, dài 2,13 mét, nằm trên bệ cao 1,26 mét. Hai con voi nằm đối nhau, dáng vẻ thảnh thơi. Riêng ngà voi được mài bóng, toàn thân chạm rất tự nhiên, sống động. Trong nhà trung cung, ở gian giữa treo bức hoành phi có bốn chữ Hán “Nam quốc vĩ nhân”. Phía dưới là hương án có nhiều hình chạm đẹp thuộc nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVIII. Nhà thờ Nguyễn Công Triều còn gọi là Linh Quang từ. Phía sau nhà thờ là lăng mộ của ông khá to. Trên tường gần cửa có tấm bia dựng năm 1678, thời vua Lê Hy Tông, nói về Hoàng Văn Tá, người thợ tài giỏi đã có công xây dựng lăng. Chính giữa là tháp mộ xây bằng đá xanh, hai tầng, cao gần bốn mét. Tầng dưới có bốn hàng cột gợi ra ba gian nhà, dựng trên nền ba bậc, dài tới 3,4 mét.

Bên cạnh lăng mộ còn có “Tĩnh gia đường”, gồm hai day nha song hành chữ “nhị”. Mỗi dãy nhà đều có năm gian với hai mái trước và sau, đầu hồi xây tường bít đốc, các vì kèo giống nhau theo lối kẻ truyền trên bố cột, có trụ tiêu đứng trên ao để chống nóc, mỗi mái có 11 hoành. Nhà trong có năm bàn thờ ở năm gian, từ giữa tỏa ra theo trật tự trái trước, phải sau thờ cộng đồng họ nội, họ ngoại... Cả hai dãy nhà đều làm cùng thời với Linh Quang từ (1677-1678) và đã sửa chữa vào năm 1899. Ở góc sau có tấm bia khối trụ, mái long đình, dựng trên đế vuông ba cấp, cao 2,17 mét. Trên bia có khắc bài văn và “cuốn sách đồng” làm năm 1687, nói về công lao của Nguyễn Công Triều với dân làng và các khoản ước dân làng thờ ông. Sách có 18 lá đồng, khổ 12,5x19 cm, liên kết với nhau bằng ba khuy tròn lồng qua lõ đục sát mép gấp. Đây là loại sách quý hiếm, rất ít thấy ở các đình, đền, chùa.

Các văn bia và “cuốn sách đồng” đều thống nhất cho biết: Nguyễn Công Triều sinh ngày 17/11/1614 ở làng Đông Lao. Ông là con một gia đình nông dân nghèo, sau khi cha mẹ qua đời, ông ra nương nhờ chùa Đại Bi. Năm 18 tuổi, Nguyễn Công Triều ra kinh đô Thăng Long, làm lính dạy voi, rồi làm hoạn quan. Từ một người lính huấn luyện voi chiến, có tài dùng tượng binh, ông trở thành một vị tướng lập được nhiều công trong việc đánh giặc ở phương Bắc, dẹp các cuộc nổi loạn ở Tuyên Quang, được cử giữ chức đô đốc, thiếu bảo, tước Kiên quận công.

Đối với quê hương, ông luôn quan tâm đến đời sống của dân làng Đông Lao. Ông đã dùng tiền lương của mình để xây dựng trường học, đào giếng, mở chợ, làm đường, xây đình, chùa, đào mương dẫn nước vào ruộng... được dân làng biết ơn. Năm 1690, ông qua đời, thọ 76 tuổi.

Cùng với nhà thờ ở làng Đông Lao, đô đốc Nguyễn Công Triều còn được thờ ở chùa Đại Bi, cùng làng. Tượng chân dung ông đặt ở một ban thờ trong ngôi chùa này, đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Một người có công với dân với nước như Nguyễn Công Triều xứng đáng được các thế hệ sau tưởng niệm. Hằng năm vào ngày mất của ông, 24 tháng 5 âm lịch, dân làng lại đến nhà thờ, lăng mộ ông, thắp nén nhang để tỏ lòng thành kính, tri ân.

Thu Hoa

Tin mới