ĐỀN THỜ – LĂNG MỘ THIỀU QUẬN CÔNG PHẠM HUY ĐĨNH
Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh
và quần thể tượng đá kỳ lạ tại
ngôi đền thờ – lăng mộ Từ Vũ, Thái Bình
Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh quê xã Cao Mỗ, tổng Cao Mỗ, phủ Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình, nay là làng Cao Mỗ, xã Chương Dương, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
Ông sinh giờ Tuất ngày 12/5 năm Bính Ngọ (năm 1726) mất giờ Thìn ngày 18/11 năm Ất Mùi (1775). Thời gian sống và công hiến của ông khoảng giữa thế kỷ 18, đó là thời kỳ xã hội phong kiến ViệtNamduy trì thể chế vua Lê – chúa Trịnh.
Từ nhỏ, Phạm Huy Đĩnh là người hiếu động, tính khí khác người. Ông là người quý tướng, sớm rèn luyện văn chương, võ nghệ theo nếp người xưa. Ông đỗ cử nhân rồi xuất thân, ban đầu là Thị nội ở phủ Tĩnh Vương, mọi việc đều đúng theo ý Chúa. Phàm việc nghị án, tuần sát… đều rất mực trung thành với phủ liêu, sau được bổ nhiệm làm Tể tướng. Khi mất, ông được phong chính trực huân du Đại vương.
Theo các cụ kể lại và gia phả của dòng họ Phạm Huy tại xã Chương Dương, Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh nguyên là quan văn, khi đất nước rơi vào cảnh chiến tranh, ông được vua Lê, chúa Trịnh cắt cử đi dẹp loạn ở đất Đồng Mỏ, Lạng Sơn. Địa danh Đồng Mỏ, Lạng Sơn cũng chính là do ông đặt vì nó liên quan với địa danh Cao Mỗ quê ông.
Tại sinh từ hiện nay còn hai tấm bia do Tiến sỹ Thượng thư Nguyễn Nghiễm (thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du) và Bảng nhãn Thượng thư Lê Quý Đôn viết, đều ca ngợi ông, coi ông là bậc đại trí, đại cường, là cây đại thụ ở đời (theo Đất và người Thái Bình, Trung tâm Unesco – Thông tin tư liệu lịch sử văn hóa Việt Nam, xuất bản năm 2003).
Bút lục trên hai tấm bia có ghi: “Ngài tiếp nối chí hướng của vị Tiên công, luôn nghĩ đến việc an dân, bảo vệ dân, hưng điều lợi, trừ điều hại, giúp đỡ khẩn cấp, gỡ bao mối rối trong triều ngoài quận. Cả nước đều chịu ơn ban tứ của ngài, kiêm cái uy vọng ngài vốn là bậc tài giỏi, nhanh nhẹn, nơi nơi vui mừng như đền đài xuân.
Dân yêu kính ngài như cha mẹ, coi ngài như ngôi tuế tinh, nhờ vào bóng mát của cây cao bóng cả, ai nấy ôm ấp trong lòng sự báo đền cỏ rác với ngài mà chưa thực hiện được”.
Bởi vậy, cuối đời, ông được vua Lê – chúa Trịnh (thế kỷ 18) gia ân về quê xây phần lặng mộ – ngôi đền thờ và nhân dân địa phương hiệp lực lo toan xây dựng sinh từ. Chính ông không muốn như thế nhưng để thuận lòng dân, ông đã bỏ 2.000 quan tiền chi phí việc điêu khắc trang trí, hơn 20 mẫu ruộng tốt làm nhu phí cho việc tần tảo nguyên vật liệu.
Sinh từ được nhân dân địa phương tân tạo vào năm Cảnh Hưng 33 (1772) và là Từ Vũ của huyện Thần Khê, đến nay đã gần 240 năm. Hàng năm có hai lễ được tổ chức: ngày 12/5 (ngày sinh) và ngày 18/11 (ngày kỵ).
Dòng họ Phạm Huy của xã Chương Dương, hậu duệ của ông sau bao đời đã truyền nhau thờ tự. Đến thời điểm hiện tại, dòng họ Phạm Huy đã ba lần trùng tu: lần thứ nhất vào năm Giáp Thìn 1904, lần thứ hai vào năm Bảo Đại 19 (Giáp Thân – 1944), lần thứ ba vào năm 2002 (được quỹ Việt Nam – Thụy Điển tài trợ 45 triệu đồng).
Đền Từ Vũ và quần thể tượng đá được UBND tỉnh Thái Bình cấp bằng Di tích lịch sử Năm 2002.
Quần thể tượng voi đá, ngựa đá bí ẩn
Quần thể tượng voi đá, ngựa đá, lính hầu bằng đá khổng lồ tồn tại duy nhất tại xã Chương Dương, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình hàng trăm năm nay tọa lạc trong sân thờ của ngôi đền thờ và lăng mộ Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh.
Quần thế tượng đá này bao gồm một đôi voi đá, một đôi ngựa đá nằm phủ phục, xen kẽ là ba cặp tượng quân hầu bằng đá mang theo gươm, đao… đứng hầu. Ngay phía ngoài cổng của ngôi đền là một cặp tượng đá sắp hai bên; phía ngay ngoài đường bên kia chiếc hồ hình chữ nhật là một cặp tượng quân hầu bằng đá khác gác cổng. Lối bài trí, sắp đặt hệt như quần thể tượng đá tại lăng vua Minh Mạng trong Đại nội Huế.
Tổng số tượng đá cả người, cả ngựa, voi đá… là 14 pho tượng khổng lồ, có kích cỡ to hơn người thường. Mỗi pho tượng là một khối đá liền khối, loại đá xanh chỉ có ở vùng núi đá Thanh Hóa – nơi nhà Hồ đã lấy để xây thành.
Ngoài ra, hai khối bia hình trụ có chân kê, có nắp đậy cũng bằng đá… là hai tấm bia hình trụ duy nhất Việt Nam: một tấm bia khắc bản tự do nhà bác học Lê Quý Đôn viết; một tấm bia khắc bản tự do cụ Nguyễn Nghiễm – thân sinh ra Đại thi hào Nguyễn Du viết (trụ rỗng, có đỉnh và đế cao 2,05 mét; đỉnh bia là khối đá dật ba cấp hình vành khăn, theo hình tháp. Thân bia cao 1,1m; chu vi 2,2 mét. Mặt bia chạm văn tự chữ Hán cổ gần như phủ kín).
Tất cả đều có nội dung ghi lại lịch sử, xuất thân, cuộc đời nhiều công đức của Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh cùng những thông tin về việc vua Lê – chúa Trịnh vinh hiển cho dòng họ Phạm Huy điền thổ, ngân khố… xây dựng đền thờ Thiều quận công.
Phía sau sinh từ là một lăng mộ thời hậu Lê, quách mộ bằng đá ong hình hộp có diện tích 4,0m x 1,7m x 1,5m. Nguyên liệu gắn kết các viên đá ong đến nay vẫn chưa biết rõ, nhưng các mạch đá khít nhau và thẳng như sợi chỉ đặt. Tương truyền, những viên đá ong có thể chuyển từ vùng Bất Bạt, Sơn Tây về – quê hương của cụ Tổ họ Phạm 7 phái.
Công -Danh Thiều quận công Phạm Huy Đĩnh và Đền Từ Vũ với một quần thể tượng đá có những pho tượng khổng lồ nặng hàng tấn là niềm tự hào của Họ Phạm Việt Nam nói chung và dòng họ Phạm Huy nói riêng. Và bằng cách nào có thể vận chuyển những pho tượng này từ vùng núi rừng xa xôi hiểm trở về ngôi đền thờ ở giữa vùng lúa Thái Bình là một điều kỳ lạ ít người biết đến…
Chiến PT
Tóm lược từ: “Bí ẩn hai hàng voi, ngựa đá ở Thái Bình”
của Trung Kiên, Vnnet.vn
Một vài hình ảnh về Đền Từ Vũ và những pho tượng đá