Chủ Nhật, 12/02/2012 - 15:22

Huyền bí “bảo tàng đá” lớn nhất Việt Nam

Hàng nghìn hiện vật bằng đá có niên đại trên 300 năm, nằm rải rác tại địa bàn vẫn còn là một bí ẩn đối với giới nghiên cứu khoa học khi tìm hiểu về giá trị về lịch sử, văn hóa, mỹ thuật, kiến trúc…

Theo thống kê, tỉnh Bắc Giang hiện có 46 lăng đá cổ, trong đó phần lớn tập trung tại huyện Hiệp Hòa với 26 lăng, Việt Yên 11, Tân Yên 5. Những lăng đá tiêu biểu như: Dinh Hương, Nội Dinh, Bầu Đá, Vân Cẩm, lăng họ Ngọ, họ Trần…

  

Những bức tượng đá cổ với nét chạm khắc tinh xảo vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt"

 

 “Trơ gan cùng tuế nguyệt”

 

Ở Hiệp Hòa (Bắc Giang) có một “Bảo tàng đá” được xem là lớn nhất nước, tồn tại mấy trăm năm mà vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” trước thách thức thời gian. Đó là hệ thống các lăng tẩm bằng đá- nơi an táng của những bậc tước hầu, quận công trong các triều đại phong kiến xa xưa.

 

Mấy thế kỷ trôi qua, hệ thống lăng đá ở Bắc Giang vẫn còn khá nguyên vẹn. Những bức tượng bằng chất liệu đá xanh quy mô, bề thế hình người, voi, ngựa, sấu, nghê, chó… được đục đẽo, chạm trổ một cách tinh xảo, công phu và bày đặt nghiêm trang tầng tầng, lớp lớp theo phong cách đăng đối, đối xứng xung quanh khu lăng mộ, khiến chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng như lạc bước vào cõi đá của thế giới người xưa. Hầu hết các công trình lăng đá được xây dựng từ thế kỷ thứ 17 - 18 dưới thời Lê Trung hưng. Kiểu kiến trúc điển hình là phía ngoài lăng được xây tường bao quanh bằng đá ong, trong có bia đá, xung quanh là tượng quan hầu võ tướng, phía trước có hồ nước tụ thủy, cây cối thâm u, thường có mộ táng hợp chất kèm theo (Kiểu mộ ướp xác, có thể giữ cho thi thể người chết còn khá nguyên vẹn trong một thời gian dài.

  

Cổng “lăng” bằng đá với những bức phù điêu độc đáo còn sót lại.
 

  

Theo đó, thi hài được ngâm vào dầu thông cho thơm và mặc rất nhiều quần áo đẹp có thêu hình rồng phượng rồi đặt trong một cỗ quan tài bằng gỗ thông, loại gỗ có hương thơm, rồi bỏ nhiều chè búp, hoa hòe, giúp cho xác ướp được thơm và khô ráo…). Nhưng giá trị độc đáo nhất của khu lăng đá là nghệ thuật tạc tượng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam. Các đề tài thể hiện phong phú, trong đó có tượng voi ở nhiều tư thế ngồi, đứng, quỳ, phục, vòi cuộn lại, cổ đeo chuông lớn. Tượng ngựa tạc theo kiểu: yên cương, nhạc ngựa, lục lạc, ngò hoa, vải phủ, khăn thêu... Tượng nghê và sấu được miêu tả rất có hồn; chó được miêu tả đơn giản hơn, ít phức tạp hơn song không vì thế mà mất đi nét độc đáo riêng.
 
 



 

Quá khứ huy hoàng

 

Nằm trọn trong một khu đồi cao ráo thuộc xã Đức Thắng, ba bề bốn bên là đồng ruộng, cảnh sắc chất chứa nhiều nét huyền thoại u tịch, lăng đá Dinh Hương được xây dựng thời Hậu Lê (năm 1727) dưới triều vua Lê Dụ Tông.

 

Theo dân gian truyền lại: Chủ nhân khu lăng  đá  này một vị quan có nhiều công lao với triều đình nhà Lê. Hai lần được nhà vua cử đi sứ phương Bắc. Năm 1740, dưới triều đại vua Lê Hiển Tông, vị quan này cầm quân đi dẹp loạn ở các vùng thuộc đạo Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương, năm 1749 ông mất. Khu lăng đá được chủ nhân tự lựa chọn, xây dựng cho mình từ khi vẫn còn sống. Toàn bộ chất liệu bằng đá xanh, được các hiệp thợ vùng Kinh Bắc đục đẽo một cách tinh tế với những hình thù, họa tiết cầu kỳ, phong phú. Cấu trúc lăng được chia làm ba phần khá đồ sộ và hoành tráng gồm: Phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia đá ở bên phải. Phần mộ táng hình vuông, diện tích gần 100m2 với tường vây bằng đá ong… Theo đánh giá đây là một trong những lăng đá hoành tránh và đẹp nhất tại Bắc Giang.

 

Được xây dựng trước lăng Dinh Dương, lăng họ Ngọ (thôn Thái Thọ, xã Thái Sơn) có niên đại 1697, đời vua Lê Hy Tông- nơi lưu giữ di hài Phương quận công Ngọ Công Quế. (Lăng xây dựng khi ông vừa được nhà vua phong là: Đặc tiến kim tử, vinh lộc đại phu, giữ chức phó tả thị nội thư, tả binh phiên, tư lễ giám).

 

Theo các tư liệu lịch sử,  Ngọ Công Quế là bậc văn võ song toàn, tư cách khoan hòa độ lượng, với việc nước thì tận tâm phụng sự, với quê hương ông hết lòng quan tâm giúp đỡ. Toàn bộ kiến trúc ngoại thất của lăng được xây bằng chất liệu đá muối và đá ong lấy ở núi IA cách đó khoảng 1,5 km. Trực tiếp Ngọ Công Quế thuê các thợ đục đá giỏi nhất vùng về làm lăng mộ cho chính mình. Bố cục kiến trúc theo hướng Nam, hình chữ nhật với diện tích khoảng 400m2. Trên khu đất trước phần mộ là hai dãy tượng chầu đặt theo lối đăng đối hai bên đường thần đạo: hai con voi phục, hai cặp người dắt ngựa, hai con sấu bằng đá xanh. Phía sau hương án là cổng vào phần mộ có mặt bằng 15,1 m x 12,5 m có tường đá bao quanh cao 1,9 m. Trước phần mộ là một hương án để tế lễ, cạnh hương án có hai con nghê ngồi chầu và ngẩng cao đầu. Hai bên hương án là hai bàn đá dùng để đặt các đồ tế lễ. Trên nền cổng phần mộ chạm hai người đứng hầu, trên cổng khắc chữ "Linh Quang Từ"…

 

Ngoài những lăng đá kể trên, huyện Hiệp Hòa còn nhiều lăng đá khá đẹp,  độc đáo và hoành tráng khác như: lăng họ Bùi, lăng họ Hà, lăng họ Khổng, lăng họ Ngọ,…

 



 Bao giờ lăng đá “thôi buồn”?

 

Thâm trầm, hoành tráng và kỳ bí là những cảm giác của chúng tôi khi tiếp cận những khu lăng mộ trên. Mấy trăm năm đã trôi qua song đến nay, những khu lăng đá này vẫn là những bài toán chứa nhiều ẩn số đối với các nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa, những bí ẩn về “công nghệ” ướp xác, nghệ thuật tạo tác, ý nghĩa tạo hình trong kiến trúc, tượng thờ… Tuy nhiên, tham quan một vòng qua các lăng mộ ở đây, chúng tôi không khỏi xót xa cho những hiện vật đá nằm trơ trọi giữa những khu đất bỏ hoang, cỏ dại mọc um tùm. Một cảm giác lạnh lẽo, u vắng bao trùm trên các khu lăng mộ, hương khói tắt lạnh đã lâu mà hậu duệ của các vị quan ấy cũng cũng chẳng thấy chạnh lòng? Được biết, vài năm trước đây tỉnh Bắc Giang đã hỗ trợ kinh phí tu sửa, bảo vệ các khu lăng đá này nhưng việc làm đó vẫn chỉ như “muối bỏ biển”, đến nay nhiều công trình bị xuống cấp, xâm hại và bỏ hoang. Mộ số lăng không còn tường bao bằng đá ong như cũ, nhiều lăng mộ, nhiều pho tượng bị phá vì những lời đồn đại có vàng bên trong (lăng Dinh Hương, lăng Nội Dinh...), nhiều lăng mộ bị đào bới để truy tìm đồ quý. 

 

> Sở hữu một số lượng lớn các lăng đá cổ và độc đáo vào bậc nhiều nhất nước hiện nay nhưng hệ thống di sản kể trên chỉ tồn tại một cách lặng lẽ bên những cánh đồng làng.

 

Tỉnh Bắc Giang hiện vẫn chưa tìm ra một hướng đi cụ thể nào để đầu tư, quảng bá, thu hút du khách đến tham quan hệ thống các di sản này, các đoàn du lịch chủ yếu đến tự phát và nhỏ lẻ trong thời gian ngắn…

Hiệp Hòa là vùng đất “địa linh, nhân kiệt”, tại đây những dòng họ lớn, có nhiều người đỗ đạt, làm quan, các tướng lĩnh có nhiều cống hiến, công lao qua việc phò tá triều đình phong kiến, những dòng họ nổi tiếng là: Ngô, Ngọ, Lê, Trần, Giáp, Dương, Khổng… từng rạng danh trên đất Kinh Bắc mấy thế kỷ qua. Một trong những bằng chứng thuyết phục nhất là hệ thống các lăng tẩm, thành quách tư gia của những ông quan này. Vùng Kinh Bắc xưa, nay gồm Bắc Giang, Bắc Ninh có truyền thống khoa bảng, trong 73 khoa thi (1554-1787), thì chỉ riêng Kinh Bắc có tới 199 vị tiến sĩ vào làm quan lớn trong triều đình.

 

Chính những vị này, khi về già thường về quê chọn đất xây lăng mộ làm chỗ nghỉ vĩnh hằng cho mình, cũng là  nơi để dòng tộc thờ phụng. Vì vậy, khi xây dựng lăng tẩm cũng được chủ nhân lựa chọn rất kỹ về phong thủy, phong cách nghệ thuật. Điều độc đáo nhất của các lăng đá ở Bắc Giang là nghệ thuật điêu khắc được thể hiện qua những tượng người, tượng thú, nhà bia - bia - cổng lăng - mộ - nhà mộ và đồ thờ. Với những giá trị độc đáo về lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, hầu hết các lăng mộ đều đã được nhà nước xếp hạng di tích cấp quốc gia. Đã có nhiều nhà nghiên cứu và du khách về đây tìm tòi, chiêm bái và thưởng ngoạn hệ thống di tích độc đáo này. Mặc dù mang trên mình những giá trị vô giá ấy nhưng đến nay các khu lăng đá này dường như vẫn bị chìm sâu trong gấc ngủ dài mà chưa được đánh thức.

  



Sở hữu một số lượng lớn các lăng đá cổ và độc đáo vào bậc nhiều nhất nước hiện nay nhưng hệ thống di sản kể trên chỉ tồn tại một cách lặng lẽ bên những cánh đồng làng. Tỉnh Bắc Giang hiện vẫn chưa tìm ra một hướng đi cụ thể nào để đầu tư, quảng bá, thu hút du khách đến tham quan hệ thống các di sản này, các đoàn du lịch chủ yếu đến tự phát và nhỏ lẻ trong thời gian ngắn…, Tương lai, nếu biết khai thác thì đây sẽ là điểm đến đầy hấp dẫn đối với du khách bốn phương. Hiện nay, tại khu trưng bầy ngoài trời của Bảo tàng tỉnh Bắc Giang có trưng bày nhiều hiện vật đá được phục chế theo tỷ lệ 1:1 so với các tượng đá ở lăng đá trên để phục vụ du khách tham quan, nghiên cứu.

 

> Theo Tiến sĩ Nguyễn Huy Hạnh, nguyên Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, người có nhiều năm nghiên cứu về những khu lăng đá này cho hay: Lăng tẩm ở Bắc Giang là công trình kiến trúc dành để chôn cất những quan lại cao cấp thời Lê- Trịnh và thường được xây dựng ngay trên quê hương của người đó.

 

Lăng đá được xây dựng sớm nhất là lăng Đĩnh quận công Ngô Công Mỹ, xã Thái Sơn được xây dựng vào năm Thịnh Đức thứ 3 (1655), lăng xây dựng muộn nhất là lăng Lan trung hầu Nguyễn Hạnh Thông, xã Đông Lỗ niên đại năm Cảnh Trị thứ 9 (1771). Đây có thể xem là một “Bảo tàng đá” tiêu biểu cho nền nghệ thuật xây dựng và điêu khắc lăng mộ đã phát triển đến đỉnh cao và giữ vị trí quan trọng trong nền kiến trúc, điêu khắc nghệ thuật lăng tẩm Việt Nam.

 
 
Theo Kim Sa
Giadinh.net