LÝ LỊCH DI TÍCH CHÙA PHÁP VÂN
1-Tên gọi
Thôn Văn Giáp, xã Văn Bình, huyện Thường Tín từ lâu đời đã có ngôi chùa này. Nhân dân thường gọi là chùa Văn Giáp, chùa Hai Bà, nhân dân thập phương còn gọi là đền Bà Sáng. Văn bia cổ thời Lê còn ghi tên chữ là Bồ Đà Tự.
Thực ra ngôi chùa này thờ Phật theo hệ thống Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Lôi, Pháp Vũ, Pháp Điện). Thời cổ, bên cạnh chùa Pháp Vân, còn có một ngôi chùa nữa thờ Pháp Lôi nên nhân dân quen gọi cụm chùa này là chùa Hai Bà. Năm 1947, trong kháng chiến chống Pháp, ngôi chùa thờ vị Pháp Lôi bị phá nên chỉ còn chùa thờ vị Pháp Vân. Ngày xưa, người ở nơi xa còn gọi là đền Bà Sáng, vì theo truyền thuyết, trong chùa có một cây thông cổ thụ, ban đêm từ xa nhìn về thấy phát ra anh sáng (có thể là dạ quang hoặc hổ phách). Nhân dân từ Quảng Bình, Nghệ An đi ra Thăng Long (Hà Nội) thường truyền nhau câu ca:
Mong sao chóng đến kinh kỳ
Đến đền Bà Sáng là gần kinh đô
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán Triều Nguyễn biên soạn vẫn gọi di tích chùa này là Pháp Vân (Viện Sử Học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1971, trang 207).
2-Địa điểm phân bổ di tích, đường đi đến
Chùa Pháp Vân thuộc thôn Văn Giáp, xã Văn Bình, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Sơn Bình. Di tích nằm về phía Tây của làng và cạnh đường quốc lộ số 1.
Từ Thủ đô Hà Nội, thị xã Hà Đông, theo đường quốc lộ số 1, đến Km 18 (cách ga xe lửa Thường Tín 1 Km) ngay cạnh đường tàu hỏa phía bên phải đường là chùa Pháp Vân.
Có thể tới di tích bằng các loại phương tiện đường bộ như ô tô, xe máy, xe đạp hoặc đi tầu hỏa đền ga Thường Tín đi bộ 1 Km là tới chùa.
3-Sự kiện, nhân vật lịch sử và thuộc tính của di tích
Theo sách “Thái Ninh Niên Chế Ngọc Phổ” và sách “Nam Thiên Nhị Pháp Sự Tích Chân Kinh Phụng Lục” Một di vật đặc biệt gồm 8 lá bạc thật, kích thước 13 x 22.5 Cm đóng thành sách, khắc chữ Hán lên lá bạc, hai tờ bìa bằng đồng, chạm hình độc long, làm năm Canh Tý đời vua Thành Thái (1900), trị giá 21 lạng bạc và 6 tiền thời Nguyễn Thì. Nội dung, sự tích chùa Pháp Vân, Pháp Lôi ở thôn Văn Giáp xã Văn Bình như sau:
Thời vua Linh Đế nhà Hán (168-169) Sĩ Vương đóng thành ở Long Biên. Phía nam thành có chùa Phúc Nghiêm. Trụ trì tại chùa là vị sư người sứ Tây Trúc-Kheo Đà La tên là Đỗ Lê. Bà sư nữ Tu Định người thôn Mãn Xá có người con gái tên là Man Nương, tuổi vừa 12, cũng theo mẹ học đạo, kính cẩn giữ lễ tiết.
Một hôm, Đà La xoa đầu người con gái khen rằng: “cô bé này có phẩm đạo, sẽ trở thành bậc đại chân tu”.
Một đêm khuya, các vị Tăng đồ tụng kinh chưa nghỉ, Man Nương lo việc bếp nước xong xuôi, ngồi chờ rồi vì mệt mà ngủ thiếp đi. Đà La không biết, lỡ chân bước qua người Man Nương. Từ đó Man Nương thấy trong người khác lạ, tự nhiên có thai. Mười bốn tháng sau, vào ngày 8 tháng 4 sinh được một người con gái. Lúc sinh khắp nhà ánh hồng rực rỡ, mùi hương lạ sực nức.
Bấy giờ Đà La vào trụ trì tu hành trong núi, Man Nương bế hài nhi tìm đến. Đà La nhìn hàng cổ thụ khấn rằng: “Như chứng được nhân quả, nuôi dấu hài nhi thì ắt sẽ đắc Phật đạo”. Lời chưa dứt, cây dâu cổ thụ tách ra, đặt dấu hài nhi xong lại khép lại như cũ. Đà La thuyết bài kệ và trao cho Man Nương cây gậy phép, dặn rằng khi nào trời đại hạn, cắm gậy xuống đất, nước sẽ phun lên.
Về sau này, một năm trời bỗng bão to, cây dâu cổ thụ ấy bỗng trốc gốc, trôi dạt về bến sông thành Long Biên. Dân chúng ra sức kéo nhưng không chuyển. Một lần Man Nương ra sông tắm giặt, đưa tay đẩy thử, tức thì cây gỗ lay chuyển.
Tiếng đồn chuyện ấy vào triều, Sỹ Vương đòi Man Nương vào hỏi. Man Nương tâu lại chuyện thai sinh đặt gửi hài nhi vào cây. Sỹ Vương thở than kinh lạ, bèn sai Man Nương góp tay kéo cây gỗ lên bờ. Đêm ấy Sỹ Vương nằm mộng thấy một vị đại nhân đến nói rằng: “Cây gỗ ấy là thân Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện”. Sỹ Vương liền sai người thợ mộc tên là Đào Lượng đẵn gỗ thành 4 đoạn để tạc 4 tượng. Ngay đoạn gỗ đầu tiên, người thợ mộc phát hiện ra có hòn đá lạ, người ấy đem ra sông cọ cho sạch, nhỡ tay đánh rơi xuống sông. Khi tạc xong 4 pho tượng, pho Pháp Vân nặng không rước đi được. Sau phải thuê ngư phủ mò hòn đá lên đặt trước tượng mới đi được. Sỹ Vương và người đương thời cho rằng hòn đá nguyên là hài nhi mà Man Nương đặt vào cây. Vì vậy đặt tên hòn đá ấy là Thạch Quang Phật.
Ngày 17 tháng giêng Man Nương không có bệnh tật gì mà mất, thọ hơn 90 tuổi.
Thời Tam Quốc, Đào Hoàng làm thái thú Giao Châu, ngưỡng mộ Phật linh ứng nên thường hay tu bổ chùa.
Vua Minh Đế đời Đông Tấn (323-326) nghe được chuyện, sai thứ sử Giao Châu là Đào Khản lấy tượng đem về Kiến Khang (Nam Ninh). Gần 400 người khiêng mà không sao qua được biên giới, đành phải khiêng trả lại chùa.
Năm đầu triều Lý Nhân Tông (1072) mùa thu, mưa tầm tã, rước tượng đến chùa Báo Thiên cầu tạnh, trời bỗng quang đãng, Hoàng đế tạ ân.
Năm Thái Ninh thứ ba (1074) triều Lý Nhân Tông, trời lại đại hạn, rước tượng cầu đảo nhưng chỉ mưa ở kinh thành. Hoàng đế hạ lệnh rước tượng đi các phương để được mưa lớn.
Khi đám rước đi tới xứ Bồ Đà thuộc địa phận tam thôn Văn Giáp huyện Thượng Phúc (tức Văn Giáp, huyện Thường Tín ngày nay) thì mưa to, sấm chớp, trời đất bỗng tối sầm lại, Pháp giá phải dừng lại. Một lúc trời quang lại tiếp tục đi. Nhưng chỉ khiêng được 2 tượng, còn 2 pho Pháp Vân, Pháp Lôi không đi được. Các quan tâu với Hoàng đế, Hoàng đế phán rằng: “Sinh ra ở phương Tây, muốn trấn ngự ở phương Nam, đất này ắt có linh khí”, bèn cấp cho vật liệu dựng 2 ngôi chùa, chuẩn y cho thần dân miễn thuế tô dùng sưu sai để lo việc đèn hương thờ cúng.
Theo các bản sự tích hiện lưu tại chùa Hai Bà cho thấy, sự tích được viết ra từ năm Thái Ninh thứ 3 tức là năm 1074. Đến đời Trần, Trần Thuận Tông đã được chép thành ký (1388-1397). Bản dịch này nguyên văn bằng chữ Hán trong cuốn sách bạc nói trên, được khắc năm Canh Tý đời Thành Thái.
Sự tích Pháp Vân của ngôi chùa này nằm trong hệ thống Tứ Pháp mà các chùa Đậu (Thành Đạo Tự) ở xã Nguyễn Trãi-Thường Tín, chùa Liên Hoa (Hà Bắc), chùa Dâu.. mà sự xuất hiện thật là sớm … ngay sau khi Phật giáo du nhập vào nước ta. Giới nghiên cứu Phật học của Việt Nam đã thống nhất về tin ngưỡng thờ thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp (Vân, Vũ, Lôi, Điện) là gắn liền với tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp, tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc và là nguyện vọng cùa lòng dân. Chính vì thế, từ thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn … các ngôi chùa này, trong đó có chùa Pháp Vân thôn Văn Giáp vẫn được ngưỡng mộ và bảo vệ.
4-Loại di tích
Chùa Pháp Vân là loại di tích kiến trúc nghệ thuật-Tôn giáo.
5-Khảo sát di tích
Chùa Pháp Vân là một công trình kiến trúc quy mô to tớn theo kiểu “Nội công ngoại quốc”, bao gồm nhiều hạng mục công trình: tòa Đại bái (gác chuông), tòa Tiền đường, tòa Hậu cung, tòa nhà Tổ và hai dẫy hành lang.
Chùa nhìn về hướng Nam, phía trước là ao sen, xa xa là cánh đồng bát ngát. Phía đông là đường vào cổng chùa, hai phía còn lại là vườn, tháp, vườn ao nội tự rợp bóng cây lưu niệm và cây ăn quả.
Phía trước chùa là một sân lát gạch. Ngày lễ hội là nơi dựng hai cỗ kiệu long đình sơn son thếp vàng, cờ phướn … Đặc biệt trước sân có tấm bia đá “Pháp Vân Tự Bi Ký”. Bia được khắc vào năm “Hoằng Định thập thất niên” tức là năm 1616. Cạnh bia có 2 con rồng đá thời Lê. Bia sự tích này có giá trị lớn nói về việc chữa chùa, tu tạo hậu đường và hành lang do bản tự Tăng đạo duệ Nguyễn Tiềm đứng ra cùng nhân dân địa phương và một số quan lại, đô đốc, quận công, phu nhân quê quán ở các nơi khác nhau hưng công tu bổ (có bản dập văn bia kèm theo).
Qua sân gạch là tới tòa Đại bái hay gọi nôm na là gác chuông. Hạng mục công trình này khá lớn dài 21m, rộng 9m. Gác chuông 2 tầng 8 mái, kết cấu bên trong theo hình thức 4 hàng chân gỗ với kiểu vì nóc chồng giường. Đặc điểm kiến trúc nội thất từ 16 cột cái có xà nách đua ra 16 cột quân. Các xà nách đồng thời là giá đỡ, tạo thành một hành lang (cao ngang phần cổ diêm), rộng 0.5m có thể đi xung quanh được. Gác chuông ở bên phải tòa này. Trên gác chuông treo một quả chuông to lớn cao 1.90m (cả cù lao), đường kính chuông 1.05m. Đây là quả chuông to lớn nhất vùng, được đúc vào năm 1954. Khi thỉnh chuông thì tiếng chuông ngân nga các làng xung quanh đều nghe thấy.
Nhìn bên ngoài, gác chuông chùa Pháp Vân có hình dáng như tòa Thiêu hương của các ngôi đình làng. Ngoài 5 gian chính còn có 2 dĩ nhỏ. Từ hệ thống cột cái và cột quân ở các gác, các nghệ nhân xưa đã đua ra các kẻ góc để tạo thành các đao. Cả 2 tầng có 8 đầu đao cong vút. Mô típ trang trí trên các đao: đắp nổi Rồng và Kìm. Trên nóc đẳng nổi hai con Kìm ngậm bờ nóc.
Qua tòa Đại bái đến tòa Tiên đường. Tòa này được chia làm 3 gian. Khác với các chùa khác trong vùng, tòa Tiền đường ở đây có quy mô lớn và bài trí theo kiểu các ngôi đền. Trong tòa Tiền đường, gian chính giữa là một hương án lớn, đắp nổi 3 tầng, trang trí các họa tiết Rồng, Nghê và Hoa sen cách điệu. Trên hương án đặt một bát hương lớn thời Lê.
Sau hương án là 2 di vật quý: đôi Khổng tước sơn son thếp vàng. Không tước chạm khắc chim Vẹt cách điệu, cao 2.2m, tạc liền cánh, chân, mỏ khoằm. Họa tiết trên cổ chim như vây rồng. Bước đầu giám định, chúng tôi cho rằng đó là những di vật thời Lê.
Sau Khổng tước là 2 cỗ kiệu Long đình, được chạm tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy.
Điểm tô gian chính điện còn có 2 bức cửa võng, nghệ nhân xưa đã điêu khắc theo tích “lưỡng long chầu nguyệt” điểm xuyết “tứ linh”.
Cũng như đã nói, tòa Tiền đường chùa Pháp Vân khác với các chùa khác: không bài trí tượng Pháp theo giáo phái nào mà chỉ có 2 pho tượng Đức Ông và Đức Thánh Hiền. Không gian nội thất tiền đường giành cho bên phải treo chuông, bên trái treo khánh đồng và các đồ tế tự.
Về kiến trúc tòa Tam bảo, tiền đường và hậu cung được cấu trúc liên hoàn bởi hạng mục “ống muống” chạy dọc giữa 2 tòa, tạo thành lối kiến trúc kiểu chữ “công” (I). Hạng mục kiến trúc này được tạo bởi hệ thống kẻ góc. Hệ thống này tạo ra cho không gian bên trong khép kin và bên ngoài tạo thành các đầu đao. Cuối ống muống, ở phần hạ diệp có trang trí 2 bức phù điêu lớn điêu khắc tích “độc long”. Trung tâm bức cuốn là một con rồng lớn, đầu hướng vào hậu cung, xung quanh có điểm xuyết “Tứ linh” và hoa lá cách điệu.
Hậu cung chùa Pháp Vân là nơi tôn nghiêm nhất, cũng được chia làm 3 gian. Gian chính giữa trên bệ thờ có một khám lớn, khám làm có mái theo kiểu mui Luyện, xung quanh có 3 tấm che được làm rất công phu sơn mài khảm trai, với đề tài trang trí “Long vân tụ hội”. Các tấm che khám thờ có hệ thống bản lề, có thể nâng ngược lên để lấy ánh sáng khi mộc dục.
Trong khám là pho tượng chính của chùa Pháp Vân, đó là Tượng Pháp Vân.
Tượng Pháp Vân bằng gỗ sơn cánh gián. Tượng cao 1.3m ngồi theo tư thế “Tĩnh Tọa”, hai chân xếp bằng. Tay trái của Tượng đặt lên đùi, tay phải giơ lên, chìa bàn tay về phía trước. Nét mặt tượng rất trang nghiêm nhưng phúc hậu, hai mắt Tượng nhìn thẳng, xa xăm. Về phong cách điêu khắc, nghệ nhân xưa đã tạc tượng đạt đến trình độ cao về hình dáng, đúng phong cách một trong kiểu cổ truyền là kiết già, tĩnh tọa, nhập định. Ở đây là kiểu Tĩnh tọa. Tượng tạc mô phỏng một người con gái Việt Nam, cổ cao, khuôn mặt đầy đặn, cổ tay tròn thon thả, có đeo vòng tay, mình mặc yếm, có dải khăn lưng tạc liền thắt múi phía trước. Đầu tượng đội mũ Kim Phật. Trên đỉnh đầu có búi tóc. Mũ đội có các tia lửa. Về nước sơn cánh gián, theo khảo sát thực tế, làng Văn Giáp có nghề thủ công cổ truyền làm nghề sơn. Để có sơn này, nghệ nhân đã pha sơn theo tỷ lệ 3 phần sơn sống, một phần nhựa thông và phèn đen rồi đun sôi và sơn lên tượng gỗ nhiều lần với kỹ thuật cổ truyền. Tượng ngồi trên ngai, bên ngoài mặc áo gấm.
Về niên đại của pho tượng chưa thể xác định được.Theo văn bia tu sửa chùa năm Hoằng Định thứ 17 (1616) thì không thấy nói đến việc tô tượng mà chỉ sửa chùa. Năm Vĩnh Thịnh nguyên niên (1705) còn dấu tích ghi trên câu đầu của tòa hậu cung. Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư ghi “Năm Quý sửu Thái Ninh năm thứ 2 (1073) (Tống Hy Ninh năm thứ 16). Bấy giờ mưa dầm, rước tượng Pháp Vân về kinh để cầu tạnh” (Đại Việt Sử Ký toàn thư, NXB Khoa học xã hội, H. 1967, trang 235).
Chúng tôi chưa kết luận niên đại. Theo truyền thuyết của nhân dân địa phương thì dựng chùa đã có tượng. Bệ tượng đặt ở gian giữa, hai gian bên thoáng rộng để tín đồ Phật giáo có thể chạy đàn, cách thức theo kiểu vừa đi vừa tụng niệm xung quanh tượng.
Sau tòa hậu cung, cách một sân gạch là nhà Tổ. Nhà Tổ chùa Pháp Vân thờ tượng Mẫu và chân dung các vị sư Tổ trụ trì đã quá cố. Nối từ nhà Tổ xuống Đại bái, hai bên có 2 dãy hành lang, tạo thành một đường khép kín và làm nên tổng thể công trình kiểu “Nội công ngoại quốc”. Một kiểu thức kiến trúc quy mô to lớn hiếm thấy còn lại đến ngày nay.
6-Các hiện vật trong di tích
Tượng
Tượng Pháp Vân (đã mô tả)
2 tượng Đức Ông và Đức Thánh Hiền
Tượng Mẫu 3 pho ở nhà Tổ
Đồ gỗ
7 hộp gỗ sơn mài
6 đôi câu đối
3 hoành phi
2 Khổng tước
10 bát bửu
Đồ gốm sứ
2 lọ hoa (Thanh)
4 lọ hoa (thời Lê)
4 bát hương
Khánh Bảo thái thất niên (1726)
Đồ giấy
26 đạo sắc phong
2 cuốn sự tích
1 cuốn kê ruộng đất thời Duy Tân thứ 5
Kim loại quý
Sach bằng bạc, chữ bìa dát vàng mười trị giá 21 lạng bạc và 6 tiền (đời Thành Thái).
Đồ đá
3 bia
2 rồng đá.
7-Giá trị lịch sử, khoa học, văn hóa
Chùa Pháp Vân thôn Văn Giáp thờ Phật theo hệ thống Tứ Pháp, xuất hiện ngay từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta hồi đầu Công nguyên.
Trong quá khứ lịch sử, nơi đây là nơi các triều đại cùng với nhân dân tổ chức lễ cầu mưa thuận gió hòa để phát triển nông nghiệp. Ngày nay là một công trình văn hóa lớn, nơi hành hương và du lịch của nhân dân trong và ngoài địa phương.
8-Tình trạng bảo quản di tích
Di tích nhìn chung còn tốt. Một số hạng mục như sàn gác chuông có bị xuống cấp, còn các hạng mục chính của công trình đều còn tốt.
Di tích được tu bổ vào năm 1616, 1705 và năm Tự Đức thứ 12 ( ) gần đây nhà chùa cùng nhân dân tu bổ nhỏ và tôn tạo sân chùa, bồn hoa, cây cảnh.
9-Các phương án bảo vệ, sử dụng di tích
Dự kiến trong tương lai gần đây địa phương sẽ lập quy hoạch xây cổng chùa, xây cầu kiều qua máng nổi vào chùa đệ trình các cấp.
Hiện nay nhà chùa có Sư cụ và Ban bảo vệ di tích trông nom thường xuyên. Các di vật quý có phương án bảo vệ đặc biệt dưới sự bảo trợ của chính quyền xã và tổ hội đồng thôn.
Chùa Pháp Vân là di tích lớn, thuận lợi trong việc đi lại là nơi hành hương. Trong tương lai sẽ trở thành điểm du lịch để đón khách tham quan, nghiên cứu.
10-Cơ sở pháp lý bảo vệ di tích
Di tích chùa Pháp Vân là di tích lớn chưa được đăng ký bảo vệ và xếp hạng
Theo pháp lệnh bảo vệ di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh do Chủ tịch Hội đồng nhà nước ban hành, Đảng ủy, UBND xã, Mặt trận Tổ quốc xã Văn Bình cùng nhà chùa và nhân dân địa phương đề nghị ngành văn hóa tỉnh, huyện lập hồ sơ trình UBND Tỉnh, Bộ văn hóa thông tin -Thể thao – Du lịch nghiên cứu sớm có quyết định pháp lý Nhà nước để di tích được bảo vệ và phát huy tác dụng hiện nay và mai sau.
Văn Giáp ngày 26-9-1990
TM UBND xã
Chủ tịch: Nguyễn Vinh Quê