Theo "Kinh Bắc Trương Thị Như Quỳnh thế phả": dòng họ Trương ở Như Quỳnh (xứ Kinh Bắc) vốn là hậu duệ của Viễn tổ Trương Phóng (Trương Tích) - Thám hoa thời Trần, đời vua Trần Anh Tông và cũng là hậu duệ của cha con Liệt Tổ Trương Lôi, Trương Chiến- những chiến tướng đã tham gia Hội thề Lũng Nhai và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (Thanh Hoá) do Bình Định Vương Lê Lợi lãnh đạo.
Phủ Chí Nguyên - nay là nhà thờ chi họ Trương ở Như Quỳnh, Hưng Yên |
I. Thân thế mẹ đẻ và mẹ nuôi An Đô vương Trịnh Cương:
Chùa Hàm Long nằm trong quận Hoàn Kiếm, tại số 18 phố Hàm Long (Hà Nội). Người ta đã lấy tên chùa đặt cho tên phố. Có lẽ đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Thăng Long- Hà Nội. Nếu tính cả cơ sở đầu tiên là đền Hội Khánh (lập từ thời Hùng Vương thứ 18) thì di tích mang trong mình hơn hai nghìn năm lịch sử.
Vẻ vang thay, chùa Hàm Long còn gắn liền với sự khai sinh kinh thành Thăng Long. Mùa Thu năm Canh Tuất (1010) vua Lý Thái Tổ cho đổi đền thành chùa và vị thần Ngô Long - một anh hùng có công lớn bảo vệ đất nước, chống ngoại xâm được thờ chung với chư Phật bồ tát. Sự kiện ấy đánh dấu một nét đặc trưng của Phật giáo Việt Nam lấy từ bi hỷ xả làm gốc vẫn nhấn mạnh dũng khí- tài năng ngăn trừ tội ác.
Qua các triều đại chùa Hàm Long càng thêm nổi tiếng, đông đảo khách thập phương chiêm bái sùng kính bởi vẻ đẹp kiến trúc và tính linh ứng của thần nhân. Thần phả ghi việc ngài Ngô Long "âm phù" vua Trần Nhân Tông đánh tan quân Nguyên Mông (thế kỷ 13), giúp Bình Định Vương Lê Lợi chiến thắng 10 vạn giặc Minh (thế kỷ 15). Thái phi họ Trịnh (vợ vua Lê Dụ Tông) cầu tự ở đây sinh ra hoàng tử sau lên ngôi vua lấy hiệu Ý Tông.
Vào thế kỷ 18, người phục hưng chùa Hàm Long trở thành một trung tâm Phật giáo lớn của thủ đô Thăng Long là Thái phi Trương Thị Ngọc Chử (quê Như Quỳnh, xứ Kinh Bắc), phu nhân của Tấn Quang Vương Trịnh Bính, mẹ An Đô Vương Trịnh Cương. Bà chúa đã xuất tiền riêng mua gỗ tốt, kén thợ giỏi để khởi công. Công trình được hoàn thành với quy mô tráng lệ trong vòng 12 năm trời (1702- 1713).
Điều ấy đã được khắc ghi trên 2 tấm bia đá cỡ lớn có chiều cao 2,04 m, rộng 1,65 m, dày 0,60 m được chạm khắc tinh xảo hình tượng hoa cúc, vân mây do 2 Tiến sĩ - Ứng Quận Công Đặng Đình Tướng (quê Lương Xá- Chương Mỹ - Hà Tây), Tiến sĩ Thượng thư Nguyễn Quí Đức (quê Đại Mỗ- Từ Liêm- Hà Nội) biên soạn. Xin trích một đoạn văn bia để hậu thế dễ dàng hình dung ra diện mạo chùa Hàm Long ở thế kỷ XVIII:
"Phía Đông thành Thăng Long nước Đại Việt ta, có ngôi chùa cổ, biển đề chùa Hàm Long. Thật là đất phúc cõi thần tiên, tạo hoá dày công xếp đặt. Sông Nhị Hà, dòng Tô Lịch quanh bên tả và phía trước, điện Nam Giao, tháp Báo Thiên đứng sững bên hữu và phía sau.
Lâu đài san sát lộng lẫy, ôm ấp cung Vua, sông núi tươi đẹp thiêng liêng mở ngôi chùa Phật. Đúng là một nơi danh thắng trong số 36 cõi Thiền".
Bà Ngọc Chử sinh 26/4/1666 tại Như Quỳnh (còn gọi là làng Ghênh) thuộc Gia Lâm, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc, nay là Như Quỳnh, Mỹ Hào, Hưng Yên. Bà kết hôn với Tấn Quang Vương Trịnh Bính - con trai của Lương Mục Vương Trịnh Vịnh, cháu đích tôn của Chiêu tổ Khang Vương Trịnh Căn. Năm 1686, bà 17 tuổi sinh Trịnh Cương. Năm 1697 bà được tiến cử Thái phi khi 28 tuổi. Năm 1702, bà Ngọc Chử 33 tuổi thì Tấn Quang Vương Trịnh Bính đột ngột qua đời khi đó thế tử Trịnh Cương mới 16 tuổi. Trước tình hình con và cháu lần lượt tạ thế, Chúa Trịnh Căn rất đau buồn, chưa quyết định lập người nối nghiệp nên mời đại thần Liêm Quận Công Nguyễn Quý Đức vào hỏi. Nguyễn Quý Đức thưa: "Việc vỗ dân, giữ trách nhiệm nặng nề, nên cho thuộc về người chắt (tằng tôn) là dòng đích. Xét theo điển lệ việc đó là rõ rệt rồi. Vậy xin sớm làm cho danh phận được chính xá để chấm dứt sự ngấp nghé nom dòm". Vậy tháng Giêng (1703), triều đình tấn phong Trịnh Cương - chắt của Chúa Trịnh Căn làm Khâm sai tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh, kiêm tổng chính cơ, Thái úy, An Quốc Công, cho mở phủ Lý Quốc.
Cả thảy bà Ngọc Chử sinh 3 người con (1 trai, 2 gái): An Đô Vương Trịnh Cương và Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Thung, Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ.
Hưởng phúc đến đời cháu là Dụ tổ Trịnh Giang và Nghị tổ Ân Vương Trịnh Doanh, bà Ngọc Chử được tôn phong là Huy Nhu Thuần Đức Thái tôn Thái phi. Bà mất 28/8/1750 năm thứ 11 Cảnh Hưng, thọ 82 tuổi.
Mộ táng lúc đầu ở làng Dương Quang (Gia Lâm) sau cải về làng Bái Nhi (Yên Định- Thanh Hoá). Theo gia phả: Bà Trượng Thị Ngọc Chử là con gái trưởng của cụ Diên Khánh Công Trương Dự, chị gái của Thiêm quận Công Trương Nhưng, Phấn quận công Trương Nhiêu (Nhượng)
Cụ Trương Dự - thân phụ của bà Ngọc Chử là con trai thứ ba của cụ Quán quận công Trương Lực. Cụ Trương Dự tự là Phúc Lâm được vua ban cho tên thụy là Đôn Cẩn, từng giữ chức Đô đốc phủ, Tả đô đốc Thái Tể rồi được phong Diên Khánh Công. Cụ sinh năm Tân Tỵ (1641) mất 24/8/1717 thọ 76 tuổi được tặng phong Ôn hậu lạc thiện Tuy Phúc diễn Đôn tín Dụ hầu Như hoà Tuyên thiết Trang tức Diên Khánh Công.
Cụ Lê Thị Ba (thân mẫu bà Ngọc Chử), hiệu Diệu Liên được phong Quận phu nhân rồi Thái phu nhân. Cụ là con gái quan Thái bảo Tuấn quận công Lê Phúc Vinh (người giáp Thọ Khang, xã Đình Luân nay là làng Đình Loan, xã Như Quỳnh). Cụ Lê Thị Ba và mẹ bà Nguyễn Thị Cảo (phu nhân của Quận Công Nguyễn Gia Đa) là chị em ruột.
Về bà Nguyễn Thị Cảo - mẹ nuôi Chúa Trịnh Cương thì theo truyền tụng: khi sinh Trịnh Cương, bà Ngọc Chử rất ít sữa nên thế tử hay quấy khóc không ai dỗ được. Chỉ đến khi bà Nguyễn Thị Cảo (em con dì của bà Ngọc Chử - cụ nội của nhà thơ "Cung oán ngâm khúc" Nguyễn Gia Thiều) lúc đó mới sinh con trai thứ hai ( Kỳ Quận Công Nguyễn Gia Trân) vào thăm và bồng lên tay cho bú thì Thế tử mới chịu nín. Từ đó bà Nguyễn Thị Cảo – phu nhân của Quận Công Nguyễn Gia Đa trở thành nhũ mẫu Thế tử Trịnh Cương, vì thế dân gian có câu: “Ghênh đẻ, Khe nuôi”.
Nhũ mẫu Nguyễn Thị Cảo (1660 - 1736), còn có tên húy là Mê, hiệu Diệu Thành, Trang Tĩnh đệ nhị nương; người thôn Đại Tự, tổng Khương Tự, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, bà vốn là đào nương Ca trù. 16 tuổi làm dâu dòng họ Nguyễn Gia ở Liễu Ngạn (còn gọi là làng Khe). Vốn con nhà nghèo, thời niên thiếu sống vất vả. Một lần có gia đình giàu có mời thày Tàu đến xem đất táng mộ nghe lỏm được thày địa lý phán:
- "Ta cắm hai cành cây ở đây. Ngày mai, nếu thấy nơi nào cành vẫn tươi thì mượn người giỏi hơn đến phân kim chọn hướng cải mộ vào đấy. Quý địa sẽ giúp dòng họ phát đến Quận Công". Nửa đêm Nguyễn Thị Cảo đánh tráo vị trí hai cành cây. Sáng hôm sau, thày địa lý đi rồi, gia đình nhà giàu ra quan sát bỗng thất vọng: hai cành cây đều héo rũ. Họ cho rằng thày bói nói dóc bèn không chú ý mảnh đất nữa. Chờ dịp thuận lợi Nguyễn Thị Cảo di táng hài cốt cha mình. Không rõ có phải do âm phần "kết" mà bà Nguyễn Thị Cảo lấy chồng (Nguyễn Gia Đa) - quan cấm vệ được phong chức Thái phó, tước Bỉnh Quận Công và 3 con trai được phong tước Quận Công (Siêu Quận Công Nguyễn Gia Châu (1678 - 1757), Kỳ Quận Công Nguyễn Gia Trân (1686 – 1727), Thuận Quận Công Nguyễn Gia Kiên (1694 - 1727). Quận phu nhân Nguyễn Thị Cảo, (mất năm Bính Thìn 1736) thọ 77 tuổi.
Cả mẹ đẻ lẫn mẹ nuôi Chúa Trịnh Cương đều sùng mộ đạo Phật. Tuy sống trong một "danh gia lệnh tộc" xứ Kinh Bắc và làm dâu dòng họ Chúa Trịnh (lấy Tấn Quang vương Trịnh Bính- con trưởng của Lương Mục vương Trịnh Vịnh, cháu đích tôn của Chiêu tổ Khang vương Trịnh Căn) nhưng bà Ngọc Chử vẫn sống bình dị nhân ái, thích làm việc thiện, dân gian truyền tụng ngợi ca:
"Việc công đức ra tay tế thế
Coi của mình như thể của dân
Suốt đời tích đức tu nhân
Xây cầu sửa chữa đình chùa các nơi"
Hai văn bia: "Lịch sử bi", "Công đức bi' ở Từ Vũ họ Trương (dựng trên gò Kỳ Ngộ tại Như Quỳnh) ghi việc bà Ngọc Chử hiến ruộng cho làng Đình Loan và tu bổ một số di tích lịch sử văn hoá quốc gia chùa Dâu (Thuận Thành- Bắc Ninh), chùa Hồ Thiên - một danh lam lớn trong quần thể di tích Yên Tử giáp giới Sơn Động (Bắc Giang và Đông Triều (Quảng Ninh) và chùa Hàm Long (Thăng Long)…
Tại làng Cự Linh (Gia Lâm- Hà Nội) có văn bia ghi lại việc bà Ngọc Chử xuất tiền riêng ra dựng Cầu Bây trên sông Nghĩa Trụ (năm 1738) để cho dân đi lại dễ dàng khỏi lâm cảnh lầy lội. Hiện khúc cầu đó vẫn còn trên đường Hà Nội - Hải Phòng (cách Thủ đô 10 km). Ông Bezacier - một học giả thuộc Viện Viễn Đông Bác cổ (thời Pháp thuộc) đã nghiên cứu và viết bài về bà Ngọc Chử với cây Cầu Bây đăng trong tạp chí BEEI trang 397 và trang 1955.
Còn bà Nguyễn Thị Cảo giúp mỗi xã trong vùng một giành bạc và 5 mẫu ruộng để làm đình chùa và trợ cấp thóc gạo tiền của cho các gia đình bần nông. 13 xã trong tổng Liễu Lâm thờ bà làm hậu thần (thường gọi là bà Hậu Khe).
Khi bà Trương Thị Ngọc Chử và bà Hậu Khe Nguyễn Thị Cảo tạ thế, triều đình đã gửi hậu hàng Tổng và cho dựng tượng thờ ở chính điện chùa Dâu (Pháp Vân tự) - một danh lam nổi tiếng quốc gia ở thành cổ Luy Lâu (Thuận Thành – Bắc Ninh). Cả hai tượng được đặt ở vị trí trang trọng, đối diện nhau cùng chầu pho tượng Pháp Vân. Tượng “bà chúa ngà” ở bên trái, tượng bà đỏ Nguyễn Thị Cảo (còn gọi là bà Hậu Khe) ở bên phải. Tuy là 2 tượng hậu nhưng đều được tôn thờ như Phật (Tứ pháp). Điều ấy có thể thấy rõ: hai tay trong tư thế thuyết pháp có trời đất chứng giám. Tay phải gấp chỉ lên, tay trái gấp duỗi xuống, tai dài, đầu có nhục kháo... Hòa sắc trắng - đỏ - xanh - đen với những mảng nét hài hòa rõ ràng cùng tôn nhau rất đời cũng rất đạo. Tượng bà Ngọc Chử cao 87 cm. Pho tượng chân dung bà được tạc theo mẫu tượng Tứ pháp ở dạng bán khoả thân tọa Thiền. Hiếm thấy có pho tượng độc đáo như thế: Phần thân trên (từ bộ ngực, đôi tay đến khuôn mặt) được sơn mài màu trắng điệp gợi cảm giác da thịt nõn nà, tươi trẻ vì thế người đời còn gọi là "bà chúa Ngà". Hai cổ tay chạm vòng cườm (dấu ấn quí tộc). Nếu không xuất hiện chiếc mũ bụt ốc trùm đầu người ta dễ liên tưởng: cảnh trinh nữ đang tắm giữa đầm sen. Một vẻ đẹp vừa trần tục vừa siêu thoát.
Tượng bà Nguyễn Thị Cảo tạc chân dung một phụ nữ đứng tuổi (tuy là em họ nhưng bà Cảo hơn bà Ngọc Chử , mặc bốn lớp áo, áo khoác ngoài và mặt sơn màu đỏ. Tọa Thiền trên bệ bát giác.
Lễ hội chùa Dâu (Mồng 8 tháng tư) hàng năm, dân gian hàng Tổng rước tượng "bà chúa Ngà" Trương Thị Ngọc Chử và tượng "bà Hậu Khe" Nguyễn Thị Cảo sau tượng Phật mẫu Man Nương và tượng Tứ pháp (Mây, Mưa, Sấm, Chớp) để tỏ lòng tôn kính.
II. Dòng họ ngoại Chúa Trịnh Cương có nhiều công lao với triều đình Lê – Trịnh.
Theo "Kinh Bắc Trương Thị Như Quỳnh thế phả": dòng họ Trương ở Như Quỳnh (xứ Kinh Bắc) vốn là hậu duệ của Viễn tổ Trương Phóng (Trương Tích) - Thám hoa thời Trần, đời vua Trần Anh Tông và cũng là hậu duệ của cha con Liệt Tổ Trương Lôi, Trương Chiến- những chiến tướng đã tham gia Hội thề Lũng Nhai và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (Thanh Hoá) do Bình Định Vương Lê Lợi lãnh đạo. Gia phả này viết vào khoảng cuối đời Lê, không chép nhiều về sự việc các đời đầu. Về Tổ Trương Lôi, chỉ ghi rằng: “ông hiệu Cự Thanh, vua ban cho họ Lê và phong Bình Ngô Khai quốc công thần. Đóng quân ở Bắc ải, đã giết Liễu Thăng. Vợ người xã Mai Sơn, huyện Yên Thế. Nhà thờ ở xã Tiên Táo, huyện Tiên Phúc; Táng ở xứ Đồng Vương, xã Đồng Hưu, huyện Hữu Lũng”.
Cụ Trương Lôi vốn người Thanh Hóa
Phò vua Lê đại phá giặc Minh
Chi Lăng trận ấy lập công
Liễu Thăng bỏ mạng non song thu về
Nhớ Lũng Nhai hội thề thuở trước
Lên ngôi vương đất nước ghi công
Lê Lợi xuống chiếu sắc phong
Bình Ngô khai quốc có công hàng đầu
Quan thụng thô mặc dầu khổ ải
Vâng lệnh vua trấn ải Nam quan
Mộ táng tại Đồng Hưu xứ Lạng
Đến ngày nay vẫn sáng lòng dân
Mộ phần rộng ngót một trăm
Nhân dân cúng lễ thần đền nhớ ơn
Nối nghiệp cha làm nên công lớn
…….
Nghĩ Quận công Trương Chiến có tài
Chiến công lừng lẫy một thời
Khả Lưu Bắc ải rã rời quân Minh
Đất Nghệ An đột binh xung trận
Sơn Thọ Trần chí bị bại vong
Tưng bừng xứ Nghệ mừng công
Thái phó lên ngựa ung dung ra về
Quan quân bốn bề tề tựu lại
Vây Đông Đô đánh bại Vương Thông
Vua tôi trên dưới một lòng
Kinh kỳ rực rỡ thong dong khải hoàn
Trong cuốn "Lam Sơn thực lục" cũ (tìm thấy ở Thanh Hoá bởi Ty văn hóa tỉnh này) cho hay rằng Trương Lôi quả là người rất thân cận với người đảng trưởng đồng hương. Cụ và con trai trưởng Trương Chiến sớm có mặt trong số 18 chiến tướng ở Hội thề Lũng Nhai và tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn suốt 10 năm đầy hy sinh gian khổ. " Đại Việt thông sử" của nhà bác học Lê Quý Đôn có chép: Ngày mồng 2 là ngày Canh Thân, tháng Giêng , năm Mậu Tuất (1418), Hoàng đế dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, phong chức Đại tướng và Thừa tướng cho 47 người trong đó có Trương Lôi. Cụ đã đẩy Lê Lợi vào lỗ thân cây để nấp khi quân Minh lùng bắt. Cụ đã mang hài cốt của cha mẹ Lê Lợi giấu đi tránh sự phá hủy của giặc Minh và đã dự tất cả các trận lớn khi phải chống cự hoặc khi đánh úp, hay phản công tại địa phận Thanh Hoá, Nghệ An và dọc sông Đáy. Cuối cùng đánh nhử Liễu Thăng vào thung lũng Chi Lăng (Lạng Sơn) và được vua sai đem mấy bại tướng và cờ biển của Liễu Thăng sang phía Tuyên Quang báo tin Liễu Thăng tử trận cho Mộc Thạnh biết.
Trong danh sách gồm 35 người phong danh “Bình Ngô khai quốc công thần”, Lê Lôi (tức Trương Lôi) đứng số 13 với lời chú: “làm Tham triều hầu, quê lộ Khả Lam, được ban quốc tính vì đầu tiên đón tiếp voi nghĩa (Trịnh Khả đưa từ Ai Lao về dâng); và giúp việc nước”. Trong sổ Lễ bộ của Thượng thư Đàm Văn Lễ ghi về “Khai quốc công thần” (năm 1500) có nêu rõ sự nghiệp của Trương Lôi sau giải phóng: “Số 44, Lê Lôi. Năm đầu đời Thuận Thiên (1428), giữ chức đồng tổng quản việc quân của vệ ở lộ Hà Bắc. Năm thứ ba Quang Thuận (1462) mất. Sinh thời, làm đến chức Thái Phó. Năm thứ 15 Hồng Đức (1484) tặng Thái phó Mục quận công”. Sau khi chiến thắng giặc Minh, vua Lê Thái Tổ đã phong cho cha con cụ Trương Lôi- Trương Chiến là "Bình Ngô khai quốc công thần" và ban cho Thái ấp ở khu vực gần ải Chi Lăng (nay là địa phận Yên Thế và Hữu Lũng thuộc 2 tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn). Con cháu họ Trương được trọng dụng về việc biên phòng ở vùng giáp giới Kinh Bắc Lạng Sơn trong thời Lê sơ.
Về sau con cháu các cụ biệt phái phân chi đi nhiều nơi trong đó có một nhánh lập cư ở Như Quỳnh sinh ra "bà chúa Ghênh" Trương Thị Ngọc Chử
Đến thời Lê – Trịnh, họ Trương vẫn tham gia triều chính, ba đời trước của bà Trương Thị Ngọc Chử được phong tước Quận công, và hai đời, cha và ông của bà được ban chức Đô đốc Đồng Tri. Đặc biệt khi Trịnh Cương sinh “ngày Nhâm Dần, 13 tháng 5 âm, tức 14/6/1686, tằng tôn của chúa Trịnh Căn” (Lịch triều tạp kỷ, trang 99) được lên ngôi chúa (năm 1709) thì mẹ ngài được tôn làm Thái phi và họ Trương ở Như Quỳnh trở thành quý thích (họ ngoại) rất được trọng vọng.
“Bính Thân, năm Vĩnh Thịnh thứ 12 (1717) ngày 6 tháng 8 Thái tể, Diên quận công Trương Dự (ông ngoại Chúa Trịnh Cương) chết, được tặng phong Diên Khánh Công, lập đền thờ trong kinh kỳ" (Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng, trang 206).”
Hai người em của bà Ngọc Chử là Trương Nhưng, Trương Nhiêu có nhiều quyền thế trong triều. Thái phi Ngọc Chử có ba em trai (Nhưng, Nhiêu, Lực) trong đó hai người giữ vai trò quan trọng trong triều đình là Trương Nhưng và Trương Nhiêu. Sau khi Thế tử Trịnh Cương được lên ngôi chúa, thì hai cậu được phong tước Quận công, coi việc đề phòng hay quản lý trong phủ Chúa.
Trương Nhưng (1671 – 1737), tự Phúc Trung là con trai trưởng cụ Diên Khánh Công Trương Dự. Ông làm Đô đốc phủ, Tả Đô đốc, Thự phủ sự (chức thứ nhì trong triều sau Chưởng phụ sự), Thái bảo, tặng phong Thái tể Thiêm quận công lại gia phong Khiêm cung Đoan nhã Khoan hậu Thuần công An hòa Duệ Chí Đại vương. Năm 1732, Trương Nhưng coi trấn Hải Dương là bình phong miền bể. Khi Trịnh Giang lên ngôi chúa, có bọn hoạn thần gièm pha với Chúa rằng có đảng đại thần đã không tán thành việc Trịnh Cương đã chọn Trịnh Giang làm Thế tử, trong đảng có Trương Nhưng nên lúc trấn thủ Nghệ An, cụ bị 2 tên Nội giám là Quận Bào và Quận Thực lừa cho uống rượu độc (2 tên này sau bị đại thần Nguyễn Quý Cảnh giết chết vì chống đối không để Ân Vương Trịnh Doanh lên thay Thuận Vương Trịnh Giang loạn trí). Quận Công Trương Nhưng mất ngày 25 tháng Hai năm Đinh Tỵ (1737), thọ 66 tuổi.
Công tích và vai trò của Thiêm Quận Công Trương Nhưng được ghi nhiều trong chính sử:
“Chúa Trịnh bắt đầu đặt 6 doanh trung quân. 6 doanh gồm có Trung Dực, Trung Uy (sau đổi Trung Hùng), Trung Thắng, Trung Khuông, Trung Nhuệ, Trung Tiệp. Số quân mỗi doanh là 800 người. Dùng bọn Quận gia Trịnh Lân và Quận Thiêm Trương Nhưng 6 người chia ra cai quản 6 doanh ấy” (Lịch triều tạp kỷ,trang 322).
“Chia sai cho bọn Tham tụng Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn, Ngũ phủ quan là Trương Nhiêu, Trịnh Đình Gián và Nội giám quan là Đỗ Bá Phẩm, Nguyễn Khuê đều làm khuyến nông sứ trong tứ trấn” (Lịch triều tạp kỷ, trang 372). "Cùng ngày (ngày 19 tháng 4, Mậu Tuất, năm Vĩnh Thịnh thứ 14(1718), Chúa Trịnh sai Hữu dực cơ cai quan, Tham đốc, Thiêm Quân Công Trương Nhưng làm Chú Tạo Đại Sứ (chức quan coi việc đúc tiền) hiệp sức với viên Chú Tạo Sứ và Đồng Tri đã được sai làm trước đây, cùng nhau hàng ngày đến trường sở, công đồng bàn bạc, liệu tính sắp xếp trình khóa điều động những thợ lành nghề, phân phối cho đi các lò đúc, theo đúng mẫu mực và đúng trọng lượng từng đồng mà đúc tiền dưới sự đúc tiền của các viên ấy. Hằng năm, hạn từ thượng tuần tháng 2 khởi công đến hạ tuần tháng 11 thì đình chỉ, chia làm hai kỳ, đem số lượng thành tiền trình bày đầy đủ vào tờ khải để nhập kho” (Lịch triều tạp kỷ, trang 244).
Theo “Công đức bi ký” (bia ghi công đức ) dựng năm Tân Dậu niên hiệu Cảnh Hưng 2 (1741) tại Từ Vũ (Như Quỳnh) do Bồi tụng, Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử, Hành Binh Bộ hữu thị lang Nguyễn Kiều soạn: “Ông cả (tức Trương Nhưng) vốn tính khoan hòa, khiêm nhường, hiếu lễ. Từ nhỏ đã theo giúp tiên triều, gắng sức làm việc, ngày đêm canh cánh. Trong triều thì tham bác nơi màn trướng, dâng bày mưu kế. Ngoài nội thì nắm quyền đánh giặc, cung kính tận tâm lo toan nên được vị nể. Do vậy nhờ được ơn trời mà bước cao trên thềm võ. Khi về già quản lãnh việc biên ải phía Nam, giúp cho nước yên ổn một nơi. Che chở một phương được hoàn hảo. Người người hàm ơn như Thân Bá. Ông mất, được vinh phong cho lập đền thờ cúng, để biểu dương trung hậu cho ông”.
Người em trai thứ của bà Ngọc Chử là Phấn Quận Công Trương Nhiêu (sinh ngày 12 tháng 11 năm Nhâm Tuất 1682, mất ngày 25 tháng 11 Đinh Mão năm 1747, thọ 64 tuổi), tự Hòa Nghi, vua ban thụy là Thuần Nhã. Ông là con trai thứ 2 cụ Diên Khánh Công Trương Dự. Phấn Quận Công Trương Nhiêu giữ chức Phụng nghi ngũ lão Đồng Tham tụng (Tham tụng là chức Tể tướng trong triều), Đô đốc phủ Tả Đô đốc Thự phủ sự (Tả Đô đốc đứng đầu một phủ. Nước ta thời Lê – Trịnh về võ bị chia làm 5 phủ: Trung quân phủ gồm Thanh Hóa Nghệ An.Đông –Tây –Nam – Bắc quân phủ. Mỗi phủ gồm 2 -3 tỉnh. Mỗi phủ có quan Tả Đô đốc coi việc quân).
Tên tuổi, chức sắc của Phấn Quận Công Trương Nhiêu cũng được ghi trong sủ sách đương thời:
"Chia đặt các quan trong 6 tích (Lại tích, Hộ tích, Lễ tích, Bình tích, Hình tích, Công tích) thừa lệnh đi khám xử các việc kiện tụng (Lai tích có Trương Công Giai, Hồ Phi Tích, Đặng Đình Gián, Đoàn Bá Dung. Hộ tích có Phan Khiêm Ích, Trương Nhiêu, Nguyễn Công Thái. Lễ tích có Nguyễn Hiệu, Tạ Đăng Huân, Lễ Thời Dân, Cao Dương Trạc. Binh tích có có Phạm Đình Kính, Nguyễn Danh, Nguyễn Lệnh Nghi. Hình Tích có Nguyễn Duy Nhận, Trịnh Giám và Nguyễn Toàn. Công tích có Ngụy Thế Huy, Đặng Đình Miên và Vu Công Tể” (Lịch triều tạp kỷ, trang 408).
Khi anh (Thiêm Quận Công Trương Nhưng) mất, Phấn Quận Công Trương Nhiêu lấy cớ xin về chí sĩ, được phong Thái phó, khi mất triều đình gia phong Thuần chính Trung Vũ Đại Vương.
Trên "Công đức bi ký" đã ghi rằng: "Ông thứ hai (tức Phấn Quận Công Trương Nhưng tính chất phác đoan lương, mềm dẻo ôn hòa. Từ nhỏ đã giúp việc tiên triều. Đến nay còn thừa giúp vua. Từng giữ các nơi hiểm yếu, tiếng tăm tỏ rõ. Khi ra ngoài coi sóc việc quân thì lập công hiển hiện. Lúc vào chầu chính phủ thì mật bàn việc cơ yếu. Hưởng nhiều ân sủng, vinh phong phẩm trật ngất cao. Đến nay việc vỗ về ở biên ải phía Nam, giúp dân được yên, dẹp được giặc cướp. Làm yên ổn nơi phong trần một cõi. Đời hàm ơn dằng dặc tựa Phần Dương".
Những người đàn ông trong dòng họ Trương - họ ngoại Chúa Trịnh Cương phần lớn theo nghiệp võ và chi phái các đời dưới triều Lê - Trịnh đều được phong tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Nhiều đời kết thông gia với Nhà Chúa và các "thế gia lệnh tộc".
Cổn Quận Công Trương Khuông (con trưởng của Phấn Quận Công Trương Nhiêu) kết duyên với Quỳnh Anh Thượng Trưởng Trịnh Thị Ngọc Cư.
Các cụ Thiêm Quận Công Trương Nhưng và Phấn Quận Công Trương Nhiêu đều có phu nhân là con gái của Quốc lão Đại Tư Đồ Ứng Quận Công Đặng Đình Tướng.
Còn con gái họ Trương có nhiều người được tuyển làm Thị nội cung tần trong phủ Chúa, như: Trương Thị Ngọc Trong (hiệu Diệu Nhân Chân Nhân giỗ ngày 28/11 âm lịch, làm hậu ở chùa Phổ Quang và chùa Ba La tại bản xã), trưởng nữ của cụ Nhượng quận công Trương Nghiêm (tự Phúc Gia, thụy Đôn Lễ) làm quan tới chức Đô đốc phủ, Đô đốc Đồng tri, tước phong Nhượng quận công lấy cụ bà Nguyễn Thị, (hiệu diệu Hải Ninh, Thiết chân nhân, tặng phong quận phu nhân). Hai cụ chỉ sinh được 2 con gái (Trương Thị Ngọc Trong và Trương Thị Thục Chinh. Nhượng Quận Công Trương Nghiêm là anh trưởng của Diên Khánh Công Trương Dự và là bác của Thái phi Ngọc Chử. Ngọc Trong là người con gái đầu tiên của họ Trương được tuyển vào phủ Chúa Trịnh Căn, được phong Tu Nghi, gia phong Chiêu Dung rồi Chiêu Nghi rồi Thị Nội cung tần Thượng hoà Tôn Thái phu nhân. Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan- sự tích diễn ca" của Chiêu Nghi Trương Thị Ngọc Trong. Tác phẩm viết bằng chữ Nôm theo thể thơ lục bát truyền thống gồm 298 câu 6- 8 và 2 bài kệ (mỗi câu 4 câu 5 chữ). Công trình hoàn tất vào tháng 8 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 20 (tháng 9- 1759) hiện còn bản lưu ở Viện Hán Nôm số A.959. Theo Học giả nổi tiếng Hoàng Xuân Hãn: “Toàn bản diễn ca chỉ là văn kể chuyện. Nhưng lời văn gọn gàng, giản dị mà không quê, dùng chữ đầy đủ mà không nặng nề”. Và theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Đặng Văn Lung thì: “ Tất cả vẻ đẹp của bài ca nằm trong mỗi chi tiết. Mỗi chi tiết là một thỏi vàng được đúc từ văn hóa tiên tổ" Trong thời đại phong kiến Việt Nam, tác phẩm văn học của phụ nữ là rất hiếm, nhất là thơ Nôm. "Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan - sự tích diễn ca" là một bằng cứ khẳng định khả năng sáng tác văn học của phụ nữ đương thời. Ngoài sáng tác tác phẩm giá trị "để đời" như "Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan- sự tích diễn ca", Chiêu Nghi Trương Thị Ngọc Trong còn công đức rất lớn cho việc xây dựng, khôi phục phát triển chùa Phổ Quang và chùa Ba La (tên Nôm là chùa Lá) ở tầm vóc qui mô tại quê nhà Như Quỳnh. Căn cứ vào văn bia trên tấm bia lớn (cao 2,30 m cả đế, rộng 1 m, dày 0,80 m còn sót lại trên nền chùa Lá thì chùa cổ này xây dựng từ 1448 triều Lê Nhân Tông (Bang Cơ)- cháu nội của vua Lê Thái Tổ. Bài ký trên bia do ông Tham tụng Lễ Bộ Thượng Thư quê xã Lan Khê huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hoá đỗ Tiến sĩ năm Chính Hoà thứ 21 (1700) và ông Phạm Khiêm Ích (1679- 1740) tự Kính Trai người làng Bảo Triện huyện Long Biên tỉnh Bắc Ninh làm Thượng thư Bộ Hình năm Vĩnh Thiệu thứ 6 (1710) biên soạn: "Đến tháng 4 năm Giáp Dần niên hiệu Long Đức thứ ba (1734) bà Thái phi Thánh từ Thái Tông đức cao tựa trời, lòng sâu tựa biển đã đem vàng bạc ra trùng tu lại chùa Ba La. Vì vậy qui mô nhà chùa được khôi phục rộng to, tịnh xá vườn hoa cũng được sửa sang mới mẻ. Thật là: Hội Nhật Nguyệt chốn Thiên cung, mở toà lưu ly nội địa đạo. Muốn thờ pháp tín đã có điện, hương đưa toả khắp xóm làng, muốn treo pháp khí đã có lầu, tiếng trong trẻo ngân vang thôn xóm. Mọi tiếng ồn ào im bặt, muôn vàn cảnh tượng tỏ soi chùa Ba La thấp nhỏ nghiễm nhiên nơi chốn cũ được trở nên Ba La tầng cao…Kế đó ruộng bố thí được 25 mẫu, giao cho dân cày cấy phụng sự đèn nhang. Lễ cúng Phật tăng ni hàng năm sắp đặt, ngào ngạt chăm dâng tiến, đâu dám nhác lười. Hương thơm định mệnh tràn trề dào dạt bếp cháy không nguôi, rằng vượt mức tứ tượng chầu về. Tất cả đều làm cho mười phương chiêm ngưỡng, cùng đến đón mặt trời tuệ sáng ngời. Ruộng phúc mở mang, ngửa trông mây lành che chở. Quê hương rực rỡ tắm gội mưa ngọt nước trong, xóm thôn toả sắc".
Tiếp theo các bà Ngọc Trong, Ngọc Chử lớp con cháu như Trương Thị Ngọc Côn, con gái thứ 3 và Trương Thị Ngọc Viên con gái thứ 9 của cụ Phấn Quận Công Trương Nhiêu làm Cung tần, được phong Tài nhân. Trương Thị Ngọc Huyên (hiệu Diệu Nhuận) - trưởng nữ cụ Trung Hiền Hầu Trương Phúc Đại là Cung tần của Chúa Trịnh Giang. Trương Thị Ngọc Dinh - con gái trưởng Trương Thị Cân - con gái thứ 2 cụ Lại Thượng thư Trương Phúc Hải làm Cung tần làm Cung tần Chúa Trịnh Doanh. Ngoài ra, họ Trương còn thông gia với những dòng họ trâm anh thế phiệt khác, như: Trương Thị Ngọc Khanh, con gái trưởng cụ Phấn Quận Công Trương Nhiêu lấy con trai cụ Thượng thư Lê Anh Tuấn (người làng Thanh Mai, huyện Tiên Du, Bắc Ninh). Trương Thị Ngọc Chúc - con gái thứ 8 cụ Phấn Quận Công Trương Nhiêu lấy ông Trịnh Hoành là tôn thất Nhà Trịnh. Trương Thị Ngọc Đoan - con gái thứ 2 cụ Phấn Quận Công Trương Nhiêu lấy con trai cụ Thượng thư Nguyễn Công Hãng, (người xã Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn). Trương Thị Ngọc Chác con gái trưởng của cụ Cổn quận Công Trương Khuông lấy Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông (con cụ Cẩm Quận Công, người làng Lương Xá , huyện Chương Mỹ. Trương Thị Ngọc Bình, con gái thứ 4 cụ Cổn Quận Công Trương Khuông lấy quan Võ úy Nguyễn Trụ anh cùng cha cùng mẹ (Trần Thị Tần) của đại thi hào Nguyễn Du. Con trai đầu của cụ Xuân Quận Công, Thượng thư Đại tư đồ Nguyễn Nghiễm với cụ bà Trần Thị Tần người làng Hương Mặc phủ Đông Ngàn.
Trương Thị Lam, con gái thứ 5 cụ Cổn Quận Công Trương Khuông lấy ông Lê Quý Kiệt con trai trưởng cụ Thượng Thư bác học Lê Quý Đôn. Ông Lê Quý Kiệt có chỉnh lý hộ cuốn gia phả họ Trương và viết lời tựa.
Trương Thị Thường, con gái thứ 2 Vinh Trung Hầu Trương Chân lấy Tiến sĩ Ngô Thì Sĩ người làng Thanh Oai, huyện Thanh Trì. Trương Thị Hằng lấy ông Đặng Đình Thường, người làng Lương Xá, huyện Chương Đức, làm tán lý
III. Sự tri ân của Chúa Trịnh Cương với họ ngoại.
Sinh thời chúa Trịnh Cương- một nhà cải cách lớn của đất nước Đại Việt ở triều Lê- Trịnh rất biết ơn công đức của thân mẫu Thái phi Trương Thị Ngọc Chử, ông đã cho lập Từ Vũ tại Như Quỳnh để thờ ông ngoại (Diên Khánh Công Trương Dự) và 2 cậu ruột (Thiêm Quận Công Trương Nhưng, Phấn Quận Công Trương Nhiêu). Đền thờ này ở giữa đồng làng sát cầu Ghênh có diện tích 1 mẫu 7 sào Bắc Bộ (bản đồ cũ còn lưu giữ tại xã), có một quần thể điêu khắc đá thế kỷ cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, gồm 2 thạch trụ ngoài cổng, 7 hương án đá, cái to nhất cao 1m30, dài 2,26m, rộng 1m 47; cái nhỏ nhất rộng 1m 08, dài 1m 90. Hai phỗng đá và 2 chó đá cao 1m55 và 2 rồng đá có họa tiết vân mây. An Đô Vương còn cho lập phủ Chí Nguyên vì các Chúa sau Trịnh Cương đều có gốc từ bà Ngọc Chử mà ra. Xã Như Quỳnh được đổi thành Như Kinh (có nghĩa đẹp sang như kinh đô). Chúa Trịnh Cương thường về đó chơi và lập hành cung ở xã Cổ Bi để tiện vi hành và về quê mẹ. Vì vậy có câu:
"Nhớ ơn mẫu hậu Thái phi
Trịnh Cương lập phủ để tri ân này
Sập bia đá Thạnh Hoa vận chuyển
Rồng, Nghê, Lân về tận Như Kinh
Phủ thờ như thể cung đình
Bệ nào sập ấy công trình lớn lao".
Theo dấu tích còn sót lại có thể hình dung Phủ Chí Nguyên như sau: từ ngoài đường đi vào phải qua cổng lớn và qua một khoảng sân vườn khá rộng rồi tới 3 cấp nền đặt 3 đôi Rồng đá và 3 đôi Kỳ Lân. Từng đôi Rồng đá cách nhau 10m chiều ngang và khoảng 20 m chiều dọc. Mỗi con Rồng cao 0m70, dài 1m20, bề ngang 0m37, chạm trổ Rồng lá vân mây, phần đuôi có xoáy Âm – Dương`chứ không tạc có vảy móng như trong phủ Chúa. Song song với từng đôi Rồng đá là từng đôi Kỳ Lân.Theo phong thủy, phủ chí Nguyên có hồ, có giếng mắt Rồng.
Sau khi in xong "Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan- sự tích diễn ca" - tác phẩm thơ Nôm của Chiêu Nghi Trương Thị Ngọc Trong thì bộ ván khắc tàng bản đó được lưu giữ tại phủ Chí Nguyên - nhà thờ họ Trương ở Như Quỳnh.
Theo lời phụ chú "Hoàng Thái hậu Ỷ Lan sự tích diễn ca" thì " Kinh Bắc Như Quỳnh Trương Thị Thế phả, Chí Nguyên cung phủ miếu báu tàng Nghĩa là: “Sách chép chuyện các đời về họ Trương ở xã Như Quỳnh, xứ Kinh Bắc, là họ ngoại Chúa. Phủ miếu Chí Nguyên cung trân trọng giữ”. Đấy là những tư liệu quý đối với lịch sử văn hóa dân tộc. Mới hay, quê mẹ Chúa Trịnh Cương có ý nghĩa rất quan trọng trong thời Lê -Trịnh
Hiện di tích vẫn còn một số cổ vật quý hiếm. Năm 1992 Bộ Văn hoá đã xếp hạng Từ Vũ- một di tích lịch sử văn hoá đặc sắc của quốc gia
Một số hình ảnh về dấu tích còn lại của Phủ Chí Nguyên.
Sập đá, dấu tích của phủ Chí Nguyên |
Rồng đá của Phủ Chí Nguyên |
Sấu đá của Phủ Chí Nguyên |
Tác giả: Nhà thơ nhà báo Trương Thị Kim Dung bên dấu tích xưa |
Rồng đá và Sấu đá của Phủ Chí Nguyên |
Toàn cảnh Phủ Chí Nguyên, nay là nhà thờ chi họ Trương ở Như Quỳnh, Hưng Yên |
Nhà thơ, Nhà báo Trương Thị Kim Dung
Phó chủ tịch Hội đồng Họ Trương Việt Nam
No comments: