Chùa Hang là tên gọi dân gian của Phước Điền Tự, một trong bốn di tích văn hóa lịch sử của Núi Sam, được bộ Văn hóa xếp hạng.
Mặc dù nằm trên triền phía Tây Núi Sam, cách cụm di tích Tây An Tự, miếu Bà Chùa Xứ, lăng Thoại Ngọc Hầu khoảng một cây số nhưng vốn là một cảnh quan thanh tịnh, ở trên độ cao vừa phải, có hang sâu với truyền thuyết Thanh xà Bạch xà hấp dẫn, chùa Hang vẫn được du khách, người hành hương tấp nập đến viếng.
Từ chân núi đến chùa Hang là con đường nấc thang vừa để dễ đi vừa tạo thêm nét đẹp giữa những khối đá chập chùng. Đoạn đường đủ để người ta đi một hơi rồi đứng lại hít thở không khí trong lành, ngước nhìn cảnh chùa cao vời vợi hay ngắm cảnh đồng bằng bao la bát ngát. Trước chùa có hai ngôi bảo tháp màu sắc sặc sỡ, hài hòa, chạm khắc công phu, đứng uy nghi trên triền núi. Phía dưới là bảo tháp của hòa thượng Thích Huệ Thiện, vị sư trụ trì đời thứ hai viên tịch năm 1990, thọ 86 tuổi. Phía trên là bảo tháp của bà Thợ, người sáng lập Phước Điền tự. Ngôi bảo tháp này được xây dựng năm 1899. Đã nhuốm màu rêu phong nay được tu sửa lại.
Bà Thợ tên thật là Lê Thị Thơ, sinh năm Mậu Dần (1818), quê quán Chợ Lớn, làm nghề thợ may nên được gọi là bà Thợ. Sau khi có chồng gặp cảnh đời ngang trái, bà từ bỏ cuộc sống đời thường đi đến Núi Sam vào chùa Tây An xin quy y với pháp danh Diệu Thiện. Tu được một thời gian, nhận thấy Tây An Tự nhiều người lui tới và bị chính quyền bấy giờ theo dõi nên bà đi lần về hướng Tây gặp cái hang sâu yên tĩnh, vắng người, rậm rạp cây cối nên ở lại dựng am tu hành. Sau đó ít lâu, dân sùng đạo địa phương mến mộ công đức của bà nên đã góp công góp của xây dựng thành ngôi chùa, dù cũng bằng tre lá đơn sơ nhưng lớn rộng hơn và từ đó trở thành Phước Điền tự nhưng người ta vẫn gọi là chùa Hang.
Khung cảnh nên thơ nhìn từ khuôn viên chùa
Tương truyền trong hang sâu có cặp rắn rất lớn. Con xanh tên là Thanh xà, con trắng là Bạch xà. Nghe tiếng kinh kệ, hai con rắn bò lên và sau đó được bà Thợ thuần phục. Chúng không hại người mà đêm đêm còn đến khoanh sau lưng bà nghe kinh, ăn đồ chay cúng Phật và trông chừng thú dữ, kẻ gian, bảo vệ yên tĩnh chốn tu hành.
Hiện nay, để tránh nguy hiễm, hang được lấp kín chỉ còn lối đi vào cửa sâu khoảng 10m, trông rất âm u, huyền bí.
Bà Thợ viên tịch năm Kỷ Hợi (1899), hưởng thọ 81 tuổi. Di ảnh bà còn lưu lại trong chùa với gương mặt phúc hậu, nhân từ.
Trước bảo tháp của bà Thợ là mộ thầy Thông Phán, tức ông Nguyễn Ngọc Cang, người có công rất lớn trong việc trùng tu lần đầu tiên. Đến năm 1937, hòa thượng Thích Huệ Thiện trùng tu lần hai và ngày nay, vào đời trụ trì thứ ba, hòa thượng Thích Thiện Chơn đang tiếp tục trùng tu. Mặt tiền chùa và chánh điện được xây dựng lại khang trang, mỹ thuật hơn xưa. Chính giữa thờ Phật Thích Ca cùng với các vị Quan Âm, A Di Đà, Đại Thế Chí ở hai bên. Đặc biệt, phía trước là cây cột phướng đồ sộ cao hơn 20m. Dưới thềm chùa là hai tượng sư tử bằng xi măng khá sinh động. Bên trái chùa là Tây lang được tu sửa và bên phải là ngôi Đông lang cũng vừa được xây dựng mới. Kinh phí sửa chữa một phần do khách thập phương đóng góp, còn lại là do tích lũy từ quỹ sản xuất nông nghiệp của chùa.