Kiến trúc Phật Giáo qua các thời kỳ Mở ĐầuPhật giáo là tôn giáo lâu đời và lớn nhất ở nước ta, đồng thời Phật giáo cũng có ảnh hưởng sâu rộng, bao quát nhất ở các địa phương so với các tôn giáo khác. V́ tôn chỉ của Phật giáo luôn thích hợp với mọi thời đại, như là mang đến t́nh thương, ḷng từ bi, an lạc, hạnh phúc và hoà b́nh đến cho nhân sinh và toàn thể chúng sinh.
Với lịch sử phát triển trải hơn 2000 năm, Phật giáo từ tôn giáo ngoại lai đă trở thành tâm linh bản địa. Sau khi con người Việt Nam tiếp nhận Phật giáo như một chỗ dựa, một niềm tin về tinh thần th́ họ cũng đă trở thành những chủ thể sáng tạo ra biết bao công tŕnh Phật giáo, mang đậm tính dân tộc và ư nghĩa Phật giáo như hệ thống chùa, tháp, tượng Phật... Những sản phẩm đó là sự chắt lọc sức sáng tạo của con người, đồng thời nói lên vị thế và tầm quan trọng của Phật giáo trong lịch sử, cũng như khẳng định ư nghĩa to lớn của tôn giáo này trong thời đại ngày nay - được xem là một phần quan trọng trong hệ thống những Di sản văn hoá vật thể của dân tộc.
Giai đoạn đầu khi Phật giáo được truyền vào nước ta (từ đầu Công nguyên đến thế kỷ IV), Phật giáo chỉ là những am miếu thờ Phật, tương đối gần gũi với những điện thờ tổ tiên theo tín ngưỡng nguyên thuỷ mà người Việt rất mực coi trọng. Hệ thống các ngôi chùa Tứ Pháp mà ta c̣n thấy hiện nay, là những ngôi chùa khởi thuỷ cho việc Phật giáo từ Ấn Độ được trực tiếp du nhập vào Việt Nam. Cho đến thế kỷ V - VI, thư tịch cho biết trên đất Giao Châu có đến 20 chùa tháp. Đến cuối thế kỷ VI cho đến hết thời kỳ Bắc thuộc, những ngôi chùa cũng không để lại dấu vết ǵ ngoài ghi chép vắn tắt của thư tịch. Dưới những thời kỳ tự chủ của nhà Tiền Lư, nhà Ngô, nhà Đinh, Tiền Lê (thế kỷ X) , tuy Phật giáo thịnh nhưng do thời gian tồn tại của các triều đại không dài nên không dựng chùa xây tháp nhiều chỉ c̣n biết đến qua những di vật như cột đá khắc những câu kệ và chú thời Đinh, và tên chùa Khai Quốc được khởi dựng thời tiền Lư.
Các triều đại như Đinh, Lê, Lư, Trần... nối tiếp nhau và được hưng thịnh một phần nhờ dựa vào giáo lư Từ bi, trí tuệ, b́nh đẳng giải thoát và tự chủ của Phật giáo. Xă hội biến động dẫn đến những thay đổi nhất định trong bộ mặt kiến trúc dân tộc. Đối với kiến trúc chùa cũng không nằm ngoài quy luật đó, nghệ thuật trang trí, tạo h́nh nâng cao, phong cách kiến trúc từng thời kỳ có nhiều biến đổi, mỗi thời kỳ lại mang dáng dấp và thể hiện một cách rơ ràng dấu ấn của xă hội đương thời.
Do đó, nghiên cứu tổng quan về kiến trúc chùa Việt Nam trong tiến tŕnh phát triển Phật giáo cũng như quá tŕnh thích ứng của nó ở xă hội Việt Nam góp phần vào việc nghiên cứu các giá trị cần ǵn giữ của chùa truyền thống và áp dụng những giá trị đó trong các công tŕnh Phật giáo trong tương lai.
Các công tŕnh kiến trúc Phật Giáo khởi dựng từ thời Lư hiện c̣n tồn tại đến ngày nay, qua các di tích và di vật sẽ là đối tượng nghiên cứu chính của bài viết. Danh mục các công tŕnh được liệt kê trong các di tích tiêu biểu của từng thời kỳ, gồm những công tŕnh nổi tiếng được khởi dựng trong thời kỳ đó. Các nhà nghiên cứu thường chia công tŕnh theo đặc trưng mỹ thuật từng thời trên các trang trí cấu kiện. Do đó, phần nghiên cứu kiến trúc các công tŕnh Phật giáo cho từng thời chủ yếu nghiên cứu các công tŕnh mang phong cách mỹ thuật đặc trưng theo niên đại xây dựng và trùng tu toàn phần mới nhất. Đó là những ngôi chùa hiện c̣n tồn tại với những phong cách kiến trúc và mỹ thuật đặc trưng nhất của từng thời kỳ thể hiện qua khu trung tâm. Phân loại theo các nhà nghiên cứu mỹ thuật đi trước th́ có phong cách mỹ thuật thời Lư, phong cách mỹ thuật thời Trần, phong cách mỹ thuật thời Lê Sơ, phong cách mỹ thuật thời Mạc, phong cách mỹ thuật thời Nguyễn... gắn liền với nó là những công tŕnh mang dáng dấp và h́nh thức khác nhau. Ví dụ một ngôi chùa như chùa Láng khởi dựng từ thời Lư th́ được liệt kê trong các công tŕnh kiến trúc khởi dựng vào thời Lư. Nhưng kiến trúc khu trung tâm chùa Láng hiện nay chủ yếu được làm mới dưới thời Nguyễn, do đó bài viết xếp chùa Láng vào các ngôi chùa mang phong cách Nguyễn và không nghiên cứu trong kiến trúc Phật giáo thời Lư.
Phần 1- Kiến trúc Phật Giáo thời Lư (1010-1225)- T́nh h́nh phát triển Phật giáo thời Lư Năm 1010, Lư Công Uẩn lên ngôi, dời đô từ Hoa Lư về Đại La, lập nên nhà Lư. Nhà Lư tồn tại hơn 200 năm với tám đời vua ( Lư Bát đế ) không kể Lư Chiêu Hoàng (1225). Tám đời vua gồm Lư Thái Tổ (1010-1028 ), Lư Thái Tông (1028-1054), Lư Thánh Tông (1054-1072), Lư Nhân Tông (1072-1127), Lư Thần Tông (1127-1138), Lư Anh Tông (1138-1175), Lư Cao Tông (1176-1210), Lư Huệ Tông (1211-1224).
Thời Lư, đất nước độc lập và thống nhất, những tư tưởng tích cực của đạo Phật như từ bi, vô ngă đă có được một chỗ đứng vững chắc nhất trong lịch sử. Các thiền sư Lư Khánh Văn và Lư Vạn Hạnh góp phần đưa sự tổng hoà giữa văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa thành văn hoá Việt Nam. Giai đoạn tiếp theo, thế kỷ XI, Phật giáo trở thành quốc giáo, nhà sư Thảo Đường được vua Lư Thánh Tông chọn làm quốc sư và đă lập ra thiền phái thứ 3 tại Việt Nam.
Phật giáo được trọng vọng, được truyền bá rộng răi trong quần chúng, chùa chiền được khởi dựng rất nhiều, song các di tích và di vật hiện c̣n rất ít. Như trong đời vua Lư Thái Tổ, ngài đă cho xây dựng hơn 300 ngôi chùa và sửa chữa các ngôi chùa đă hư nát. Riêng năm 1031, triều đ́nh đă phát tiền kho làm chùa quán ở 950 nơi. Ỷ Lan hoàng hậu cũng xây dựng hơn 100 ngôi chùa… Không những vua, vương hầu khanh tướng xây dựng và tu bổ hàng loạt công tŕnh khắp nơi mà nhân dân cũng một ḷng góp công, góp của vào việc xây dựng chùa tháp.
- Những công tŕnh Phật giáo tiêu biểu trong thời LưCác di tích Phật giáo thời Lư chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhiều nhất là ở Thăng Long, Bắc Ninh và Nam Định.
+ Chùa Diên Hựu hay gọi là chùa Một Cột ( Hà Nội), khởi dựng năm 1049 dưới đời vua Lư Thái Tông tại Thăng Long. Chùa nhỏ nhắn, thanh thoát nhẹ nhàng, mang h́nh dáng một bông hoa sen. Chùa ngày nay được xây dựng lại năm 1955.
+ Chùa Phật Tích - Vạn Phúc tự ( Bắc Ninh), khởi dựng năm 1057. Di vật hiện c̣n là tượng A Di Đà bằng đá, một hệ thống tượng đá gồm 10 con giống như voi, lân, trâu, ngựa…, ba lớp nền bằng đá, những di vật mang họa tiết trang trí lá đề, hoa sen, rồng, phượng… Đầu tượng đá Kim Cương, chim thần đánh trống cơm
+ Chùa Dạm - Thần Quang tự (Bắc Ninh), ngoài cột đá chạm rồng vờn sóng nước chùa Dạm, hiện chỉ c̣n bốn cấp nền xẻ vào sườn núi bó đá với bực thềm giữa dài 16 mét , đầu tượng Kim Cương bằng đá.
+ Chùa Long Đọi - Diên Linh tự ( Nam Định) khởi dựng từ năm 1054 dưới đời vua Lư Thánh Tông . Tháp Sùng Thiện Diên Linh ( 1118 – 1121) xây dưới đời Lư Nhân Tông. Chùa bị phá hủy hoàn toàn từ thế kỷ XV, sau đó được dựng lại vào thời Mạc, kiến trúc hiện này là thời Nguyễn, hiện đang trong giai đọan trùng tu lại. Các di vật c̣n lại là bia Sùng Thiện Diên Linh, tượng kim Cương, nền tháp Sùng Thiện Diên Linh, tượng Kim Cương .
+ Chùa Chương Sơn ( Nam Định) , các di vật hiện c̣n như nền tháp bằng đá, lan can đá tạc h́nh vũ nữ thiên thần, những thớt tṛn đá chạm rồng có hoa dây, rồng và hoa sen, tượng đầu người ḿnh chim Kinnaras và tượng Phật bằng đá.
+ Chùa Bà Tấm - Sùng Phước tự ( Hà Nội) , hiện c̣n hai đầu sư tử đội ṭa sen bằng đá, thành bậc đá có tượng con sấu và chạm hoa dây chim phượng.
+ Chùa Láng – Chiêu Thiên tự ( Hà Nội) chùa được xây thời Lư Thần Tông , toàn bộ chùa ngày nay được xây lại vào thời Hậu Lê. Chùa đă được trùng tu lại nhiều lần, kiến trúc khu trung tâm hiện c̣n là kiến trúc thời Nguyễn, chùa mới được trùng tu năm 1989.
Chùa Phật Tích – Vạn Phúc tự ( Bắc Ninh) - Đặc điểm kiến trúc+ Vị trí, thế đất Nét đẹp sơn thủy hữu t́nh hài ḥa với kiến trúc Phật giáo làm tôn giá trị kiến trúc lên và gắn bó với kiến trúc lâu dài đă được sử dụng triệt để trong thời Lư. Như lời nhà sư Pháp Bảo được khắc trong văn bia chùa Linh Xứng
“ Hễ có cảnh đẹp núi non th́ không nơi nào là không xây dựng chùa chiền” . Địa thế chùa Long Đọi được Phạm Công Bật ghi trong văn bia Sùng Thiện Diên Linh như sau
“Mặt chùa trông ra sông Kinh, gió lặng, mặt sông như lụa biếc trải ra, lưng chùa quay về núi Điệp, mưa tan dáng núi như gấm xanh thêm sáng. Bên hữu khống chế b́nh nguyên trông tới lũy xưa Càn Hưng. Bên tả men theo sông, quanh Hán Thủy để ra khơi…” . Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh được nhà sư Pháp Bảo mô tả
“phong cảnh vẫn nguyên, hai cửa khuyết khống chế phía trước, ba ḍng sông ủng hộ phía sau. Thanh tĩnh, tĩnh mịch, thực là nơi trụ tŕ của nhà Phật, nơi gửi gắm tâm tư cửa Bồ Tát…” (Sùng Nghiêm Diên Thánh bi kư)
Chùa Linh Xứng cũng được nhà sư này viết về phong cảnh địa thế như sau
“ Chân núi quanh co bên bờ nước, đâu phải núi đồi Dĩ, Hổ, lại không vách đứng tường cao bóng lam ngùn ngụt, sắc thủy đậm đà, quanh quất làng xa…” (Linh Xứng bi kư)
Từ các văn bia để lại và từ dấu tích từ thực địa, ta thấy đặc điểm xuyên suốt cho các đại và trung danh lam thời Lư là chọn địa h́nh cao. Các chùa tháp thường được xây trên các triền núi nơi có phong cảnh đẹp, lấy núi làm chỗ dựa, xung quanh là đồng bằng. Ví dụ chùa Dạm trên núi Dạm ( Bắc Ninh) , chùa Phật Tích trên núi Lạn Kha ( Bắc Ninh)… Các lớp nền chùa Dạm, Phật Tích cho thấy, các cấp nền dựa vào thế núi, được người xưa bạt thành những tầng bậc bằng phẳng và rộng răi để xây chùa và dựng tháp. Với những núi thấp th́ chùa được làm trên đỉnh núi để sự ảnh hưởng Chùa Long Đọi và tháp Diên Linh trên núi Đọi (Nam Hà), tháp Chương Sơn trên núi Ngô Xá (Nam Hà)… Nếu không có núi người xưa cũng t́m nơi đất cao để xây dựng chùa tháp như chùa Bà Tấm (Hà Nội), chùa Hương Lăng (Hưng Yên)…
Núi đồi cao, cây cối, phong cảnh chung quanh tạo nên không gian thanh b́nh, tịch mịch và tăng thêm phần trang nghiêm, thoát tục cho công tŕnh. Nhưng những người kiến tạo chùa cũng chọn những địa điểm cao giữa một vùng đồng bằng rộng xung quanh, khiến công tŕnh Phật giáo mang một giá trị thực tiễn là chinh phục người dân trên một diện rộng, để đạo không tách biệt mà có những gắn bó và ảnh hưởng nhất định với đời.
Một đặc điểm nữa dễ nhận thấy là các chùa tháp đều gắn bó với sông nước ao hồ nhất là sông tạo nên những phong cảnh “sơn thủy hữu t́nh”. Những công tŕnh ở địa thế xa sông cũng thường thấy được xây dựng những con ng̣i nối với sông. Đặc điểm này cũng mang một giá trị thực tiễn lớn v́ ven sông thường là nơi tập trung dân cư và sông là hệ thống giao thông thuận tiện thời bấy giờ giúp cho việc đi lại và chuyên chở vật liệu xây dựng công tŕnh.
Mặt cắt địa h́nh chùa Phật Tích (theo Bezacier. L L’art de VietNammien – Paris 1992)+ Tổ hợp không gianCác nhà nghiên cứu đi trước đă dựa vào thực địa và thư tịch có thể chia chùa thời Lư làm 4 loại khác nhau, loại thứ nhất là kiểu chùa dựng trên 1 cây cột (chùa Một Cột) phát triển đến kiến trúc tháp. Chùa loại 2 là chùa có quy mô lớn kiêm hành cung để vua nghỉ ngơi khi du ngoạn. Loại chùa thứ ba không có tháp, không phải hành cung nhưng cũng rất lớn, phát triển theo chiều sâu theo trục thần đạo và nâng cao dần, khu điện thờ bố cục gần giống mặt bằng của tháp. Cuối cùng là các chùa nhỏ nằm trong thôn xóm cơ bản chỉ là cái am cho nhà sư tu dưỡng, và sau đó được mở mang trong khuôn khổ gọn nhỏ.
Khuôn viên của các công tŕnh Phật giáo thời kỳ này thường có những bố cục cân xứng, hài ḥa với môi trường xung quanh, đưa kiến trúc và cảnh quan thành một thể thống nhất. Sắp xếp bố cục nhà cửa, tháp, hành lang được nhắc đến trong văn bia chùa Linh Xứng là một ví dụ điển h́nh
“ Chùa ở phía Nam núi. Trai pḥng ở hai bên…Phía sau xây ngôi tháp báu gọi là tháp Chiêu Ân.” (Linh Xứng bi kư)
Dưới thời Lư, chùa tháp dạng Đại hoặc Trung Danh lam được kiến tạo rất nhiều và tương đối đồ sộ so với các thời kỳ sau. Rất nhiều tháp được xây dựng như tháp Tường Long, Chương Sơn, Long Đọi, Linh Xứng... Dạng kiến trúc này có thể dựa theo việc bố trí Tháp mà phân thành hai loại:
+ Loại tháp là trung tâm, những cây tháp thời kỳ này là kiến trúc chính của toàn cảnh chùa và chính thức là điện thờ Phật, trong ḷng tháp có đặt tượng Phật, tháp thường xây trên lưng chừng hoặc giữa đỉnh núi, lấy núi làm nền để tôn thêm vẻ bề thế của ḿnh. Các kiến trúc phụ làm tăng pḥng được bố trí xung quanh cây tháp. Kiến trúc của các ngôi chùa thời Lư là các ngôi tháp. Tháp chính là chùa, đồ sộ, và chiếm giữ một tầm nh́n rộng lớn.
+ Dạng bố cục kiến trúc nữa có thể kể đến nhờ vào tư liệu khảo cổ học là chùa có các công tŕnh dựa vào thế núi, sắp xếp theo lớp trước sau đi sâu vào trong và lên cao dần. Ví dụ chùa Tiên Du Phật tích tại Bắc Ninh, lớp nền thứ nhất bày tượng các con giống, lớp thứ hai đặt các tăng pḥng, lớp thứ ba xây tháp thờ Phật.
Tổ hợp không gian thay đổi tuỳ theo địa h́nh, nhưng chủ yếu công tŕnh vẫn cân xứng, đăng đối quy tụ về một tâm điểm là cây tháp thờ Phật hoặc đăng đối theo một trục dài.
Các công tŕnh kiến trúc thời này đều có hướng quay về hướng Nam, hướng phù hợp với khí hậu bản địa.
Mặt bằng tổng thể chùa Phật Tích (theo Bezacier. L L’art de VietNammien – Paris 1992)+ Kiến trúc Phật điện Thời này, chủ yếu có các công tŕnh có dạng Tháp là Phật điện - nơi thờ Phật. Các kiến trúc phụ được bố trí xung quanh tháp (thường là công tŕnh chùa có quy mô lớn kiêm hành cung cho vua). Loại nữa có dạng Phật điện có quy mô lớn và không có tháp. Chúng ta không có tài liệu đầy đủ về h́nh dáng các kiến trúc thời Lư , chỉ có thể phần nào h́nh dung qua văn bia và một số nền di tích.
Chùa Hướng Nghiêm được mô tả
“ mái hiên cong cong như trĩ x̣e xánh, ngói lợp lớp lớp như vẩy rồng” , chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh được nhà sư Pháp Bảo viết
“ Ngắm xem: rường nhà cong cong như cầu vồng mưa quạnh quẽ nhô ra, ngói uyên ương phơi dưới gió như xập x̣e muốn lượn, nóc nhà uốn như trĩ bay x̣e cánh, đầu chạm trổ như Phượng múa lại chầu. Mái cong lấp lánh dưới mặt trời, hiên lượn quanh co trước gió. Tường vách xung quanh, một cơi bụi trần không lẫn, hành lang bao bọc, bốn mùa hiên cửa thanh hư…” (Sùng Nghiêm Diên Thánh bi kư). Đại Việt sử kư toàn thư của sử gia Lê Văn Hưu cũng ghi
“tường cao ngất trời, tạc cột chùa bằng đá, làm chùa thờ Phật lộng lẫy hơn cả cung điện nhà vua”. Các vị vua Lư thấm nhuần giáo lư Phật Đà, không muốn hoang phí sa xỉ vào kiến trúc cung điện, lăng tẩm nguy nga đồ sộ cho riêng ḿnh, mà tập trung vào xây chùa tháp hết sức bề thế, nh́n theo khía cạnh tâm lư người Việt lại có ư nghĩa lớn, biểu hiện cho một sự gắn kết cộng đồng, cũng như ḷng từ bi, mối quan tâm đến đời sống tâm linh và đạo đức xă hội thời bấy giờ của triều đ́nh nhà Lư đối với quốc dân.
Bên cạnh kiến trúc các điện Phật, kiến trúc tháp để lại những dấu tích mà ta có thể h́nh dung ra h́nh dáng đồ sộ của chúng. Tháp có mặt bằng h́nh vuông, trong có tượng Phật, các cây tháp đó ḥa vào hành lang, giải vũ ở hai bên, những ṭa nhà phía sau… để tạo nên một tổng thể vừa dàn trải nhưng đột khởi, vừa thiêng liêng vừa gần gũi. Kiến trúc tháp chùa Phật tích theo tài liệu khai quật năm 1940 th́ có cạnh đáy dài 8,5 m, tính theo tỷ lệ tháp cổ th́ tháp phải cao đến 42m. Tháp Chương Sơn xây năm 1108 nay đă đổ nát th́ bố cục mặt bằng theo h́nh vuông và các cạnh dài đến 19m. Kiến trúc tháp Sùng Thiện Diên Linh tại núi Đọi cũng là một công tŕnh lớn
“xây mười ba chọc trời , mở bốn mươi hống gió. Vách chạm rồng ổ; xa treo chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng xá lợi, toả tường quang cho đời thịnh sau nay; đỉnh nóc xây tiên khách bưng mâm, hứng móc ngọc dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chia tám tướng khôi ngô; đứng hộ vệ thần dân cầm kiếm … cho nên nhà vua đặt tháp ấy là Sùng Thiện Diên Linh.” (Sùng thiện Diên Linh bi kư). Tháp báo Thiên bên bờ hồ Ḥan Kiếm gồm 12 tầng, cao khoảng gần 70m.. H́nh ảnh của những cây tháp được in trong các viên gạch tháp chùa Phật Tích và trong văn bia cho thấy kiến trúc tháp nhiều tầng chồng lên nhau, càng lên cao càng thu nhỏ, các tầng ngăn cách bằng bộ mái nhô ra bên ngoài. Kiến trúc tháp cao rộng mang lại sự bề thế cho kiến trúc Phật giáo, tạo nên một không khí thiêng liêng. Các cây tháp cao vút lên không trung, như biểu hiện ư chí cao vút trên con đường t́m tới giác ngộ, đồng thời cũng như tỏ tấm ḷng triêm ân cao ṿi vọi với ơn đức cao dày của Phật Tổ.
Một h́nh dáng kiến trúc độc đáo của thời Lư được mô tả qua văn bia như sau
“ Tôn sùng đạo Phật, hâm mộ thắng nhân, mở chùa Diên Hựu ở tại vườn tây. Dấu vết theo quy mô thuở trước, lo toan thánh ư ngày nay. Đào ao thơm Linh chủ, giữa ao trồi lên một cột đá, trên cột có một đoá sen ngh́n cánh sen x̣e ra. Trên hoa dựng một ngôi đền đỏ sẫm, trong đền đặt pho tượng sắc vàng. Ngoài ao có hành lang bao bọc. Ngoài hành lang lại đào ao Bích tŕ, bắc cầu cong để đi lại. Ở sân trước cầu, hai bên tả hữu xây bảo tháp Lưu Ly…” ( Sùng Thiện Diên Linh Bi kư). Từ văn bia này cho ta thấy, thời Lư kiến trúc chùa Một Cột mang h́nh dáng hoa sen mọc trên mặt nước. Ngôi chùa được đặt trên một cột đá cao 20 m, ao vuông tượng trưng cho mặt đất. Kiến trúc hiện nay nhỏ hơn kiến trúc trước kia và kết cấu cột gỗ do chiến tranh tàn phá và nhiều đợt trùng tu nhưng vẫn là biểu tượng kiến trúc không những cho một thời kỳ lịch sử, mà c̣n cho cả một dân tộc. Các cột đá t́m thấy ở chùa Dạm và cột đỡ tượng Như Lai được miêu tả trong văn bia chùa Linh Xứng cũng thuộc dạng kiến trúc này. Cột chùa Dạm cao 5 m gồm chân cột vuông 2m và phía trên cột tṛn cao 3m, được gắn liền với một khối đứng giữa một nền tṛn đường kính 5 m, có ba bậc cao 0,5 m. được xây dựng trên 1 cây cột bằng đá, hoặc tượng Phật ngồi bệ sen, gác chuông hoặc một công tŕnh nhỏ thờ Phật.
Mặt bằng tổng thể và mặt cắt chùa Diên hựu trước khi bị phá hủy
(theo Bezacier. L L’art de VietNammien – Paris 1992)+ Vật liệu và kỹ thuật xây dựngThời Lư, với vật liệu gạch đá, kiến trúc đă cho phép h́nh thành nên những cây tháp nhiều tầng. Gỗ, đá, đất nung, đồng ... được sử dụng trong các công tŕnh. Đá được sử dụng trong xây những phần chịu lực của tháp như tầng đế, cửa cuốn ṭ ṿ, trụ góc, và để ghép nền chùa… Những phần trên đ̣i hỏi nhẹ, người xưa sử dụng các vật liệu như gạch mỏng, đất nung, đặc biệt là phần trên tháp Báo Thiên c̣n được xây dựng bằng kim loại đồng.
Theo thư tịch, nhiều ngôi tháp có ảnh hưởng vật liệu và phương thức xây dựng từ người Chămpa. Đó là những viên gạch với độ nung đủ để chạm khắc trang trí ngay trên bề mặt viên gạch, và chất kết dính rất mỏng. Các viên gạch thời Lư c̣n ghi rơ niên hiệu của vua là thời gian sản xuất, kích thước có nhiều loại, lớn nhất là 40cm x 40 cm. Những viên ngói có ngói bản, ngói chiếu, ngói uyên ương…
Qua các di vật c̣n lại cho thấy kỹ thuật xây và chạm khắc đá đă phát triển rực rỡ. Bên cạnh đó, những dấu tích kiến trúc đồ sộ minh chứng cho một tŕnh độ kỹ thuật cao trong xây dựng thời kỳ này. Đó là việc kết hợp đá và gạch gia cố nền móng đă khiến các công tŕnh được xây với chiều cao lớn. Thời Lư chưa thấy chất kết dính, chỉ thấy kỹ thuật xếp, chèn đất, các tảng đá cũng được đục mộng để liên kết với nhau vững hơn. Ngay cả hệ thống nền bó đá giật cấp tại chùa Phật tích cũng đă được tính toán về kỹ thuật xây dựng và bền vững suốt gần 1000 năm qua do được làm theo lối choăi chân đê với độ chếch khỏang 65 đến 70 độ. Trong từng lớp được chia thành nhiều cấp nhỏ và mỗi cấp lùi vào 1 đến 1,5 m tạo nên sự ổn định lớn cho lớp nền.
+ Trang trí, điêu khắcCác công tŕnh Phật giáo c̣n lại từ thời Lư - Trần đă có kết hợp cả yếu tố văn hoá ấn Độ thông qua việc kết hợp nghệ thuật Chàm và một phần văn hoá Hoa và mang đậm chất Phật giáo trong điêu khắc. Các yếu tố văn hoá Ấn có thể thấy trong thẩm mỹ Việt là h́nh tượng các vũ nữ múa, các tượng chim kiểu Kinnari và chim thần kiểu Garuda... có nguồn gốc từ ấn Độ đă được Việt hoá. Nhiều h́nh trang trí tạo thế thống nhất và mang ư nghĩa Dịch học như sóng nước với mây trời, hoa sen âm với hoa cúc dương.
Tượng tṛn hiện c̣n như tượng sấu đá trên thành bậc chùa Hương Lăng, tượng chim thần trên các conson chùa Chương Sơn (mang ư nghĩa trang trí), tượng sư tử đội đài sen thờ Phật chùa Bà Tấm, tượng thú chùa Phật Tích, hay những tượng A Di Đà, Kim Cương mang tính chất thờ cúng trang trọng.
Trang trí hoa cúc bệ đá chùa Phật Tích Trang trí sóng nước chùa Phật Tích Trang trí hoa sen chùa Long ĐọiTrang trí rồng mặt đá tṛn chùa Chương Sơn Các phù điêu, hoa văn thời này mang nhiều đề tài như rồng chùa Long Đọi, phượng chùa Hương Lăng, tiên nữ chùa Phật Tích, Chương Sơn, sóng nước, hoa lá, con người, cúc dây, hoa sen. Đường nét thanh tú, mềm mại, không có đường gẫy, được chau truốt kỹ càng, toàn thể tự nhiên và thoải mái. Các đường lượn có độ cong cực lớn kiểu rồng giun, mức độ sử dụng trang trí bằng đường cong rất lớn. H́nh khối thon thả và cân xứng. Con rồng thời kỳ này tiêu biểu cho văn hoá Việt Nam không pha trộn, đó là con rồng h́nh rắn, có mào lửa gắn với thân rắn, thân uốn nhiều ṿng như h́nh sin, trên trán thường có chữ S tượng trưng cho các thế lực thiên nhiên như mây mưa sấm chớp. Rồng thời Lư thường được bố cục trong khung cảnh sóng nước và mây trời và gói gọn trong một khuôn khổ nhất định như lá đề, hoa sen.
Những hoa văn trang trí được chạm khắc rất tinh vi nhưng đều chứa đựng một khối đại thể đơn giản với bố cục cân xứng hài hoà, dường như không t́m được nét thừa vô lư. Hoa văn thường được chạm trên vách tuờng, thành bậc cửa, gạch lát, kèo cột… Hoa văn lan toả xung quanh hoa văn trung tâm. Bố cục hoa cúc, sóng nước được lặp đi lặp lại thành dải. Bố cục trang trí phân tầng, phân lớp. Bố cục hướng tâm ( có hoa văn trung tâm trong một khung khép kín), bố cục h́nh dải ( hoa cúc, dây h́nh chữ công)...
+ Bài trí tượng thờHệ thống tượng Phật ở thời kỳ này qua sử sách và bi kư để lại có các tượng như Phật A Di Đà, Như Lai Thích Ca Mâu Ni Phật, Phật Di Lặc, Kim Cương.
Sách Đại Việt sử kư toàn thư ghi
“Vua sai thợ tạc hơn ngh́n pho tượng Phật, vẽ hơn ngh́n bức tượng Phật” . Bia chùa Linh Xứng ghi rơ , chính giữa là
“ Ngũ tứ Như Lai sắc vàng rực rỡ, ngồi trên ṭa sen trồi trên mặt nước” . Bia chùa Quỳnh Lâm ghi
“ vị sư Không Lộ thượng đức dựng pho tượng Di Lặc cao 6 trượng”. C̣n tượng chùa Long Đọi được ghi lại qua văn bia Sùng thiện Diên Linh như sau
“ Lại có đài cao thất bảo, xếp thành một dăy, chính giữa có ngọn núi vàng. Đặt tượng đẹp Đa Bảo Như lai, bày chân h́nh xe pháp mấy tầng. . . Thứ đến hai toà bạch ngân; bên tả đặt chân dung tượng A Di Đà, phía hữu để xá lợi của sắc thân màu nhiệm. Chiều cao mở ra thế khoẻ ; vẻ đẹp phô rơ mái cong. Long lanh ngỡ tuyết trắng đang tan, rực rỡ ắt trăng thu vằng vặc. Thứ nữa có hai toà điểu văn, bên tả đặt thân mẫu Quảng Bác, phía hữu đặt diệu tướng Bồ đề …”. Theo tấm bia chùa Diên Phúc mô tả khi ấy, điện thờ Phật có h́nh vuông. Cao nhất thờ Quan Thế Âm, hai bên thờ Văn Thù Sư Lợi và Phổ Hiền Bồ Tát. Bậc dưới thờ Tứ vị Thiên vương, hai bên điện thờ có hành lang đặt bát Bộ Kim Cương, phía ngoài có tam quan thờ Hộ pháp, thờ Thổ thần và sư tổ. Ngoài tháp thờ Phật th́ thời này chỉ c̣n di vật khảo cổ được là những chân tảng và nền cho thấy sự ra đời của các điện thờ Phật bằng kết cấu gỗ.
Tuy nhiên, chỉ c̣n tượng A Di Đà tại chùa Phật Tích và tượng Kim Cương tại chùa Long Đọi là c̣n lại tương đối nguyên vẹn đến ngày nay.
Tượng Phật A Di Đà - chùa Phật Tích- Kết luận phần 1Thời Lư có thể khẳng định là một giai đoạn phát triển rực rỡ của kiến trúc Phật giáo. Nền kiến trúc Phật giáo suốt 2 thế kỷ của nhà Lư thể hiện cho sự lớn mạnh chung của nền văn hóa dân tộc, phần nào thể hiện được chủ quyền và độc lập của quốc gia. Trong đó, kiến trúc Phật giáo thời Lư là cơ sở vững chắc và là nền tảng cho kiến trúc Phật giáo về sau. Kiến trúc Phật giáo thời Lư tiêu biểu cho giá trị nghệ thuật của Phật giáo Việt Nam và của cả dân tộc chứ không chỉ riêng cho một thời.
- Kiến trúc thời Lư vừa có quy mô lớn vừa gần gũi với cuộc sống và con người. Kiến trúc có h́nh dáng, bố cục phong phú nhưng vẫn bảo đảm tính bền vững, phù hợp với một quốc gia nhiệt đới. Dù là những kiến trúc lớn như tháp cao, nhà rộng hay những di vật nhỏ như bia, tượng đá… đều mang một giá trị bền vững rất cao, kết cấu chắc chắn và mang tính thực tiễn rất lớn. Bên cạnh kiến trúc, nghệ thuật tạo h́nh thời Lư tuy c̣n ảnh hưởng của yếu tố ngoại lai nhưng đă tạo được cho ḿnh một chất Việt, thể hiện phong cách dân tộc độc đáo, mở đầu cho giai đoạn phát triển mới của nghệ thuật tạo h́nh Việt Nam.
TLC
Tài liệu tham khảo:
Lê Mạnh Thát. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam tập 1 (1999), tập 2 (2001), tập 3 (2002), NXB Thành phố HCM.
Trần Lâm Biền. Chùa Việt. NXB VH-TT 1996.
Nguyễn Đăng Du. Văn hóa Tâm linh. NXB VH-TT 2001.
Chu Quang Trứ. Mỹ thuật Lư - Trần, Mỹ thuật Phật giáo. NXB Thuận Hoá 1998.
Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo sử luận. NXB Văn Học Hà Nội 1979.
Nguyễn Bá Lăng. Kiến trúc Phật giáo Việt Nam . Viện Đại học Vạn Hạnh 1972.
Các tài liệu văn bia thời Lư của Viện Mỹ thuật.