View Full Version: Kiến trúc Phật Giáo qua các thời kỳ

PhiGia > Lịch Sử, Văn Hóa > Kiến trúc Phật Giáo qua các thời kỳ


Title: Kiến trúc Phật Giáo qua các thời kỳ
Description: Trần Lan Chi


nhànhlantím - May 29, 2005 03:32 PM (GMT)
Kiến trúc Phật Giáo qua các thời kỳ

Mở Đầu

Phật giáo là tôn giáo lâu đời và lớn nhất ở nước ta, đồng thời Phật giáo cũng có ảnh hưởng sâu rộng, bao quát nhất ở các địa phương so với các tôn giáo khác. V́ tôn chỉ của Phật giáo luôn thích hợp với mọi thời đại, như là mang đến t́nh thương, ḷng từ bi, an lạc, hạnh phúc và hoà b́nh đến cho nhân sinh và toàn thể chúng sinh.

Với lịch sử phát triển trải hơn 2000 năm, Phật giáo từ tôn giáo ngoại lai đă trở thành tâm linh bản địa. Sau khi con người Việt Nam tiếp nhận Phật giáo như một chỗ dựa, một niềm tin về tinh thần th́ họ cũng đă trở thành những chủ thể sáng tạo ra biết bao công tŕnh Phật giáo, mang đậm tính dân tộc và ư nghĩa Phật giáo như hệ thống chùa, tháp, tượng Phật... Những sản phẩm đó là sự chắt lọc sức sáng tạo của con người, đồng thời nói lên vị thế và tầm quan trọng của Phật giáo trong lịch sử, cũng như khẳng định ư nghĩa to lớn của tôn giáo này trong thời đại ngày nay - được xem là một phần quan trọng trong hệ thống những Di sản văn hoá vật thể của dân tộc.

Giai đoạn đầu khi Phật giáo được truyền vào nước ta (từ đầu Công nguyên đến thế kỷ IV), Phật giáo chỉ là những am miếu thờ Phật, tương đối gần gũi với những điện thờ tổ tiên theo tín ngưỡng nguyên thuỷ mà người Việt rất mực coi trọng. Hệ thống các ngôi chùa Tứ Pháp mà ta c̣n thấy hiện nay, là những ngôi chùa khởi thuỷ cho việc Phật giáo từ Ấn Độ được trực tiếp du nhập vào Việt Nam. Cho đến thế kỷ V - VI, thư tịch cho biết trên đất Giao Châu có đến 20 chùa tháp. Đến cuối thế kỷ VI cho đến hết thời kỳ Bắc thuộc, những ngôi chùa cũng không để lại dấu vết ǵ ngoài ghi chép vắn tắt của thư tịch. Dưới những thời kỳ tự chủ của nhà Tiền Lư, nhà Ngô, nhà Đinh, Tiền Lê (thế kỷ X) , tuy Phật giáo thịnh nhưng do thời gian tồn tại của các triều đại không dài nên không dựng chùa xây tháp nhiều chỉ c̣n biết đến qua những di vật như cột đá khắc những câu kệ và chú thời Đinh, và tên chùa Khai Quốc được khởi dựng thời tiền Lư.

Các triều đại như Đinh, Lê, Lư, Trần... nối tiếp nhau và được hưng thịnh một phần nhờ dựa vào giáo lư Từ bi, trí tuệ, b́nh đẳng giải thoát và tự chủ của Phật giáo. Xă hội biến động dẫn đến những thay đổi nhất định trong bộ mặt kiến trúc dân tộc. Đối với kiến trúc chùa cũng không nằm ngoài quy luật đó, nghệ thuật trang trí, tạo h́nh nâng cao, phong cách kiến trúc từng thời kỳ có nhiều biến đổi, mỗi thời kỳ lại mang dáng dấp và thể hiện một cách rơ ràng dấu ấn của xă hội đương thời.
Do đó, nghiên cứu tổng quan về kiến trúc chùa Việt Nam trong tiến tŕnh phát triển Phật giáo cũng như quá tŕnh thích ứng của nó ở xă hội Việt Nam góp phần vào việc nghiên cứu các giá trị cần ǵn giữ của chùa truyền thống và áp dụng những giá trị đó trong các công tŕnh Phật giáo trong tương lai.

Các công tŕnh kiến trúc Phật Giáo khởi dựng từ thời Lư hiện c̣n tồn tại đến ngày nay, qua các di tích và di vật sẽ là đối tượng nghiên cứu chính của bài viết. Danh mục các công tŕnh được liệt kê trong các di tích tiêu biểu của từng thời kỳ, gồm những công tŕnh nổi tiếng được khởi dựng trong thời kỳ đó. Các nhà nghiên cứu thường chia công tŕnh theo đặc trưng mỹ thuật từng thời trên các trang trí cấu kiện. Do đó, phần nghiên cứu kiến trúc các công tŕnh Phật giáo cho từng thời chủ yếu nghiên cứu các công tŕnh mang phong cách mỹ thuật đặc trưng theo niên đại xây dựng và trùng tu toàn phần mới nhất. Đó là những ngôi chùa hiện c̣n tồn tại với những phong cách kiến trúc và mỹ thuật đặc trưng nhất của từng thời kỳ thể hiện qua khu trung tâm. Phân loại theo các nhà nghiên cứu mỹ thuật đi trước th́ có phong cách mỹ thuật thời Lư, phong cách mỹ thuật thời Trần, phong cách mỹ thuật thời Lê Sơ, phong cách mỹ thuật thời Mạc, phong cách mỹ thuật thời Nguyễn... gắn liền với nó là những công tŕnh mang dáng dấp và h́nh thức khác nhau. Ví dụ một ngôi chùa như chùa Láng khởi dựng từ thời Lư th́ được liệt kê trong các công tŕnh kiến trúc khởi dựng vào thời Lư. Nhưng kiến trúc khu trung tâm chùa Láng hiện nay chủ yếu được làm mới dưới thời Nguyễn, do đó bài viết xếp chùa Láng vào các ngôi chùa mang phong cách Nguyễn và không nghiên cứu trong kiến trúc Phật giáo thời Lư.

Phần 1- Kiến trúc Phật Giáo thời Lư (1010-1225)

- T́nh h́nh phát triển Phật giáo thời Lư

Năm 1010, Lư Công Uẩn lên ngôi, dời đô từ Hoa Lư về Đại La, lập nên nhà Lư. Nhà Lư tồn tại hơn 200 năm với tám đời vua ( Lư Bát đế ) không kể Lư Chiêu Hoàng (1225). Tám đời vua gồm Lư Thái Tổ (1010-1028 ), Lư Thái Tông (1028-1054), Lư Thánh Tông (1054-1072), Lư Nhân Tông (1072-1127), Lư Thần Tông (1127-1138), Lư Anh Tông (1138-1175), Lư Cao Tông (1176-1210), Lư Huệ Tông (1211-1224).

Thời Lư, đất nước độc lập và thống nhất, những tư tưởng tích cực của đạo Phật như từ bi, vô ngă đă có được một chỗ đứng vững chắc nhất trong lịch sử. Các thiền sư Lư Khánh Văn và Lư Vạn Hạnh góp phần đưa sự tổng hoà giữa văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa thành văn hoá Việt Nam. Giai đoạn tiếp theo, thế kỷ XI, Phật giáo trở thành quốc giáo, nhà sư Thảo Đường được vua Lư Thánh Tông chọn làm quốc sư và đă lập ra thiền phái thứ 3 tại Việt Nam.

Phật giáo được trọng vọng, được truyền bá rộng răi trong quần chúng, chùa chiền được khởi dựng rất nhiều, song các di tích và di vật hiện c̣n rất ít. Như trong đời vua Lư Thái Tổ, ngài đă cho xây dựng hơn 300 ngôi chùa và sửa chữa các ngôi chùa đă hư nát. Riêng năm 1031, triều đ́nh đă phát tiền kho làm chùa quán ở 950 nơi. Ỷ Lan hoàng hậu cũng xây dựng hơn 100 ngôi chùa… Không những vua, vương hầu khanh tướng xây dựng và tu bổ hàng loạt công tŕnh khắp nơi mà nhân dân cũng một ḷng góp công, góp của vào việc xây dựng chùa tháp.

- Những công tŕnh Phật giáo tiêu biểu trong thời Lư

Các di tích Phật giáo thời Lư chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhiều nhất là ở Thăng Long, Bắc Ninh và Nam Định.

+ Chùa Diên Hựu hay gọi là chùa Một Cột ( Hà Nội), khởi dựng năm 1049 dưới đời vua Lư Thái Tông tại Thăng Long. Chùa nhỏ nhắn, thanh thoát nhẹ nhàng, mang h́nh dáng một bông hoa sen. Chùa ngày nay được xây dựng lại năm 1955.

+ Chùa Phật Tích - Vạn Phúc tự ( Bắc Ninh), khởi dựng năm 1057. Di vật hiện c̣n là tượng A Di Đà bằng đá, một hệ thống tượng đá gồm 10 con giống như voi, lân, trâu, ngựa…, ba lớp nền bằng đá, những di vật mang họa tiết trang trí lá đề, hoa sen, rồng, phượng… Đầu tượng đá Kim Cương, chim thần đánh trống cơm

+ Chùa Dạm - Thần Quang tự (Bắc Ninh), ngoài cột đá chạm rồng vờn sóng nước chùa Dạm, hiện chỉ c̣n bốn cấp nền xẻ vào sườn núi bó đá với bực thềm giữa dài 16 mét , đầu tượng Kim Cương bằng đá.

+ Chùa Long Đọi - Diên Linh tự ( Nam Định) khởi dựng từ năm 1054 dưới đời vua Lư Thánh Tông . Tháp Sùng Thiện Diên Linh ( 1118 – 1121) xây dưới đời Lư Nhân Tông. Chùa bị phá hủy hoàn toàn từ thế kỷ XV, sau đó được dựng lại vào thời Mạc, kiến trúc hiện này là thời Nguyễn, hiện đang trong giai đọan trùng tu lại. Các di vật c̣n lại là bia Sùng Thiện Diên Linh, tượng kim Cương, nền tháp Sùng Thiện Diên Linh, tượng Kim Cương .

+ Chùa Chương Sơn ( Nam Định) , các di vật hiện c̣n như nền tháp bằng đá, lan can đá tạc h́nh vũ nữ thiên thần, những thớt tṛn đá chạm rồng có hoa dây, rồng và hoa sen, tượng đầu người ḿnh chim Kinnaras và tượng Phật bằng đá.
+ Chùa Bà Tấm - Sùng Phước tự ( Hà Nội) , hiện c̣n hai đầu sư tử đội ṭa sen bằng đá, thành bậc đá có tượng con sấu và chạm hoa dây chim phượng.

+ Chùa Láng – Chiêu Thiên tự ( Hà Nội) chùa được xây thời Lư Thần Tông , toàn bộ chùa ngày nay được xây lại vào thời Hậu Lê. Chùa đă được trùng tu lại nhiều lần, kiến trúc khu trung tâm hiện c̣n là kiến trúc thời Nguyễn, chùa mới được trùng tu năm 1989.

user posted image

Chùa Phật Tích – Vạn Phúc tự ( Bắc Ninh)

- Đặc điểm kiến trúc

+ Vị trí, thế đất

Nét đẹp sơn thủy hữu t́nh hài ḥa với kiến trúc Phật giáo làm tôn giá trị kiến trúc lên và gắn bó với kiến trúc lâu dài đă được sử dụng triệt để trong thời Lư. Như lời nhà sư Pháp Bảo được khắc trong văn bia chùa Linh Xứng“ Hễ có cảnh đẹp núi non th́ không nơi nào là không xây dựng chùa chiền” .

Địa thế chùa Long Đọi được Phạm Công Bật ghi trong văn bia Sùng Thiện Diên Linh như sau “Mặt chùa trông ra sông Kinh, gió lặng, mặt sông như lụa biếc trải ra, lưng chùa quay về núi Điệp, mưa tan dáng núi như gấm xanh thêm sáng. Bên hữu khống chế b́nh nguyên trông tới lũy xưa Càn Hưng. Bên tả men theo sông, quanh Hán Thủy để ra khơi…” .

Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh được nhà sư Pháp Bảo mô tả “phong cảnh vẫn nguyên, hai cửa khuyết khống chế phía trước, ba ḍng sông ủng hộ phía sau. Thanh tĩnh, tĩnh mịch, thực là nơi trụ tŕ của nhà Phật, nơi gửi gắm tâm tư cửa Bồ Tát…” (Sùng Nghiêm Diên Thánh bi kư)

Chùa Linh Xứng cũng được nhà sư này viết về phong cảnh địa thế như sau “ Chân núi quanh co bên bờ nước, đâu phải núi đồi Dĩ, Hổ, lại không vách đứng tường cao bóng lam ngùn ngụt, sắc thủy đậm đà, quanh quất làng xa…” (Linh Xứng bi kư)

Từ các văn bia để lại và từ dấu tích từ thực địa, ta thấy đặc điểm xuyên suốt cho các đại và trung danh lam thời Lư là chọn địa h́nh cao. Các chùa tháp thường được xây trên các triền núi nơi có phong cảnh đẹp, lấy núi làm chỗ dựa, xung quanh là đồng bằng. Ví dụ chùa Dạm trên núi Dạm ( Bắc Ninh) , chùa Phật Tích trên núi Lạn Kha ( Bắc Ninh)… Các lớp nền chùa Dạm, Phật Tích cho thấy, các cấp nền dựa vào thế núi, được người xưa bạt thành những tầng bậc bằng phẳng và rộng răi để xây chùa và dựng tháp. Với những núi thấp th́ chùa được làm trên đỉnh núi để sự ảnh hưởng Chùa Long Đọi và tháp Diên Linh trên núi Đọi (Nam Hà), tháp Chương Sơn trên núi Ngô Xá (Nam Hà)… Nếu không có núi người xưa cũng t́m nơi đất cao để xây dựng chùa tháp như chùa Bà Tấm (Hà Nội), chùa Hương Lăng (Hưng Yên)…
Núi đồi cao, cây cối, phong cảnh chung quanh tạo nên không gian thanh b́nh, tịch mịch và tăng thêm phần trang nghiêm, thoát tục cho công tŕnh. Nhưng những người kiến tạo chùa cũng chọn những địa điểm cao giữa một vùng đồng bằng rộng xung quanh, khiến công tŕnh Phật giáo mang một giá trị thực tiễn là chinh phục người dân trên một diện rộng, để đạo không tách biệt mà có những gắn bó và ảnh hưởng nhất định với đời.

Một đặc điểm nữa dễ nhận thấy là các chùa tháp đều gắn bó với sông nước ao hồ nhất là sông tạo nên những phong cảnh “sơn thủy hữu t́nh”. Những công tŕnh ở địa thế xa sông cũng thường thấy được xây dựng những con ng̣i nối với sông. Đặc điểm này cũng mang một giá trị thực tiễn lớn v́ ven sông thường là nơi tập trung dân cư và sông là hệ thống giao thông thuận tiện thời bấy giờ giúp cho việc đi lại và chuyên chở vật liệu xây dựng công tŕnh.

user posted image

Mặt cắt địa h́nh chùa Phật Tích (theo Bezacier. L L’art de VietNammien – Paris 1992)

+ Tổ hợp không gian

Các nhà nghiên cứu đi trước đă dựa vào thực địa và thư tịch có thể chia chùa thời Lư làm 4 loại khác nhau, loại thứ nhất là kiểu chùa dựng trên 1 cây cột (chùa Một Cột) phát triển đến kiến trúc tháp. Chùa loại 2 là chùa có quy mô lớn kiêm hành cung để vua nghỉ ngơi khi du ngoạn. Loại chùa thứ ba không có tháp, không phải hành cung nhưng cũng rất lớn, phát triển theo chiều sâu theo trục thần đạo và nâng cao dần, khu điện thờ bố cục gần giống mặt bằng của tháp. Cuối cùng là các chùa nhỏ nằm trong thôn xóm cơ bản chỉ là cái am cho nhà sư tu dưỡng, và sau đó được mở mang trong khuôn khổ gọn nhỏ.

Khuôn viên của các công tŕnh Phật giáo thời kỳ này thường có những bố cục cân xứng, hài ḥa với môi trường xung quanh, đưa kiến trúc và cảnh quan thành một thể thống nhất. Sắp xếp bố cục nhà cửa, tháp, hành lang được nhắc đến trong văn bia chùa Linh Xứng là một ví dụ điển h́nh “ Chùa ở phía Nam núi. Trai pḥng ở hai bên…Phía sau xây ngôi tháp báu gọi là tháp Chiêu Ân.” (Linh Xứng bi kư)

Dưới thời Lư, chùa tháp dạng Đại hoặc Trung Danh lam được kiến tạo rất nhiều và tương đối đồ sộ so với các thời kỳ sau. Rất nhiều tháp được xây dựng như tháp Tường Long, Chương Sơn, Long Đọi, Linh Xứng... Dạng kiến trúc này có thể dựa theo việc bố trí Tháp mà phân thành hai loại:

+ Loại tháp là trung tâm, những cây tháp thời kỳ này là kiến trúc chính của toàn cảnh chùa và chính thức là điện thờ Phật, trong ḷng tháp có đặt tượng Phật, tháp thường xây trên lưng chừng hoặc giữa đỉnh núi, lấy núi làm nền để tôn thêm vẻ bề thế của ḿnh. Các kiến trúc phụ làm tăng pḥng được bố trí xung quanh cây tháp. Kiến trúc của các ngôi chùa thời Lư là các ngôi tháp. Tháp chính là chùa, đồ sộ, và chiếm giữ một tầm nh́n rộng lớn.

+ Dạng bố cục kiến trúc nữa có thể kể đến nhờ vào tư liệu khảo cổ học là chùa có các công tŕnh dựa vào thế núi, sắp xếp theo lớp trước sau đi sâu vào trong và lên cao dần. Ví dụ chùa Tiên Du Phật tích tại Bắc Ninh, lớp nền thứ nhất bày tượng các con giống, lớp thứ hai đặt các tăng pḥng, lớp thứ ba xây tháp thờ Phật.

Tổ hợp không gian thay đổi tuỳ theo địa h́nh, nhưng chủ yếu công tŕnh vẫn cân xứng, đăng đối quy tụ về một tâm điểm là cây tháp thờ Phật hoặc đăng đối theo một trục dài.

Các công tŕnh kiến trúc thời này đều có hướng quay về hướng Nam, hướng phù hợp với khí hậu bản địa.

user posted image

Mặt bằng tổng thể chùa Phật Tích (theo Bezacier. L L’art de VietNammien – Paris 1992)

+ Kiến trúc Phật điện

Thời này, chủ yếu có các công tŕnh có dạng Tháp là Phật điện - nơi thờ Phật. Các kiến trúc phụ được bố trí xung quanh tháp (thường là công tŕnh chùa có quy mô lớn kiêm hành cung cho vua). Loại nữa có dạng Phật điện có quy mô lớn và không có tháp. Chúng ta không có tài liệu đầy đủ về h́nh dáng các kiến trúc thời Lư , chỉ có thể phần nào h́nh dung qua văn bia và một số nền di tích.

Chùa Hướng Nghiêm được mô tả “ mái hiên cong cong như trĩ x̣e xánh, ngói lợp lớp lớp như vẩy rồng” , chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh được nhà sư Pháp Bảo viết “ Ngắm xem: rường nhà cong cong như cầu vồng mưa quạnh quẽ nhô ra, ngói uyên ương phơi dưới gió như xập x̣e muốn lượn, nóc nhà uốn như trĩ bay x̣e cánh, đầu chạm trổ như Phượng múa lại chầu. Mái cong lấp lánh dưới mặt trời, hiên lượn quanh co trước gió. Tường vách xung quanh, một cơi bụi trần không lẫn, hành lang bao bọc, bốn mùa hiên cửa thanh hư…” (Sùng Nghiêm Diên Thánh bi kư). Đại Việt sử kư toàn thư của sử gia Lê Văn Hưu cũng ghi “tường cao ngất trời, tạc cột chùa bằng đá, làm chùa thờ Phật lộng lẫy hơn cả cung điện nhà vua”. Các vị vua Lư thấm nhuần giáo lư Phật Đà, không muốn hoang phí sa xỉ vào kiến trúc cung điện, lăng tẩm nguy nga đồ sộ cho riêng ḿnh, mà tập trung vào xây chùa tháp hết sức bề thế, nh́n theo khía cạnh tâm lư người Việt lại có ư nghĩa lớn, biểu hiện cho một sự gắn kết cộng đồng, cũng như ḷng từ bi, mối quan tâm đến đời sống tâm linh và đạo đức xă hội thời bấy giờ của triều đ́nh nhà Lư đối với quốc dân.

Bên cạnh kiến trúc các điện Phật, kiến trúc tháp để lại những dấu tích mà ta có thể h́nh dung ra h́nh dáng đồ sộ của chúng. Tháp có mặt bằng h́nh vuông, trong có tượng Phật, các cây tháp đó ḥa vào hành lang, giải vũ ở hai bên, những ṭa nhà phía sau… để tạo nên một tổng thể vừa dàn trải nhưng đột khởi, vừa thiêng liêng vừa gần gũi. Kiến trúc tháp chùa Phật tích theo tài liệu khai quật năm 1940 th́ có cạnh đáy dài 8,5 m, tính theo tỷ lệ tháp cổ th́ tháp phải cao đến 42m. Tháp Chương Sơn xây năm 1108 nay đă đổ nát th́ bố cục mặt bằng theo h́nh vuông và các cạnh dài đến 19m. Kiến trúc tháp Sùng Thiện Diên Linh tại núi Đọi cũng là một công tŕnh lớn “xây mười ba chọc trời , mở bốn mươi hống gió. Vách chạm rồng ổ; xa treo chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng xá lợi, toả tường quang cho đời thịnh sau nay; đỉnh nóc xây tiên khách bưng mâm, hứng móc ngọc dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chia tám tướng khôi ngô; đứng hộ vệ thần dân cầm kiếm … cho nên nhà vua đặt tháp ấy là Sùng Thiện Diên Linh.” (Sùng thiện Diên Linh bi kư). Tháp báo Thiên bên bờ hồ Ḥan Kiếm gồm 12 tầng, cao khoảng gần 70m.. H́nh ảnh của những cây tháp được in trong các viên gạch tháp chùa Phật Tích và trong văn bia cho thấy kiến trúc tháp nhiều tầng chồng lên nhau, càng lên cao càng thu nhỏ, các tầng ngăn cách bằng bộ mái nhô ra bên ngoài. Kiến trúc tháp cao rộng mang lại sự bề thế cho kiến trúc Phật giáo, tạo nên một không khí thiêng liêng. Các cây tháp cao vút lên không trung, như biểu hiện ư chí cao vút trên con đường t́m tới giác ngộ, đồng thời cũng như tỏ tấm ḷng triêm ân cao ṿi vọi với ơn đức cao dày của Phật Tổ.

Một h́nh dáng kiến trúc độc đáo của thời Lư được mô tả qua văn bia như sau“ Tôn sùng đạo Phật, hâm mộ thắng nhân, mở chùa Diên Hựu ở tại vườn tây. Dấu vết theo quy mô thuở trước, lo toan thánh ư ngày nay. Đào ao thơm Linh chủ, giữa ao trồi lên một cột đá, trên cột có một đoá sen ngh́n cánh sen x̣e ra. Trên hoa dựng một ngôi đền đỏ sẫm, trong đền đặt pho tượng sắc vàng. Ngoài ao có hành lang bao bọc. Ngoài hành lang lại đào ao Bích tŕ, bắc cầu cong để đi lại. Ở sân trước cầu, hai bên tả hữu xây bảo tháp Lưu Ly…” ( Sùng Thiện Diên Linh Bi kư). Từ văn bia này cho ta thấy, thời Lư kiến trúc chùa Một Cột mang h́nh dáng hoa sen mọc trên mặt nước. Ngôi chùa được đặt trên một cột đá cao 20 m, ao vuông tượng trưng cho mặt đất. Kiến trúc hiện nay nhỏ hơn kiến trúc trước kia và kết cấu cột gỗ do chiến tranh tàn phá và nhiều đợt trùng tu nhưng vẫn là biểu tượng kiến trúc không những cho một thời kỳ lịch sử, mà c̣n cho cả một dân tộc. Các cột đá t́m thấy ở chùa Dạm và cột đỡ tượng Như Lai được miêu tả trong văn bia chùa Linh Xứng cũng thuộc dạng kiến trúc này. Cột chùa Dạm cao 5 m gồm chân cột vuông 2m và phía trên cột tṛn cao 3m, được gắn liền với một khối đứng giữa một nền tṛn đường kính 5 m, có ba bậc cao 0,5 m. được xây dựng trên 1 cây cột bằng đá, hoặc tượng Phật ngồi bệ sen, gác chuông hoặc một công tŕnh nhỏ thờ Phật.

user posted image

user posted image

Mặt bằng tổng thể và mặt cắt chùa Diên hựu trước khi bị phá hủy
(theo Bezacier. L L’art de VietNammien – Paris 1992)


+ Vật liệu và kỹ thuật xây dựng

Thời Lư, với vật liệu gạch đá, kiến trúc đă cho phép h́nh thành nên những cây tháp nhiều tầng. Gỗ, đá, đất nung, đồng ... được sử dụng trong các công tŕnh. Đá được sử dụng trong xây những phần chịu lực của tháp như tầng đế, cửa cuốn ṭ ṿ, trụ góc, và để ghép nền chùa… Những phần trên đ̣i hỏi nhẹ, người xưa sử dụng các vật liệu như gạch mỏng, đất nung, đặc biệt là phần trên tháp Báo Thiên c̣n được xây dựng bằng kim loại đồng.

Theo thư tịch, nhiều ngôi tháp có ảnh hưởng vật liệu và phương thức xây dựng từ người Chămpa. Đó là những viên gạch với độ nung đủ để chạm khắc trang trí ngay trên bề mặt viên gạch, và chất kết dính rất mỏng. Các viên gạch thời Lư c̣n ghi rơ niên hiệu của vua là thời gian sản xuất, kích thước có nhiều loại, lớn nhất là 40cm x 40 cm. Những viên ngói có ngói bản, ngói chiếu, ngói uyên ương…

Qua các di vật c̣n lại cho thấy kỹ thuật xây và chạm khắc đá đă phát triển rực rỡ. Bên cạnh đó, những dấu tích kiến trúc đồ sộ minh chứng cho một tŕnh độ kỹ thuật cao trong xây dựng thời kỳ này. Đó là việc kết hợp đá và gạch gia cố nền móng đă khiến các công tŕnh được xây với chiều cao lớn. Thời Lư chưa thấy chất kết dính, chỉ thấy kỹ thuật xếp, chèn đất, các tảng đá cũng được đục mộng để liên kết với nhau vững hơn. Ngay cả hệ thống nền bó đá giật cấp tại chùa Phật tích cũng đă được tính toán về kỹ thuật xây dựng và bền vững suốt gần 1000 năm qua do được làm theo lối choăi chân đê với độ chếch khỏang 65 đến 70 độ. Trong từng lớp được chia thành nhiều cấp nhỏ và mỗi cấp lùi vào 1 đến 1,5 m tạo nên sự ổn định lớn cho lớp nền.

+ Trang trí, điêu khắc

Các công tŕnh Phật giáo c̣n lại từ thời Lư - Trần đă có kết hợp cả yếu tố văn hoá ấn Độ thông qua việc kết hợp nghệ thuật Chàm và một phần văn hoá Hoa và mang đậm chất Phật giáo trong điêu khắc. Các yếu tố văn hoá Ấn có thể thấy trong thẩm mỹ Việt là h́nh tượng các vũ nữ múa, các tượng chim kiểu Kinnari và chim thần kiểu Garuda... có nguồn gốc từ ấn Độ đă được Việt hoá. Nhiều h́nh trang trí tạo thế thống nhất và mang ư nghĩa Dịch học như sóng nước với mây trời, hoa sen âm với hoa cúc dương.

Tượng tṛn hiện c̣n như tượng sấu đá trên thành bậc chùa Hương Lăng, tượng chim thần trên các conson chùa Chương Sơn (mang ư nghĩa trang trí), tượng sư tử đội đài sen thờ Phật chùa Bà Tấm, tượng thú chùa Phật Tích, hay những tượng A Di Đà, Kim Cương mang tính chất thờ cúng trang trọng.

user posted image

Trang trí hoa cúc bệ đá chùa Phật Tích

user posted image

Trang trí sóng nước chùa Phật Tích

user posted image

Trang trí hoa sen chùa Long Đọi

user posted image

Trang trí rồng mặt đá tṛn chùa Chương Sơn

Các phù điêu, hoa văn thời này mang nhiều đề tài như rồng chùa Long Đọi, phượng chùa Hương Lăng, tiên nữ chùa Phật Tích, Chương Sơn, sóng nước, hoa lá, con người, cúc dây, hoa sen. Đường nét thanh tú, mềm mại, không có đường gẫy, được chau truốt kỹ càng, toàn thể tự nhiên và thoải mái. Các đường lượn có độ cong cực lớn kiểu rồng giun, mức độ sử dụng trang trí bằng đường cong rất lớn. H́nh khối thon thả và cân xứng. Con rồng thời kỳ này tiêu biểu cho văn hoá Việt Nam không pha trộn, đó là con rồng h́nh rắn, có mào lửa gắn với thân rắn, thân uốn nhiều ṿng như h́nh sin, trên trán thường có chữ S tượng trưng cho các thế lực thiên nhiên như mây mưa sấm chớp. Rồng thời Lư thường được bố cục trong khung cảnh sóng nước và mây trời và gói gọn trong một khuôn khổ nhất định như lá đề, hoa sen.

Những hoa văn trang trí được chạm khắc rất tinh vi nhưng đều chứa đựng một khối đại thể đơn giản với bố cục cân xứng hài hoà, dường như không t́m được nét thừa vô lư. Hoa văn thường được chạm trên vách tuờng, thành bậc cửa, gạch lát, kèo cột… Hoa văn lan toả xung quanh hoa văn trung tâm. Bố cục hoa cúc, sóng nước được lặp đi lặp lại thành dải. Bố cục trang trí phân tầng, phân lớp. Bố cục hướng tâm ( có hoa văn trung tâm trong một khung khép kín), bố cục h́nh dải ( hoa cúc, dây h́nh chữ công)...

+ Bài trí tượng thờ

Hệ thống tượng Phật ở thời kỳ này qua sử sách và bi kư để lại có các tượng như Phật A Di Đà, Như Lai Thích Ca Mâu Ni Phật, Phật Di Lặc, Kim Cương.
Sách Đại Việt sử kư toàn thư ghi “Vua sai thợ tạc hơn ngh́n pho tượng Phật, vẽ hơn ngh́n bức tượng Phật” . Bia chùa Linh Xứng ghi rơ , chính giữa là “ Ngũ tứ Như Lai sắc vàng rực rỡ, ngồi trên ṭa sen trồi trên mặt nước” . Bia chùa Quỳnh Lâm ghi “ vị sư Không Lộ thượng đức dựng pho tượng Di Lặc cao 6 trượng”. C̣n tượng chùa Long Đọi được ghi lại qua văn bia Sùng thiện Diên Linh như sau “ Lại có đài cao thất bảo, xếp thành một dăy, chính giữa có ngọn núi vàng. Đặt tượng đẹp Đa Bảo Như lai, bày chân h́nh xe pháp mấy tầng. . . Thứ đến hai toà bạch ngân; bên tả đặt chân dung tượng A Di Đà, phía hữu để xá lợi của sắc thân màu nhiệm. Chiều cao mở ra thế khoẻ ; vẻ đẹp phô rơ mái cong. Long lanh ngỡ tuyết trắng đang tan, rực rỡ ắt trăng thu vằng vặc. Thứ nữa có hai toà điểu văn, bên tả đặt thân mẫu Quảng Bác, phía hữu đặt diệu tướng Bồ đề …”. Theo tấm bia chùa Diên Phúc mô tả khi ấy, điện thờ Phật có h́nh vuông. Cao nhất thờ Quan Thế Âm, hai bên thờ Văn Thù Sư Lợi và Phổ Hiền Bồ Tát. Bậc dưới thờ Tứ vị Thiên vương, hai bên điện thờ có hành lang đặt bát Bộ Kim Cương, phía ngoài có tam quan thờ Hộ pháp, thờ Thổ thần và sư tổ. Ngoài tháp thờ Phật th́ thời này chỉ c̣n di vật khảo cổ được là những chân tảng và nền cho thấy sự ra đời của các điện thờ Phật bằng kết cấu gỗ.

Tuy nhiên, chỉ c̣n tượng A Di Đà tại chùa Phật Tích và tượng Kim Cương tại chùa Long Đọi là c̣n lại tương đối nguyên vẹn đến ngày nay.

user posted image

Tượng Phật A Di Đà - chùa Phật Tích

- Kết luận phần 1

Thời Lư có thể khẳng định là một giai đoạn phát triển rực rỡ của kiến trúc Phật giáo. Nền kiến trúc Phật giáo suốt 2 thế kỷ của nhà Lư thể hiện cho sự lớn mạnh chung của nền văn hóa dân tộc, phần nào thể hiện được chủ quyền và độc lập của quốc gia. Trong đó, kiến trúc Phật giáo thời Lư là cơ sở vững chắc và là nền tảng cho kiến trúc Phật giáo về sau. Kiến trúc Phật giáo thời Lư tiêu biểu cho giá trị nghệ thuật của Phật giáo Việt Nam và của cả dân tộc chứ không chỉ riêng cho một thời.

- Kiến trúc thời Lư vừa có quy mô lớn vừa gần gũi với cuộc sống và con người. Kiến trúc có h́nh dáng, bố cục phong phú nhưng vẫn bảo đảm tính bền vững, phù hợp với một quốc gia nhiệt đới. Dù là những kiến trúc lớn như tháp cao, nhà rộng hay những di vật nhỏ như bia, tượng đá… đều mang một giá trị bền vững rất cao, kết cấu chắc chắn và mang tính thực tiễn rất lớn. Bên cạnh kiến trúc, nghệ thuật tạo h́nh thời Lư tuy c̣n ảnh hưởng của yếu tố ngoại lai nhưng đă tạo được cho ḿnh một chất Việt, thể hiện phong cách dân tộc độc đáo, mở đầu cho giai đoạn phát triển mới của nghệ thuật tạo h́nh Việt Nam.

TLC

Tài liệu tham khảo:
Lê Mạnh Thát. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam tập 1 (1999), tập 2 (2001), tập 3 (2002), NXB Thành phố HCM.
Trần Lâm Biền. Chùa Việt. NXB VH-TT 1996.
Nguyễn Đăng Du. Văn hóa Tâm linh. NXB VH-TT 2001.
Chu Quang Trứ. Mỹ thuật Lư - Trần, Mỹ thuật Phật giáo. NXB Thuận Hoá 1998.
Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo sử luận. NXB Văn Học Hà Nội 1979.
Nguyễn Bá Lăng. Kiến trúc Phật giáo Việt Nam . Viện Đại học Vạn Hạnh 1972.
Các tài liệu văn bia thời Lư của Viện Mỹ thuật.

dieulinh - May 29, 2005 11:39 PM (GMT)
cái Nan ui, cho DL mượn bài này chia sẻ với các bạn của DL nha

:tk cái Nan :tk

nhànhlantím - May 30, 2005 04:00 AM (GMT)
hihi, sis, mấy cái bài này em mới viết đến thời Lê Sơ và Mạc phần 3 , phần đó đăng trong tập san pháp luân số 15, em nghỉ 2 số chẳng viết nổi v́ chán hic hic.
Em đăng tiếp phần 2 nha sis, khi nào cái tập san kia phát hành em đăng tiếp phần 3, sis thích khuân đi đâu th́ vô tư lự ạ :hun

nhànhlantím - May 30, 2005 04:29 AM (GMT)
Phần 2- Kiến trúc Phật Giáo thời Trần - Hồ và Hậu Trần ( 1225 - 1413 )

- T́nh h́nh phát triển Phật giáo thời Trần

Sau khi Lư Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của triều đại nhà Lư, bị Trần Thủ Độ lập kế ép nhường ngôi cho chồng, triều Lư chấm dứt. Trần Cảnh lên ngôi mở ra một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc với 3 lần đại thắng quân Nguyên Mông. Nhà Trần (1225- 1400) trải qua các triều đại sau: Trần Thái Tông (1225-1258), Trần Thánh Tông (1258-1278) , Trần Nhân Tông (1278-1293), Trần Anh Tông (1293-1314), Trần Minh Tông (1314-1329), Trần Hiến Tông (1329-1341), Trần Dụ Tông (1341-1369), Trần Nghệ Tông (1370-1372), Trần Duệ Tông (1372-1377), Trần Phế Đế (1377-1388), Trần Thuận Tông (1388-1398), Trần Thiếu Đế (1398-1400).

Sau đó, Nhà Hồ (1400-1407) trải hai triều Hồ Quư Ly 1400 và Hồ Hán Thương 1401- 1407 và thời Hậu Trần kháng chiến chống quân Minh (1407-1413) gồm Giản Định Đế (1407-1409) và vua Trùng Quang (1409-1413), do thời gian cai trị quá ít và chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc xảy ra liên miên nên không có công tŕnh Phật giáo nào được xây dựng trong giai đoạn này hoặc không c̣n dấu tích nào c̣n lại cho đến ngày nay. Do đó, ta nói đến kiến trúc Phật giáo thời Trần là nói đến kiến trúc chùa tháp được xây dựng hoặc trùng tu toàn phần thời kỳ 1225 đến 1440.

Thời Trần, Phật giáo có những trường phái riêng của Việt Nam với những giáo lư thực tế trên nền tảng căn bản của tôn giáo từ bi, bác ái và vị tha. Phật giáo cũng được truyền bá nhưng ảnh hưởng không sâu rộng bằng thời Lư. Đạo Nho bắt đầu có ưu thế rơ rệt do nhu cầu của việc trị nước của chính quyền nhưng Phật giáo vẫn lớn mạnh và là chỗ dựa cho cuộc sống tinh thần của quảng đại quần chúng. Nhiều nhà vua, vương hầu, khanh tướng cũng xuất gia quy y cửa Phật. Năm 1299, vua Trần Nhân Tông quy Phật trên núi Yên Tử, lập ra Thiền Phái Trúc Lâm - hệ thống Thiền phái đặc trưng đầu tiên của Việt Nam.

Nhà Trần trải qua 3 cuộc chiến chống Nguyên Mông, tuy đạt được thắng lợi nhưng các công tŕnh văn hóa của nước nhà đă bị tổn hại rất nhiều dưới sự dày xéo của quân giặc. Đến giai đoạn cuối, chiến tranh với Chiêm Thành xảy ra hơn 10 lần khiến đất nước cũng bị điêu đứng một thời gian dài. Chiến tranh đă tàn phá nhiều công tŕnh chùa tháp. Kiến trúc Phật giáo thời kỳ này chủ yếu là trùng tu hoặc xây dựng lại các công tŕnh đă có từ thời trước. Một số trung tâm Phật giáo được mở mang xây dựng hoàn chỉnh như khu chùa tháp tại Yên Tử (Quảng Ninh). Các công tŕnh khởi dựng thời kỳ này thường có quy mô nhỏ như chùa tháp Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái Lạc (Hưng Yên), Bối Khê (Hà Tây)...

user posted image
Chùa Bối Khê – Hà Tây (Vơ Văn Tường)

- Những công tŕnh Phật giáo tiêu biểu trong thời Trần

Các ngôi chùa được xây dựng ở rải rác ở Đông Bắc và Tây Bắc Bắc Bộ nhưng tập trung nhất vẫn ở ven các triền sông vùng đồng bằng Bắc Bộ ngày nay. So với nhà Lư, phạm vi xây dựng chùa tháp thời Trần đă được mở rộng vào hướng Nam đến Thanh Hóa, Nghệ An.

+ Chùa Phổ Minh (Nam Định) được xây dựng khoảng năm 1262, c̣n lưu giữ được cánh cửa gỗ 4 tấm bằng gỗ lim, cao 1,9m và mỗi cánh rộng 0,8 m với những trang trí h́nh rồng, hoa lá và sóng nước. Một số thành bậc cửa bằng đá chạm rồng và sấu. Tháp Phổ Minh bằng đá, dựng trước cửa chùa vào năm 1305.

+ Chùa Bối Khê (Hà Tây) dựng năm 1338, chùa giữ được một số đầu bẩy chạm h́nh đầu rồng ngậm ngọc, phía ngoài có một h́nh chim, lưu được bộ v́ kèo tại gian giữa ṭa Thượng Điện và một số chạm khắc chim thần Garuda ở góc bệ đá và tường gạch, bệ đá hoa sen 3 tượng năm 1382.

+ Chùa Thái Lạc (Hưng Yên) c̣n giữ được một số mảng cốn, ván nong trang trí rất đẹp. Điêu khắc gỗ của chùa này và chùa Bối Khê tiêu biểu cho điêu khắc gỗ kiến trúc Phật giáo thời Trần.

+ Chùa Báo Ân (Gia Lâm, Hà Nội) c̣n lại những di vật cổ như mảng nền, kết cấu 6 hàng chân cột, một v́ rộng 13m và một số hiện vật bằng đất nung mang phong cách trang trí thời Trần. Điêu khắc trang trí có bệ đá h́nh vũ nữ, một đầu rồng và một số trang trí lá đề là có giá trị.

+ Chùa Vĩnh Khánh và tháp B́nh Sơn (Vĩnh Phúc) hiện nay, niên đại của tháp B́nh Sơn c̣n gây nhiều tranh căi, nhưng theo nhiều tư liệu đáng tin cậy th́ tháp B́nh Sơn khởi dựng trong thời Trần. Tháp B́nh Sơn là ngôi tháp cổ sử dụng chất liệu đất nung có giá trị rất cao về mỹ thuật và kiến trúc Phật giáo.

- Thiền phái Trúc Lâm h́nh thành với ư tưởng xây dựng một không gian Phật giáo thanh tịnh đă gắn liền tên tuổi với các danh sơn như Yên Tử (Quảng Ninh), Côn Sơn (Hải Dương), Quỳnh Lâm (Quảng Ninh)… Những ngôi chùa tại các nơi này được xây dựng từ thời kỳ trước và được xây dựng thành các trung tâm Phật Giáo dưới thời Trần. Dấu vết thời Trần c̣n lại rất ít, ví dụ như ở Yên Tử, những viên gạch vuông trang trí hoa dây, nền tháp đá thời Trần có cạnh 3m15 với mặt bằng h́nh lục lăng.

- Các ngôi chùa khác được khởi dựng thời kỳ này như chùa Hương Tích ở núi Hồng Lĩnh ( Hà Tĩnh), chùa Hào Xá (Hưng Yên), Chùa Dương Liễu (Hà Tây), chùa Hoa Long, chùa Thông (Thanh Hóa)…Một số ngôi chùa lưu giữ được một vài hiện vật như chùa Long Hoa (Nam Định) có lưu giữ bệ thờ hoa sen, tượng rồng đá. Chùa Dâu có bộ v́ nóc thượng điện từ thời Trần. Chùa Thầy c̣n lưu giữ bộ lưng ngai năm 1346. Chùa Hương Trai (Hà Tây) lưu giữ được bệ đá năm 1358-1369. Chùa Xuân Lũng có ṭa sen năm 1386. Chùa Đại Bi có ṭa sen ghi năm 1374. Chùa Che (Hà Tây) hiện c̣n bia đá. Ngoài ra, một số nền tháp thời này đă được t́m thấy như Ghềnh Tháp (Nam Định), Dưỡng Phú (Hưng Yên), Linh Nga bảo tháp và Xuân Hồng (Nghệ Tĩnh)

- Đặc điểm kiến trúc

Nghiên cứu về kiến trúc thời Trần hiện nay có thể dựa vào hai nguồn: thư tịch cổ (chỉ c̣n ghi chép vắn tắt qua sử sách, bia kư) và thực địa. Trải qua hàng trăm năm biến động, dưới tác động của chiến tranh, ảnh hưởng khắc nghiệt của khí hậu, hay thậm chí những lần trùng tu, bao nhiêu công tŕnh đă bị hủy hoại chỉ c̣n để lại dấu vết hoặc thay đổi h́nh dạng ban đầu hoàn toàn. Tuy nhiên vẫn c̣n một số công tŕnh từ thời kỳ này c̣n tương đối nguyên vẹn cho đến tận hôm nay như tháp Phổ Minh, tháp B́nh Sơn, v́ nóc Thượng điện chùa Thái Lạc, Bối Khê...

+ Vị trí, thế đất

Ở thời kỳ đầu, chùa tháp được xây dựng dưới sự chỉ đạo của hoàng cung. Thờ Phật được thờ trong một điện thờ riêng, cây tháp không c̣n chức năng thờ Phật nữa mà trở lại tính chất là mộ chí của các nhà tu hành đạo Phật hoặc tháp kỷ niệm. Thời Trần cũng như thời Lư, chùa tháp thường được lựa chọn những địa thế trên đồi lớn, núi cao để xây dựng. Vị trí những ngôi chùa xây dựng thời kỳ đó chẳng những xa lánh cuộc sống trần tục mà c̣n gợi nên không khí trầm mặc, thanh tịnh và u nhă phù hợp với sự thiêng liêng của Thần Phật mà nhu cầu tôn giáo đ̣i hỏi.

Với địa h́nh núi cao th́ các kiến trúc được xây dựng theo các lớp nền được bạt tương tự như thời Lư với các cao độ khác nhau như chùa Yên Tử hay chùa Lấm (Quảng Ninh). Nhiều chùa được dựng trên điạ thế rộng như chùa Lân (chân núi Yên Tử), chùa dựa vào chân núi, trước mặt hướng ra suối lớn., vườn chùa rộng răi chạy dài từ cổng vào. Chùa Hoa Yên được dựng trên 2 nền đất bạt ở sườn núi. Các ngôi chùa quay hướng Nam, lấy núi làm hậu chẩm, những dăy núi trùng điệp hai bên như tay long tay hổ ôm lấy Thái cực. Trước mặt lấy suối Giải Oan làm minh đường,
Về sau, chùa làng phát triển mạnh. Theo văn bia chùa Thiên Phúc (Bắc Giang), nhà nho Lê Quát đă cảm thán rằng: "Việc họa phúc của nhà Phật rung động ḷng người sao mà sâu và mạnh đến thế! Trên th́ từ vương công, dưới th́ đến thứ dân, phàm lo việc Phật th́ tuy hết của cải cũng không tiếc ǵ. Ngày nay cúng tiền vào chùa tháp th́ hớn hở như cầm tờ chứng khoán để được báo đáp ngày mai. Cho nên từ kinh thành ở trong cho đến châu phủ ở ngoài, khắp hang cùng ngơ hẻm, người ta không được lệnh mà cứ theo, không thề thốt mà cứ tin, nơi nào có dân cư là nơi đó có chùa Phật, phế rồi lại hưng, đổ rồi lại sửa, chuông trống lâu đài, gần nửa dân cư lao vào đó.” Từ văn bia này và nhiều văn bia khác cũng như thực địa, có thể thấy chùa quy mô nhỏ được xây dựng ở khắp nơi trong thời kỳ này.
Từ một số vị trí hiện nay của các công tŕnh xây dựng từ thời Trần ta thấy các công tŕnh đều được xây dựng ở các vùng tách biệt với xóm làng, nhưng lại là trung tâm của nhiều vùng lân cận (ví dụ chùa Phổ Minh, chùa Vĩnh Khánh). Thứ hai, các công tŕnh đều được xây dựng ở nơi phong quang thoáng đăng. Ví dụ chùa Bối Khê nằm giữa vùng đất trù phú cửa ngơ phía Tây của kinh thành Thăng Long, thuộc tả ngạn sông Đáy, từng một thời là con đường giao thông huyết mạch trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trước chùa xưa kia có sông Đỗ Động làm nơi tụ thủy, rất đẹp và tạo nên nhưng phong cảnh non nước hữu t́nh cho cả các công tŕnh xây dựng trên đất bằng. Ngay cả những ngôi chùa đồng bằng cũng rất chú trọng đến lựa chọn vị trí phù hợp với cảnh quan chung. Ví dụ tháp chùa Phổ Minh được dựng trong phủ Thiên Trường xưa (hiện ở tỉnh Nam Định) ḥa chung vào tổng thể xung quanh, xóm làng ở phía sau, đồng ruộng phía trước tạo nên điểm nh́n cho toàn bộ công tŕnh.

user posted image
Mặt cắt địa h́nh chùa tháp Phổ Minh(theo Bezacier. L )

+ Tổ hợp không gian

Các công tŕnh chùa tháp liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên, phù hợp với cảnh trí xung quanh tạo nên một kiến trúc tổng thể hoàn chỉnh. Công tŕnh như mọc lên và ḥa vào với đất, phù hợp với thiên nhiên và khung cảnh thiên nhiên chung quanh cũng làm tôn thêm vẻ đẹp của kiến trúc rất nhiều. Đối với các công tŕnh không thuộc dạng danh sơn, trong toàn cảnh cũng như từng thành tố cấu thành kiến trúc công tŕnh, sự đăng đối tiếp thu từ kiến trúc thời Lư vẫn được đưa lên vị trí quan trọng hàng đầu.

Tháp thời Trần được dựng khá nhiều trong các công tŕnh kiến trúc Phật giáo với chức năng làm nơi thờ Phật, kỷ niệm hoặc tháp mộ. Ví dụ tháp B́nh Sơn, tháp Phổ Minh là loại tháp được dựng nên với tính chất kỷ niệm, tháp ở Yên Tử th́ thuộc dạng tháp mộ. Kích thước của tháp thời Trần nhỏ nhưng giống về kiểu dáng tháp thời Lư. Tháp thường gồm nhiều tầng, tiết diện vuông, đôi khi có h́nh lục giác (tháp mộ thờ Trần Nhân Tông ở Yên Tử), kích thước càng lên cao càng thu nhỏ dần. Tháp giờ không c̣n là kiến trúc chính nữa mà chỉ là những kiến trúc phụ trong tổng thể một ngôi chùa. Ḷng tháp thường hẹp không đủ làm Phật điện nên phải có một điện thờ Phật ở phía sau. Do đó, khác với thời Lư, tháp thời Trần thường có vị trí trước sân chùa, ví dụ chùa tháp Phổ Minh chùa Phổ Minh, tháp B́nh Sơn chùa Vĩnh Khánh, tháp Trần Nhân Tông chùa Hoa Yên... tháp thường được xây trước ngôi chùa.

Đến cuối Trần, chùa làng phát triển mạnh. Chùa gồm điện thờ Phật, sư Tổ, các pḥng tăng, các tháp mộ ở hai bên và phía sau điện thờ. Từ thời Trần, kiến trúc gỗ đă có những bằng chứng khảo cổ tồn tại. Một số Phật điện và tháp thời Trần c̣n khá nguyên vẹn cho đến thời nay. Nền điện thờ Phật cao và h́nh vuông (phát triển từ tháp thờ Phật thời trước). Chùa chỉ c̣n chức năng tu hành, không c̣n là hành cung cho vua ngự. Các công tŕnh khiêm nhường về kích thước, vừa phải về quy mô nên mang lại cảm giác ấm cúng và gần gũi với con người hơn nhiều so với các công tŕnh đồ sộ thời Lư.

user posted image
Mặt bằng chùa tháp Phổ Minh - Nam Định (theo Bezacier. L )

+ Kiến trúc Phật điện

Kiến trúc gỗ: Kiến trúc gỗ tại một số ngôi chùa như Thái Lạc, Bối Khê, kiến trúc mang dấu ấn thời Trần chỉ c̣n lưu lại qua Thượng điện, c̣n ngôi chùa hiện nay được mở rộng rất nhiều qua các thời sau.

Những ṭa thượng điện c̣n lại của ba ngôi chùa là chùa Dâu, Thái Lạc, Bối Khê có chung một kiểu thức kiến trúc với kích thước tương đối tương đồng. Điện thờ Phật thời Trần thường có nền là h́nh vuông và thời Trần đă bắt đầu xuất hiện kiến trúc kiểu chuôi Vồ và chữ Tam. Các nền chùa thường được tôn cao hơn mặt đất b́nh thường và không lát gạch. Các chùa làng như Thái Lạc và Bối Khê có Phật điện xây trên nền cao trên dưới 1m, mỗi cạnh xấp xỉ 10m, tạo thành một nền đế h́nh vuông. Kích thước chùa thời này thường nhỏ căn cứ vào khoảng cách giữa các cột cái với nhau (ở chùa Bối Khê và Thái Lạc là 3m).

Kiến trúc Phật điện là kiến trúc một gian hai chái, không có tường vách bao. Các ṭa thượng điện đều có 4 cột cái lớn ở giữa, 12 cột quân (đồng thời làm cột hiên v́ chia gian chỉ có 4 hàng chân cột) xung quanh, do đó 2 v́ chia gian đều thuộc gian giữa.. Kết cấu khung gỗ đỡ hai mái chính ở đằng trước và đằng sau, và 2 mái bên, toàn bộ trọng lượng mái chuyển qua cột xuống nền nhà. Mái tỏa ra 4 phía, lan xuống thấp với các đầu đao vươn thành những đóa hoa ở 4 góc cong hất lên. Lối cấu trúc khung gỗ này được duy tŕ đến các thời sau như một mẫu mực của thức kiến trúc cổ Việt Nam.

Kết cấu kiến trúc điển h́nh là nền h́nh vuông, có 4 cột to ở giữa, tạo thành bộ v́ theo kiểu giá chiêng gồm 1 câu đầu tỳ lực lên hai đầu cột cái. Các cột cái nối với nhau bằng những câu đầu to trên đỉnh, các cột quân nối với cột cái bằng xà nách. Bên trên câu đầu, có gắn một bộ phận gọi là giá chiêng thường thấp hơn so với các thời kỳ sau, bộ phận này gồm hai trụ chống đỡ một bộ phận nối gọi là bụng lợn. Các bộ khung giá chiêng có tác dụng giữ cho con chồng hai bên vững chắc và góp phần chống đỡ mái. Ở giữa khung giá chiêng, thời kỳ này người ta thường lắp thêm ván bưng trang trí thường chạm trổ h́nh lá đề với những phù điêu rồng, tiên nữ tạo thành một đặc điểm dễ nhận biết qua phong cách trang trí trên ván bưng đó. Từ cột cái nối với cột quân có xà nách nằm ngang, bên trên là các con rường chồng lên nhau qua các đấu kê. Từ cột quân ra ngoài hiên, đầu bẩy được chúc xuống theo độ dốc mái. Phái trên xà nách ngang và dọc có những bức cốn h́nh vuông là nơi hội tụ tinh hoa trang trí của toàn bộ ngôi chùa. Các thành phần gỗ thời kỳ này đều to mập, liên hệ với nhau bằng mộng (phần lồi lơm liên kết các bộ phận của kiến trúc với nhau) tạo ra các cấu kiện chặt chẽ, chắc chắn nhưng có thể tháo lắp và thay thế dễ dàng khi sửa chữa.

Kiến trúc tháp: Ta có thể thấy được h́nh ảnh kiến trúc tháp thời kỳ này qua hai ngôi tháp điển h́nh c̣n giữ được đến ngày nay, đó là tháp Phổ Minh và tháp B́nh Sơn.

Tháp Phổ Minh là một công tŕnh bằng đá và gạch gồm 14 tầng và cao 19,51m, mặt bằng h́nh vuông, mỗi cạnh dài 5m21, tầng 1 cao 2m2. Tuy nhiên, có tư liệu cho rằng, 11 tầng dưới là của thời Trần, c̣n 3 tầng trên không có nẹp đá 3 góc và trang trí hoa văn là sản phẩm của thời gian gần đây. Mái các tầng nhô ra rất ít, càng lên cao càng thu hẹp lại, chiều cao các tầng càng thấp đi và kết thúc bằng một cḥp búp tạo cho dáng tháp thêm thon thả, 4 mặt tháp đều trổ cửa ṭ ṿ. Tháp có dáng cao thanh mảnh do bề ngang hẹp, các ŕa mái tầng tầng lớp lớp tạo một cảm giác siêu thoát và linh thiêng cho chốn cửa Phật.

Tháp B́nh Sơn được xây dựng bằng đất nung già đỏ sẫm, giờ chỉ c̣n 11 tầng và cao 15m (theo ghi chú các viên gạch xây dựng tháp trong đợt trùng tu di tích cho thấy tháp có thể cao đến 14 tầng). Tháp B́nh Sơn có cạnh đáy bệ tháp là 4,45m, cao 1,62m, cạnh tầng thứ 11 cạnh 1m55, dáng tháp chắc đậm. Tầng thứ nhất cao 2,72m, chiều mỗi cạnh rộng 3,3m, bốn mặt trổ cửa ṭ ṿ.


user posted image

user posted image

Thượng điện chùa Bối Khê (Trung tâm thiết kế và tu bổ các công tŕnh văn hóa)


nhànhlantím - May 30, 2005 04:30 AM (GMT)
(tiếp theo)

+ Vật liệu và kỹ thuật xây dựng

Vật liệu xây dựng:
Kỹ thuật xây dựng thời Trần phát triển rực rỡ do tiếp thu được tinh hoa của nền nghệ thuật thời Lư và được hun đúc trong quá tŕnh lao động của ông cha. Chất liệu mỹ thuật thời Trần để lại phong phú hơn thời Lư, do đó kỹ thuật cũng có những riêng biệt ở một cấp độ cao hơn thời Lư. Đối với các nhà khung gỗ hiện c̣n như v́ kèo thuần gỗ (gỗ mít, gỗ lim ) như thượng điện chùa Thái Lạc, Bối Khê, Dâu đă giúp chúng ta có một cái nh́n tổng quát hơn về kiến trúc khung gỗ sớm nhất c̣n tồn tại cho đến này nay.

Chất liệu xây tháp: Các ngôi tháp thường là sự kết hợp giữa đá và gạch, hoặc làm bằng đất nung. Các chất liệu như đá xanh được sử dụng làm bệ dưới tháp Phổ Minh tạo vẻ đẹp, và tăng độ bền vững cho công tŕnh. Vật liệu được sử dụng ở các tầng trên là gạch nung mỏng, nhẹ. Hồ lô trên đỉnh tháp bằng đồng (giờ đă mất), các dây đồng được sử dụng ràng buộc các kết cấu với nhau. Các loại gạch vuông (22cm x 22cm) và loại dài (45cm x 22cm) được sử dụng để xây lơi tháp B́nh Sơn, gạch trang trí bên ngoài có kích thước 46cm x 46cm và những viên gạch h́nh Thước Thợ (L) để tăng sự chắn chắn cho lớp gạch bên ngoài.

Kỹ thuật xây dựng:
Kiến trúc thời Trần đă để lại kỹ thuật dựng chùa và xây tháp. Khung gỗ của chùa là những thành phần to lớn chồng lên nhau, lấy sức nặng bản thân để tạo nên sự vững chắc. Những v́ kèo c̣n lại của thời kỳ này có những thành phần cấu trúc cơ bản định h́nh nên kỹ thuật xây dựng nhà khung gỗ của các thời kỳ sau. Thành phần chủ yếu là cột cái, cột quân, xà, con chồng, đấu kê. Các thành phần kết cấu gỗ được liên kết với nhau bằng mộng chốt có thể tháo lắp một cách dễ dàng.
Kỹ thuật xây tháp: sự cân bằng của các tháp dùng sức nặng tự thân là chính, các thành phần của tháp được gắn kết bởi các chất keo vữa và mộng. Mộng chốt nối gạch ốp ngoài với khối trụ bên trong và mộng cá ch́ được dùng để nối các viên gạch với nhau. Ở các tầng gạch phía dưới, người xưa c̣n dùng các dây dồng xâu móc qua viên gạch để tăng độ liên kết kiến trúc (tháp Phổ Minh). Keo vữa xây tháp có hai loại, xây lơi gạch bên trong (tháp B́nh Sơn) sử dụng keo bằng chất đất mịn vàng có độ kết dính cao và keo để xây ốp bên ngoài bằng hợp chất vôi, mật và giấy dó với độ kết dính rất cao.

Ḷng tháp B́nh Sơn được xây thành khối trụ vuông, càng lên cao càng thu hẹp tạo nên một cốt lơi h́nh trụ vững chắc cho công tŕnh. Kết thúc mỗi tầng người ta xây nhô ra mấy hàng gạch để tạo diềm mái, vừa làm đẹp vừa tạo thế cân bằng cho tháp. Đặc biệt, các viên gạch trang trí mặt ngoài tháp được đánh dấu ghi rơ vị trí tầng thứ mấy và là viên thứ mấy trong tầng đó. Việc đánh dấu này phổ biến trong nhiều di tích phản ánh tŕnh độ kỹ thuật và tư duy tổng hợp của thời kỳ này đă rất phát triển.

Ngoài ra, ta không thể không kể đến kỹ thuật làm móng của tháp Phổ Minh, với kinh nghiệm xây móng nền chịu lực. Để xây móng tháp, người ta đào sâu xuống 2,4m, móng được gia cố thành 2 lớp, một bằng đá và một bằng sét trộn sỏi nện chặt. Lớp đất sét cũng được chia thành nhiều lớp, lớp sỏi trộn sét đen dưới cùng, các lớp trên là sỏi trộn sét nâu vàng với độ dày 1,52 m tạo ra lớp móng đầu tiên vững chắc. Trên lớp này, người ta xây móng bằng đá khối kích thước trung b́nh 1,6m x 1,4m x 0,8m, tạo thành nền móng kiên cố h́nh vuông mỗi chiều 5,5m. Trên đó, người xưa bắt đầu xây dựng đế tháp và các tầng tháp. Nói chung việc xây cất ở thời Trần đều sử dụng kỹ thuật cấu ráp các bộ phận kiến trúc với nhau trên căn bản vật lư rất logic.

user posted image
Mặt bằng tháp B́nh Sơn

user posted image

Tháp B́nh Sơn

user posted image

Tháp Phổ Minh
(Trung tâm thiết kế và tu bổ các công tŕnh văn hóa)

+ Trang trí, điêu khắc

Trang trí trên gỗ của thời Trần không bay bướm như thời Lư mà sự khỏe khoắn hiện ra trong từng nét chạm khắc tinh xảo. Chất dân dă đă được thể hiện trong đường nét và bố cục h́nh khối tạo cho trang trí thời Trần mang một đặc điểm riêng dễ nhận diện. Đề tài trang trí thời Trần thường mang tính chất chính thống, quyền quư, như rồng, phượng, sấu, hoa mẫu đơn, quầng lửa, sóng nước, hoa sen, hoa dây… Một số yếu tố văn hoá Ấn có thể thấy trong h́nh tượng các vũ nữ múa, các nhạc công, các tượng chim kiểu Kinnari và chim thần kiểu Garuda...

Các v́ kèo gỗ để lại từ đời Trần cho thấy sự phong phú trong nghệ thuật chạm khắc của ông cha ta. Những ván bưng giữa các giá chiêng chạm khắc quầng lửa nhọn đầu với đề tài lưỡng long tranh châu. Ở chùa Thái Lạc, th́ ván bưng đó chạm khắc h́nh hai tiên nữ đầu người ḿnh chim, c̣n ở chùa Bối Khê là phượng hoàng chầu nguyệt. Những trụ đỡ cũng được trang trí với các h́nh tiên nữ dập dờn trên sóng nước, tay giơ lên đỡ bệ sen, hay h́nh phỗng (chùa Thái Lạc) và có khi là một đóa mẫu đơn (chùa Bối Khê). H́nh tượng tiên nữ thường được chọn làm đề tài trang trí cho các bức ván nong, lúc th́ thổi tiêu, kéo nhị hay thổi sáo đánh đàn. Có những bức chạm khác nhạc công thổi sáo và chơi các nhạc cụ dân tộc.

Bố cục cân xứng, đường nét mềm mại, đôi lúc gân guốc nhưng điêu luyện, những mảng khối đầy đặn ẩn chứa sự chắc khỏe là đặc điểm nổi trội của trang trí thời kỳ này. Ví dụ như cảnh dâng hoa, tấu nhạc trong trang trí chạm khắc ván nong (giữa hai thành xà thượng và xà hạ) chùa Thái Lạc (Hưng Yên). Nhân vật trung tâm là vũ nữ, nhạc công hay có thể là chim thần Kinnari với những lối bố cục đăng đối và bút pháp giống nhau, làm bật lên sự lặp đi lặp lại trong không gian của h́nh tượng. Sự tương phản về khoảng đặc, khoảng rỗng, giữa sáng và tối đă được trải đều qua phần ván gỗ bằng phẳng với lớp hoa văn ken đặc.

Thứ đến, nét b́nh dị và hiện thực cũng là một đặc điểm không thể thiếu trong trang trí thời kỳ này. Thậm chí, những h́nh tượng nghệ thuật mang tính thần thoại như Kinnari vẫn mang những khuôn mặt hết sức thật, đẹp trầm tư của những con người thế tục. Những h́nh chạm trổ bẹt như h́nh cây cảnh và dê ngọam nhánh lá ở hai đầu bệ, h́nh sư tử và con hổ chạm đá trên bệ thờ chùa Quế Dương (Hà Tây) tựa như những bức họa đơn giản với lối tả thực mạnh mẽ, h́nh phỗng trên trụ gỗ chùa Thái Lạc với mảng khối chắc khỏe… Nói chung, đề tài mỹ thuật thời Trần rộng hơn ở thời Lư, v́ vừa tập hợp hết các đề tài chính thống lại c̣n có những đề tài gần gũi với dân gian hơn và có tính hiện thực hơn.

Trang trí tháp thời kỳ này đơn giản hơn rất nhiều so với trang trí thời Lư. Các thành bậc cửa vào (quanh tháp Phổ Minh) là h́nh tượng sấu và rồng quen thuộc. Cửa tháp và các mặt tường trang trí các h́nh hoa dây. Các tầng trên của tháp Phổ Minh thường thấy trang trí chủ yếu trên mặt gạch với những h́nh rồng cuộn mây. Trang trí tháp B́nh Sơn cũng rất phong phú, ở lớp đế tháp chạm các h́nh phù điêu sư tử hí cầu, cửa tầng 1 trang trí h́nh rồng, trên có h́nh đấu ba chạc xen kẽ giữa các h́nh sừng tê và hoa lá, nằm gọn trong h́nh lá đề. Tầng 2 và 3 trang trí hoa dây, đấu ba chạc, cánh sen. Các tầng trên tháp B́nh Sơn th́ trang trí chủ yếu h́nh cánh hoa cúc, từ tầng 8 trở lên là h́nh tháp 5, 6 tầng đang tỏa hào quang tương đối đơn giản xen kẽ hoa chanh, các diềm mái trang trí hoa dây.

Một số đặc điểm về trang trí mỹ thuật phân biệt với thời Lư như sau: h́nh tượng con rồng thời kỳ này thân thường chạm nổi cao, uốn khúc nhẹ nhàng mềm dẻo và thoải mái, h́nh khối tṛn lẳn, đuôi múp dần. Khác hẳn với h́nh rồng thời Lư với thân h́nh thanh mảnh và uốn khúc g̣ bó. Mào lửa dần mất đi mà có thêm cặp sừng và đôi tay. Hoa sen thời Trần như bệ đá chùa Ngọc Đ́nh ( Hà Tây) hay tháp Phổ Minh đều mập và khác với hoa sen thanh dài trong trang trí thời Lư. Cúc dây thời Trần như trên bệ đá chùa Bối Khê hay bia chùa Hướng Đạo (Hưng Yên) là dạng hồi văn uốn tṛn, thoáng đạt khác với thời Lư cúc dây thường ở trong ṿng tṛn do đường dây cuốn lại, hai bên dây có hai hàng lá song song. Ngoài tượng tṛn, cham nổi trang trí giống thời Lư, thời Trần có thêm h́nh trang trí được khắc vạch những nét ch́m nông và mảnh như trên đá ở tháp Phổ Minh và các bệ hoa sen khối hộp.
user posted image

Tượng phỗng trang trí trụ đỡ chùa Thái Lạc

user posted image

Tượng tiên nữ dâng hoa chùa Thái Lạc

user posted image

Trang trí chim thần Kinnari trên cốn gỗ chùa Thái Lạc (Vơ Văn Tường)

user posted image

Trang trí ván bưng ḷng v́ giá chiêng (chùa Bối Khê)

user posted image

user posted image

Trang trí đầu bẩy chùa Bối Khê (Trung tâm thiết kế và tu bổ các công tŕnh văn hóa)

+ Bài trí tượng thờ

Theo sách Tam Tổ Thực Lục cho thấy số lượng tượng Phật được làm rất nhiều, có nhà sư cúng một lần đă cho đúc tới 1300 pho tượng Phật lớn nhỏ. Vua Minh Tông khi mới lên ngôi đă cho đúc ở chùa Siêu Loại 3 pho tượng lớn cao 17 thước. Có những tượng kích thước khá lớn như tượng Di Lặc cao1,6 trượng hoặc hơn nữa. Vào đời Kiến Trung thứ 7 (1231) “Thượng Hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đ́nh trạm đều phải đắp tượng Phật để thờ”. Nhưng hiện vật về tượng Phật thời Trần cũng như hệ thống bài trí tượng thờ trong chùa như thế nào đến nay vẫn c̣n chưa xác định được.

Tuy nhiên, ở một số chùa làng, trong điện Phật c̣n giữ được những bệ thờ bằng đá dài suốt chiều rộng gian giữa khoảng 3m x 1m (4m x 2m) và cao hơn 1m, được người xưa gọi là “Phật bàn” hay “ Thạch Phật bàn” là một dạng như nhang án, không có dấu vết đặt tượng bên trên. Có giả thuyết cho rằng có thể người xưa thờ chữ Phật hoặc tranh Phật thay thế cho tượng.

Cho đến ngày nay, chưa t́m được tượng Phật chắc chắn của thời Trần nhưng t́m được khá nhiều bệ ba tượng (thường ghi niên đại cuối thế kỷ XIV) . Vậy đến thời Trần, Phật giáo Đại thừa đă khẳng định sự lớn mạnh qua việc thờ ba vị chư Phật Quá khứ, Hiện tại và Vị lai.

- Kết luận phần 2

Trải qua gần 200 năm tồn tại, thời Trần đă đóng góp cho kiến trúc chùa tháp Việt Nam nhiều công tŕnh có giá trị c̣n tương đối nguyên vẹn cho đến ngày nay như tháp Phổ Minh, tháp B́nh Sơn… Thừa hưởng một nền kiến trúc đồ sộ thời Lư (từ các công tŕnh, kỹ thuật xây dựng, trang trí…), nền kiến trúc thời Trần giai đoạn đầu mang những ảnh hưởng đặc trưng của kiến trúc thời Lư. Công tŕnh luôn gắn bó với môi trường, cảnh quan đẹp đẽ, vị trí thuận tiện, những bố cục trang trí tinh xảo và cân xứng. Tuy không c̣n những công tŕnh đồ sộ như thời Lư nhưng những kiến trúc Phật giáo với tầm vóc vừa phải của thời Trần cũng để lại một dấu ấn đáng tự hào trong lịch sử phát triển Phật giáo ở nước ta.

Kế thừa di sản nghệ thuật từ thời Lư, nghệ thuật thời Trần đă phát triển theo một con đường riêng, tạo ra một thời đại phát triển rực rỡ nữa của Phật giáo. Khác với sự tinh vi, trau chuốt trong nghệ thuật thời Lư, phong cách nghệ thuật giai đoạn này giản đơn, khỏe khoắn, như muốn thoát khỏi lễ nghi thể hiện trong từng đường nét chạm trổ và kiến trúc. Trang trí thời Trần đă để lại những nét riêng với h́nh dáng chắc khỏe, đề tài gần gũi người dân và mang tính hiện thực cao hơn. Tuy nhiên, do chiến tranh của phương Bắc và phương Nam đă hạn chế sự phát triển của kiến trúc thời Trần và mang lại nhiều ảnh hưởng ít nhiều của nền kiến trúc ngoại lai trong các lối bố cục và hoa văn trang trí. Nhưng trên hết, những nét truyền thống dân tộc về cơ bản vẫn được bảo lưu nguyên vẹn trong nền kiến trúc thời Trần, đóng góp không nhỏ vào kho tàng kiến trúc của dân tộc.

Tài liệu tham khảo:
Lê Mạnh Thát. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam tập 1 (1999), tập 2 (2001), tập 3 (2002), NXB Thành phố HCM.
Nguyễn Đức Nùng (chủ biên). Mỹ thuật thời Trần. NXB Văn Hóa Hà Nội năm 1977.
Chu Quang Trứ. Mỹ thuật Lư - Trần, Mỹ thuật Phật giáo. NXB Thuận Hoá 1998.
Trần Lâm Biền. Chùa Việt. NXB VH-TT 1996.
Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo sử luận. NXB Văn Học Hà Nội 1979.
Nguyễn Bá Lăng. Kiến trúc Phật giáo Việt Nam . Viện Đại học Vạn Hạnh 1972.
Nguyễn Duy Hinh. Tháp cổ Việt Nam 1992






* Hosted for free by zIFBoards