Thống kê truy cập

Trong ngày  :

41852

Đã truy cập :

23334962
  • xã Đại Lai
  •  

    1.Chùa Phúc Linh.

    Chùa Phúc Linh nay thuộc thôn Trung Thành, cách trung tâm huyện 6 km về phía Đông nam. Chùa được xây dựng lớn vào thế kỷ thứ XVIII. Hiện nay khu vực xung quanh chùa còn lại những dấu tích để lại như: Khu di chỉ lò gốm cổ, có niên đại khoảng từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VI.

    Hiện nay kiến trúc của chùa mang nhiều nét nghệ thuật dân gian truyền thống, trang trí các nét vân mây, hoa lá chạm nổi. Điểm nổi bật ở chùa là tuy mới được trùng tu lại năm 2003 nhưng vẫn giữ nguyên được kiểu kiến trúc ban đầu, mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.

    Trải qua bao biến động của lịch sử, chùa Phúc Linh vẫn còn bảo lưu được khối lượng hiện vật mang giá trị nghệ thuật cao, có 16 pho tượng, 1 bia đá khắc năm 1832, một quả chuông đồng đúc năm 1846, ngoài ra còn có các bức đại tự, câu đối, hương án, kiệu, các đồ thờ bằng gốm, sứ, đồng, bằng gỗ được sơn son thếp vàng lộng lẫy...

    Chùa Phúc Linh đã được Bộ VHTT xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá. Quyết định số: 502/QĐ – BT, ngày 28 tháng 4 năm 1994.

    2.Chùa Ngọc Hoàng.

    Chùa Ngọc Hoàng nằm ở phía Đông của thôn Đại Lai, được xây dựng từ thời Lê quy mô to rộng với nhiều hạng mục công trình, trải qua thời gian và chiến tranh chùa đã nhiều lần tu bổ, sửa chữa, đến nay tòa tam bảo và thượng điện còn nguyên kiểu kiến trúc thời Nguyễn.

    Chùa Ngọc Hoàng được xây dựng với quy mô lớn vào thế kỷ XVIII, thời kỳ đó có sự công đức của các tín thí trong và ngoài xã đã dựng lên một công trình tín ngưỡng to và đẹp. Theo văn bia trong chùa cho biết vào ngày 21 tháng 11 năm Đinh Hợi (1707) đúc tượng đến ngày 19 tháng 7 năm Canh Dần (1710) làm hành lang, đến tháng 3 năm Tân Mão (1711) làm tượng, đúc khánh, khuôn viên của chùa trở nên tố hảo, đẹp đẽ. Như vậy ta thấy rằng trước kia bình đồ kiến trúc của chùa theo chữ Công hai bên Đông - Tây là hai dãy hành lang, cổng chùa ở phía nam, phía bắc là ao chùa và vườn cây. Về quy mô và kích thước ngôi chùa Ngọc Hoàng thời kỳ đó chắc hẳn có quy mô to lớn và bề thế thông qua các hiện vật và đồ thờ còn được lưu giữ trong chùa cho đến ngày nay như: sấu đá, tượng thờ, trống đồng… Qua thời gian và chiến tranh các hạng mục công trình đó đã bị huỷ hoại và những gì còn lại đã được mầu thời gian phủ lên bề mặt nên khi ta vào chùa vẫn có cảm giác linh thiêng u tịch.

                Khu di tích chùa Ngọc Hoàng là một ngôi chùa thờ Phật, chủ yếu là Phật A Di Đà và Phật Quan Âm, hệ thống phật trong chùa đẹp thanh thoát, đây là điểm nổi bật của chùa Ngọc Hoàng. Ngoài ra, trong chùa còn thờ các hậu phật, đó là những người có công đóng góp lớn cho việc xây dựng chùa, họ xin đặt hậu vào đó để sau khi mất được hương khói quanh năm. Hiện trong chùa có 7 tượng hậu được tạc bằng đá xanh trong đó có 5 tượng nữ và 2 tượng nam, đây cũng là truyền thống văn hoá tốt đẹp của vùng quê Đại Lai.

                Chùa Ngọc Hoàng nằm trong khuôn viên rộng 6256m2 quay theo hướng Nam, chùa được xây dựng vào đầu thế kỷ XVIII gồm các hạng mục công trình như: Tam bảo, thượng điện, nhà mẫu, nhà tổ, 2 dãy hành lang… Trải qua thời gian cho đến nay một số công trình như hai dãy hành lang đã bị mất, một số công trình như nhà tổ mới được phục dựng lại… còn tam bảo, thượng điện và nhà mẫu vẫn nằm trên đất cũ, nền xưa nhưng qua nhiều lần tu bổ, sửa chữa. Hiện nay trên thượng lương của tam bảo còn ghi “Khải Định nguyên niên tuế thứ Bính Thìn thập nguyệt thập nhất nhật thụ trụ thượng lương đại cát” nghĩa là chùa được đặt thượng lương vào ngày 11 tháng 10 năm Bính Thìn, thời vua Khải Định thứ 1(1916).

                Phía trước chùa hiện nay là vườn chùa, trên vườn chùa có hai cây tháp, vườn thấp hơn nền chùa là 40 cm, rộng khoảng 600m2. Trong vườn phía trước tam bảo là một đôi sấu đá chầu vào trong. Đôi sấu này to và đẹp có kích thước toàn thân dài 1,1m, cao trung bình là 0,5m đặt trong tư thế chầu vào Tam bảo trong tư thế quỳ, có 2 răng nanh sắc nhọn, mồm ngậm ngọc, mũi to, râu dài, đuôi to và dày kiểu như lá đề, theo mô típ kiểu hoa văn trang trí thì đôi sấu đá được tạo vào thời Lê.

                Tam bảo gồm 5 gian 2 dĩ, dài 14,4m lòng rộng 8,7m hiên rộng 1m. Cao dạ tàu trước 1,9m, dạ tàu sau 2,1m, cao nóc 4,9m, dọc 6 hàng cột, ngang 4 hàng cột. Toàn bộ 5 gian tam bảo làm bằng gỗ lim kiến trúc vì giá chiêng, lợp ngói. Đầu hồi xây gạch có để hệ thống cửa vuông, nền lát gạch thường. ở hai bên đầu hồi cửa tam bảo đặt 7 pho tượng hậu được tạc bằng đá xanh, mỗi tượng một vẻ.

                Phía trên của tam bảo có treo hệ thống hoành phi như:

                “Ngọc Hoàng thiền tự”; “Uy túc phong vân” và “Khí cao tinh hán”.

                Nối với gian giữa tam bảo là 3 gian thượng điện (chuôi vồ), 3 gian có kiến trúc vì kẻ truyền, giá chiêng, kích thước rộng 7,5m, sâu 7,2m. Tại đây bài trí tượng Phật gồm 4 hàng: trên cùng là hệ thống Tam thế, hàng thứ hai là tượng Adiđà, hàng thứ ba là tượng Quan Âm, hàng dưới cùng là tượng Thích Ca sơ sinh, mỗi hàng đều có tượng hai bên phối thờ.

              Phía sau thượng điện là 5 gian thờ mẫu, 5 gian này mới được tu sửa, có kích thước dài 13,4m, rộng5,9m, hiên rộng 1,4m, nền gạch thường.

    Tiếp đến là sân gạch. Trước kia khu vực sân này là ở phía sau của chùa, nhưng vào năm 1953 nhân dân đã chuyển cổng chùa từ phía Nam sang Tây như hiện nay, do vậy đến nay khu vực sân này trở thành phía trước của chùa. Sân chùa có kích thước rộng 7,4m, dài 12m. Ngoài ra ở phía Đông ở khu chùa là hệ thống nhà phụ và nhà thờ Tổ mới được khôi phục lại năm 1996.

    Với giá trị cơ bản trên chùa Ngọc Hoàng đã được UBND tỉnh Bắc Ninh xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa. Quyết định số 230/QĐ-CT, ngày 10/3/2003.

    3.Chùa Phương Triện.

    Chùa Phương Triện tên chữ là “Thanh Nương tự” nằm ở phía Đông Bắc của làng thuộc xóm Đầu Voi. Theo lời truyền của các cụ cao tuổi trong làng cho biết xưa kia làng có 2 chùa: chùa Ngoài, tên chữ là Thanh Nương tự và chùa Trong tên chữ là Khai Bảo tự, do một gia đình giầu có bỏ tiền ra dựng. Năm 1691 ngôi chùa được trùng tu lớn, lần trùng tu này được khắc rõ trên văn bia “Thanh Nương tự bi” có đoạn viết:

    “Người xưa lấy chữ Bảo đặt tên cho làng vì đây là nơi cổ địa danh lam có tiếng trong thiên hạ, có Phật điện, Tiền đường rộng rãi.

    Chùa nay, xưa do thiện sĩ ở làng Bảo Triện đã sửa chữa lại nhưng lâu ngày đã hư hỏng muốn sửa lại như cũ phải đợi đến năm nào được mùa và có lực lượng lớn mới làm được.

    Nay ở xã Bảo Triện có ông Trần Hữu Tín tự là Tính Nho có lòng từ thiện, năm Kỷ Tỵ đã đem của riêng nhà mình làm 30 pho tượng. Đến năm Canh Ngọ lại bán ruộng của nhà mình được 100 lạng bạc ông đem số tiền ấy mua gỗ thiết lâm (gỗ lim) và gạch ngói, đón hàng trăm người thợ về sửa lại chùa, đến năm Tân Mùi thì phúc quả viên thành được 4 ngôi nhà, mỗi ngôi 4 gian đều cao ráo, đẹp đẽ, cảnh chùa sáng sủa, công đức ấy thực đáng ghi vào bảng vàng, bia đá truyền lại cho muôn đời sau. Nhân dân bèn đón thợ về đúc đá, khắc bia để ghi lại lòng tốt của ông Tín. Tấm lòng nhân đức ấy của ông Tín không những bản thân ông được hưởng mà con cháu ông hàng trăm năm sau vẫn được ảnh hướng tốt và được mọi người khen ngợi…

    Như vậy đã rõ chùa làng Phương Triện xây dựng với quy mô lớn thuộc thời Lê. Trong kháng chiến chống Pháp chùa là nơi hội họp và là điểm quan sát địch cản lực lượng du kích trong làng. Năm 1947 quân Pháp tổ chức xây đồn bốt quanh làng Phương Triện: phía Tây Bắc là bốt Địch (Trung Thành), phía Đông Bắc là bốt Dù (Thái Bảo), bốt Thiên Thai.

    Năm 1949, thực hiện lệnh tiêu thổ kháng chiến dân làng Phương Triện đã đốt cháy đình, chùa... chỉ còn lại một gian tam bảo để thờ cúng. Năm 1983 khôi phục lại 5 gian tiền đường nối với một gian tam bảo. Năm 2002 bằng tiền của, công sức của mình nhân dân địa phương đã khôi phục lại các hạng mục công trình theo kiểu kiến trúc cổ truyền trên nền móng cũ đình xưa gồm các công trình: Tiền đường, tam bảo, nhà mẫu... và lấy tên cũ là "Thanh Nương tự".

    Hiện chùa toạ lạc trên một khu đất rộng thuộc xóm Đầu Voi quay theo hướng Nam, xung quanh chùa xây tường bao bằng gạch, phía trước là ao, ở trước toà chính cách 1 khoảng sân có xây một lăng mộ gọi là lăng cụ Báu, người có công xây dựng chùa, tiếp đến là sân gạch, phía sau là vườn chùa có nhiều cây trái xanh tốt, tạo cho không gian của chùa mát mẻ, thoáng đãng.

     Công trình kiến trúc chính của chùa gồm: tiền đường, thượng điện:

    Tiền đường mái lợp ngói mũi, nền nát gạch, bộ khung gỗ chủ yếu được bào trơn đóng bén, phía trước 2 tường hồi xây cột trụ lòng đèn, bờ nóc đắp giải hoa chanh, trên có biển tên chùa "Thanh Nương tự", 2 gian hồi trang trí cửa tròn chữ thọ, 3 gian để cửa, phía trước là sân, qua 3 bậc thềm thì đến toà nhà chính. Tại tiền đường đặt 4 pho tượng, bên phải là tượng Thánh Tăng và tượng Bác Hồ, bên trái đặt thờ tượng Đức Ông. Tượng Đức Ông thể hiện mặt đỏ, râu dài, đội mũ cánh chuồn, đai lưng chễ dưới bụng, mặt tượng dữ, mắt sếch và mở to. Cạnh hai bên là tượng Hộ Pháp. (tượng mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn).

    Nối liền với tiền đường là 3 gian Thượng điện. Các bộ vì liên kết theo kiểu lòng thuyền trụ trốn khung gỗ lim được bào trơn đóng bén. Trong thượng điện xây bàn thờ bài trí các lớp tượng theo từng bậc, bao gồm 5 lớp tượng. Ở bên phải ban thờ chính có đặt tượng Quan Âm Toạ Sơn, bên trái đặt thờ tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, mặt tượng khoan dung hiền từ, mũi cao.

    Bên phải tam bảo là nhà mẫu, kiểu chữ Đinh (J) với diện tích là 45m2, kiến trúc đơn giản, khung xây cột đồng trụ, nền nát gạch, tường xây gạch, mái lợp ngói mũi, cửa 3 gian. Hậu cung bài trí 3 pho tượng mẫu quàng khăn; đỏ, xanh, trắng. Ba pho tượng mẫu có hình tượng tương tự như nhau, đầu đội mũ cài hoa có gắn các biểu tượng linh thiêng, khuôn mặt hiền hậu, tai lớn như tai Phật, cổ kiêu ba ngấn. Mẫu đệ nhất Thượng ngàn ngồi giữa, bên phải là mẫu đệ nhị Thượng ngàn và mẫu đệ tam là Mẫu Thoải ngồi bên trái. Hai bên đặt thờ 2 pho tượng Tổ cùng các đồ thờ tự như: bát hương, mâm bồng, trên treo các bức hoành phi, câu đối...

    Chùa Phương Triện (Thanh Nương tự) là công trình tín ngưỡng tiêu biểu của địa phương, được khởi dựng từ khá sớm, trùng tu tôn tạo lớn vào năm 1691. Do thời gian và chiến tranh, công trình kiến trúc không còn được như xưa, đến nay di tích còn lưu giữ được nhiều tài liệu, hiện vật cổ, quý có giá trị văn hoá tiêu biểu như: bia đá, chó đá, tượng thờ, hoành phi, câu đối... những hiện vật này là nguồn sử liệu quan trọng giúp cho việc tìm hiểu nghiên cứu lịch sử ngôi chùa Thanh Nương. Đây là trung tâm tín ngưỡng thờ Phật của nhân dân địa phương, thể hiện rõ bản sắc dân tộc cần được bảo tồn nghiên cứu tìm hiểu.

    Với những giá trị cơ bản trên, chùa Phương Triện đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử - văn hoá. Quyết định số 1411/QĐ-UBND, ngày 31/10/2006.

    4.Cụm di tích họ Trần Danh.

    Cụm di tích họ Trần Danh nay thuộc thôn Phương Triện, nằm ở phía Đông nam của xã. Họ Trần vốn thuộc dòng dõi Hoàng tộc, quê ở thôn Tức Mặc, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định, nay là thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng ngoại thành Nam Định. Vào cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV vì lý do thời cuộc cụ Thuần Đạo đã di cư về thôn Cống, xã Bảo Triện, huyện Gia Định, xứ Kinh Bắc và từ đó ở đây có dòng họ Trần, cụ thuỷ tổ bắt đầu tính từ cụ Thuần Đạo.

    Vào giai đoạn nửa cuối thời Lê, ba đời liên tiếp đỗ đại khoa, có 4 người đỗ Tiến sỹ (trong đó có hai người đỗ Hoàng Giáp), 67 người đỗ cử nhân và tú tài: được mệnh danh là gia đình Khoa bảng.

    Việc học hành thi cử của dòng họ bắt đầu phát triển từ đời thứ 4 cụ Danh Huyên đỗ Tú tài, được phong chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Thừa chính xứ Thái Nguyên, tước Thuỵ Trạch bá, đến đời thứ 6 có 3 cụ đỗ Cử nhân: cụ Long Hưng; cụ Danh Trung và cụ Phụ Dực. Sau đó cụ Phụ Dực dự thi Hội và đỗ Tiến sỹ, tiếp đến là các vị tiến sỹ: Trần Danh Ninh (1703-1767), Trần Danh Lâm (1705 - 1777), Trần Danh Án: (1754 - 1794); đều là những người có nhiều công lao, đóng góp to lớn đối với đất nước, quê hương.

    Qua những dấu tích còn để lại thì cụm di tích họ Trần Danh được xây dựng khoảng thời Lê thế kỷ XVIII, lúc đó khu di tích có quy mô đẹp, tạo thành một cụm di tích, gồm Đông A truy viễn đàn (thường gọi là từ đường bệ đá họ Trần); nhà thờ Trần Phụ Dực (còn gọi là nhà thờ cụ Quận); nhà thờ Trần Danh Ninh (từ đường Thiếu bảo tướng công); nhà thờ Trần Danh Lâm (từ đường Vạn Niên) và quần thể khu mộ có hệ thống bia đá ghi lại thân thế và sự nghiệp của các tiến sỹ trong gia tộc rất đẹp và độc đáo. Trải qua thời gian nhà thờ đã biến đổi không còn nguyên vẹn như xưa. Vừa qua được sự quan tâm của toàn gia tộc họ Trần Danh, các công trình văn hoá của gia tộc đã được tu sửa khang trang 2 công trình gồm; Từ đường họ Trần Danh và nhà thờ Giáp chi.

    Từ đường họ Trần Danh:

    Xưa khu vực này toàn bộ công trình kiến trúc toàn bằng đá lộ thiên còn gọi là Từ đường bệ đá họ Trần gồm bia đá, voi đá, bát hương đá hiện nay được sự quan tâm của toàn thể gia tộc vào năm 2000 từ đường họ Trần Danh được xây dựng có quy mô lớn kiến trúc kiểu chữ Đinh, gồm 5 gian Tiền đường và 3 gian Hậu đường làm theo kiểu chồng diêm 8 mái, bên trong bài trí bia đá và hệ thống ban thờ đá gồm 6 chiếc, các hoạ tiết hoa văn trang trí trên ban thờ đá vào khoảng thế kỷ XVIII – XIX, trên các ban thờ đá được bài trí các đồ thờ như: bài vị, nến đồng, đài đồng, bát hương rất tôn nghiêm.

    Nhà thờ Giáp chi:

    Mới được phục dựng năm 2002 gồm 3 gian, kiến trúc vì đơn giản theo kiểu vì kèo quá giang gác tường, đầu hồi bít đốc cột trụ lồng đèn, quay theo hướng Tây ở 2 bên cột trụ đặt hai tượng Vũ sỹ chất liệu đá, niên đại thế kỷ XVIII. Tượng được tạc bằng đá nguyên khối trong tư thế đứng mặc trang phục võ quan, đầu đội mũ, một tay cầm đao một tay chắp trước ngực rất oai nghiêm, phía trước nhà thờ bên phải có một nhà bia làm theo kiểu chồng diêm 8 mái 8 đao cong bên trong có tấm bia “Thái bảo tướng công từ đường bi ký” niên đại thời vua Tự Đức năm Bính thìn (1856) nội dung bia ghi lại thân thế và sự nghiệp Hoàng giáp Trần Danh Ninh. Bên trong nhà thờ bài trí hương án, ngai thờ, hoành phi, câu đối và một số đồ thờ tự khác.

    Hiện nay trong cụm di tích họ Trần Danh còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật quý về lịch sử, giúp cho việc nghiên cứu và giáo dục truyền thống sâu sắc. Đó là các đồ thờ tự bằng nhiều chất liệu khác nhau như: Hệ thống bia đá, sập đá, tượng Vũ Sĩ đá, gia phả, văn tế, nội dung hoành phi, câu đối có giá trị lịch sử và nghệ thuật sâu sắc. Bên trong Cụm di tích thờ các bậc tiên tổ và 4 vị đại khoa trong gia tộc là những người có công lớn đối với dân với nước. Cuộc đời và sự nghiệp của các vị đại khoa đã được nhân dân truyền tụng, gia tộc viết gia phả, sử sách biên chép, ca ngợi, nhà vua ban tặng “Thư bút ngự tứ”. Vì vậy Cụm di tích không chỉ là trung tâm tín ngưỡng văn hoá của gia tộc và dân thôn mà còn là nơi lưu niệm sâu sắc về các nhà khoa bảng tiêu biểu.

    Cụm di tích họ Trần Danh đã được UBND tỉnh ra quyết định xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá, Quyết định số 1489/QĐ-UBND, ngày 05/10/2009.

    6. Đình làng Huề Đông.

    Thôn Huề Đông hiện nay có 2 ngôi đình là đình Đông và đình Vật (đình Tây), những công trình văn hóa tín ngưỡng tiêu biểu  vốn được nhân dân địa phương xây dựng từ lâu đời để tôn thờ hai vị thần là Lữ Gia và Doãn Công (Tướng Công), có công đánh giặc giữ nước vào những năm đầu của công Nguyên.

    - Đình Đông (đình Huề Đông)

    Vốn được xây dựng từ thời Lê, nguyên xưa 3 mặt là ao, quy mô kiến trúc kiểu chữ đinh gồm 5 gian 2 chái đại đình, 3 gian hậu cung được lát sàn gỗ, phía trước 2 bên là 2 giải vũ, trước cửa đình có đường độc đạo xuống bãi, góc sân (phía Tây) có một giếng cổ rộng khoảng 70m2, hàng ngày nhân dân trong làng thường xuyên gánh nước về ăn. Đến năm 1947 thực dân Pháp đốt đình nên đến nay nhân dân địa phương thường gọi là đình Cháy. Năm 1963 do nhu cầu phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, đình đã bị dỡ bỏ 5 gian tiền tế để lấy gỗ, gạch ngói xây dựng nhà kho HTX và nhà Văn hóa, chỉ còn lại 3 gian hậu cung. Năm 1997 đình được sửa lại hậu cung và xây lại 3 gian đại đình với quy mô nhỏ. Năm 2003 được sự quan tâm của Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương ngôi đình được tu tạo lại khang trang. Tổng thể công trình quay theo hướng đông nam, gồm 3 gian 2 chái đại đình, 3 gian dậu cung. Đại đình có kích thước dài 16m, rộng 7,5m, hệ thống khung chắc khoẻ, vì theo kiểu giá chiêng, không gian của đình rộng và thoáng đãng.

    Phía sau đại đình là hậu cung được ngăn cách bằng hệ thống cửa thượng bức bàn. Hậu cung còn nguyên kiến trúc cổ gồm 3 gian gỗ lim kiến trúc vì theo kiểu giá chiêng, rộng 7,5m, sâu 8,5m, ngang 4 hàng cột, dọc 4 hàng cột, phía trên treo bức hoành phi “Thánh cung vạn tuế”. Bên trên được bài trí bát hương, mâm bồng, khám thờ (trong khám đặt 3 ngai thờ, mâm bồng, đài nước...) và một số đồ thờ khác. Tất cả các hiện vật này có niên đại thời Lê - Nguyễn .

    Bên trái đình là miếu thờ phụ mẫu, có tượng Đào Nương cao 60cm. Bên trong có dòng chữ Hán “Thánh phụ thánh mẫu liệt vị tôn thần”.

    Phía trước sân đình có kích thước rộng rãi được lát bằng gạch, phía ngoài là ao đình, bên kia có vườn, gọi là vườn Cù, diện tích khoảng 500m2, trong vườn còn có hòn đá thiêng. Tương truyền hòn đá này là giọt máu của Lữ Gia để lại, sau này đã trở thành bệ thờ ghi lại dấu tích của người đã qua. Hằng năm vào ngày 12, 13, 14 tháng 10 làng vào đám mở hội, các cụ lại rước ngai thờ ra bệ đá tắm gội, còn gọi là lễ “Mộc dục”, lệ tục này vẫn còn được các thế hệ người dân Huề Đông lưu giữ và phát huy trong ngày lễ hội truyền thống.

    -Đình Vật (đình Tây)

    Đình nằm trong một khu đất cao ở phía Tây của làng Huề Đông, xưa đình có quy mô khá lớn gồm; đại đình, hậu cung, phía trước 2 bên là 2 giải vũ mỗi bên 3 gian, bên ngoài là hệ thống cổng theo kiểu cột trụ lồng đèn, trước sân là bãi vật khá rộng. Trong đại đình có sàn gỗ cao khoảng từ 60cm- 70cm sau bị rỡ bỏ. Đến nay toà đại đình còn lại khá nguyên vẹn, dựng trên một mặt nền khá cao, trong đình có bình đồ kiến trúc hình chữ đinh gồm 3 gian 2 chái đại đình và 3 gian hậu cung được xây dựng theo lối kiến trúc cổ truyền thống, toàn bộ kết cấu gỗ đều làm bằng gỗ lim, gồm 6 hàng cột ngang 4 hàng cột dọc, nâng đỡ bộ vì liên kết theo kiểu con chồng giá chiêng. Kích thước gian giữa và 2 gian bên rộng 3,1m, hai chái rộng 2,4m, tổng chiều dài 14,5m, rộng 7,5m. Hiện trên thượng lương còn dòng chữ Hán ghi rõ năm trùng tu: “Hoàng triều Duy Tân tứ niên, tuế thứ Canh Tuất thập nhị nguyệt, nhị thập tứ nhật lương thời thượng lương trùng tu đại cát xương”. Nghĩa là: Đình được trùng tu lại vào giờ tốt ngày 24 tháng 12 năm Canh Tuất triều vua Duy Tân năm thứ 4 (1910).

    Trong gian giữa đại đình bài trí hương án, trên hương án là những đồ thờ như; bát hương, đỉnh đồng, nến đồng, mâm bồng… ở 2 bên là bộ bát bửu, phía trên treo bức hoành phi “Thượng đẳng linh từ”.

    Phía bên trái đình dựng tấm bia đá “Lưu truyền vạn đại”, có niên đại năm Thiệu Trị 5 (1841), kích thước 90cm x 50cm x 18cm.

    Nối vào đại đình là ba gian hậu cung nhỏ, kích thước rộng 6,2m, sâu 3,2m bên trong có bệ gạch cao 1m trên bệ được bài trí 3 ngai thờ, 3 bài vị, bát hương, đài, nến…

    Nhìn chung, đình Vật đến nay còn là công trình văn hoá tín ngưỡng đẹp và được bảo tồn khá nguyên vẹn, các kết cấu kiến trúc còn rất chắc chắn, bên trong còn lưu lại khá nhiều tài liệu hiện vật có giá trị nghiên cứu lịch sử làng xã.

    Có thể nói, cả 2 đình của làng Huề Đông đến nay không chỉ có giá trị tâm linh tín ngưỡng mà thực sự là nơi bảo lưu những di vật cổ đều có giá trị lịch sử và khoa học, đồng thời là những nguồn sử liệu phong phú, xác thực để tìm hiểu lịch sử cội nguồn, sự phát triển truyền thống vẻ vang của cha ông ta. Ngôi đình cũng đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng đã xảy ra trên mảnh đất quê hương, Công trình đã  thực sự gắn liền với sự phát triển của một làng, một xã, xứng đáng là trung tâm giáo dục truyền thống, là điểm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của nhân dân nơi đây từ xưa đến nay.

    Đình làng Huề Đông đã được UBND tỉnh Bắc Ninh ra quyết định và cấp bằng xếp hạng là di tích lịch sử – văn hóa. Quyết định số 934/QĐ-UBND, ngày 04 tháng 8 năm 2011.

    8.Khu di tích Lệ Chi Viên.

    Khu di tích Lệ Chi Viên nằm giáp đê Đại Hà thuộc thôn Đại Lai, vốn là hành cung được khởi dựng từ thời Lý, đến thời Trần Minh Tông đã cho xây dựng lại thành cung Ly Trang, sang thời Hậu Lê cung Ly Trang được tu bổ và xây thêm thành cung Yên Hà và sau đó có tên là Lệ Chi Viên. Nơi đây là nơi dừng chân và nghỉ ngơi của nhà vua mỗi khi lên thị sát miền Đông Bắc. Hành cung Đại Lai mang theo tên gọi “Lệ Chi Viên” không chỉ đơn giản là một trạm nghỉ ngơi của các vua thời Lê mỗi dịp từ kinh thành đi dã ngoại tới vùng Đông Bắc đất nước. Lệ Chi Viên chính là một vị trí quan trọng có ý nghĩa quân sự khá đặc biệt mà các vua nhà Lê đã khai thác để chốt giữ, tuần phong đất nước. Lệ Chi Viên ngoài ý nghĩa trên còn đi vào lịch sử vì nơi đây đã được gắn với vụ án oan tày trời đối với người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Nỗi oan này vào ngày 16 tháng 8 (âm lịch) năm Nhâm tuất 1442 Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ cùng với thảm án chu di tam tộc nhà Nguyễn Trãi. Về sau vua Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi sau hơn 20 năm, theo đó sự sáng trong của đất này cũng được tỏ tường.

    Hiện nay khu Lệ Chi Viên đã được Đảng, chính quyền địa phương khảo sát lập quy hoạch chi tiết khu di tích Lệ Chi Viên, để làm cơ sở cho việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất và từng bước đầu tư khôi phục, xây dựng các hạng mục công trình văn hoá trong khu di tích Lệ Chi Viên để tôn thờ 2 nhân vật tiêu biểu là Nguyễn Trãi, một nhân vật vĩ đại về nhiều mặt, rất hiếm có trong lịch sử. Ông là một anh hùng dân tộc, nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất, đồng thời là một nhà văn lớn, nhà thơ lớn, nhà sử học, nhà địa lý học, nhà làm pháp luật và âm nhạc xuất sắc. Và Nguyễn Thị Lộ một Lễ nghi học sĩ, người thông hiểu kinh sách và biết làm thơ.

    Khu vườn vải Lệ Chi Viên hiện nay nằm ở phía Tây của thôn, thuộc xứ Vườn Quan, trong khuôn viên này năm 2006 địa phương đã xây dựng một công trình gồm 3 gian tiền đường, 1 gian hậu cung, kiến trúc chữ đinh, quay theo hướng Nam để tôn thờ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Bên trong bài trí hai pho tượng của hai vị được tạc bằng chất liệu gỗ phủ sơn trong tư thế ngồi rất đẹp, phía trên treo các bức hoành phi “Đẩu khuê cao chiếu”, “Trung trinh tiết liệt”, “Lệ Chi Viên thần nữ”, và hai bên các cột có những đôi câu đối nội dung ca ngợi về tấm lòng sáng như sao Khuê của Nguyễn Trãi và thanh danh trong sạch của Nguyễn Thị Lộ.

    Khu Lệ Chi Viên là di tích lịch sử văn hoá có cảnh quan đẹp được các triều đại phong kiến Việt Nam chọn làm nơi xây dựng một hành cung quan trọng, được xây dựng từ thời Lý đến thời Lê mở rộng hơn, một trạm nghỉ ngơi của các vua mỗi dịp từ kinh thành đi dã ngoại tới vùng Đông Bắc đất nước.

    Với giá trị cơ bản trên khu di tích Lệ Chi Viên đã được UBND tỉnh xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa, Quyết định số 966/QĐ-UBND, ngày 29/07/2010.

     

       (14/06/2013 9:05 SA)