Chương IV
TRƯƠNG NGHIÊM
(Thế kỷ XVII)
Thế thứ: Đời thứ 7 ở Như Kinh - Kinh Bắc (*)
Tên húy: Trương Nghiêm
Tên tự: Phúc Gia
Tên thụy: Đôn Lễ
Tước hiệu: Nhượng quận công
Chức vụ: Ty chánh Ty giáo phường, thăng tiến tới
chức Đô đốc phủ Đô đốc đồng tri
Quê quán: Xã Như Kinh, huyện Gia Lâm, phủ Thuận
An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc thị trấn Như Quỳnh,
huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên).
Sinh thời: Sinh khoảng thập kỷ 20 hoặc 30 thế kỷ
XVII, làm quan thời Hậu Lê.
1Nơi thờ: Đình Lê Xá, thị trấn Như Quỳnh, huyện
Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên bây giờ (xem PLTA III).
I. THÂN THẾ
Trương Nghiêm là trưởng nam trong một gia đình
quan lại, thuộc dòng họ nhiều đời là công thần nhà
Hậu Lê. Ông là hậu duệ đời thứ 11 của Bình Ngô khai
quốc Tuyên lực công thần Thái phó Mậu Tương hầu Lê
Nhi (tên thật là Trương Nhi - con trai thứ hai của
khởi tổ Trương Lôi). Phụ thân của ông tên húy là
Lục, tự là Phúc Cao, thụy là Đức Chính, làm quan Đô
đốc phủ Đô đốc đồng tri, tặng phomg Thái phó, Quán
quận công. Mẫu thân của ông được phong Quận phu
nhân, họ Nguyễn, hiệu là Đoan Dung, người làng Đạo
Tú, huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc (nay thuộc huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
2Lúc đầu, ông nhậm chức Ty chánh Ty giáo phường,
chuyên trách việc diễn xướng trong cung đình. Sau
được thăng tiến làm Đô đốc phủ Đô đốc đồng tri,
tước Nhượng quận công.
Chánh thất của Nhượng quận công họ Nguyễn, húy là
Khang, hiệu là Diệu Hải ninh triết chân nhân, được
tặng phong là Quận phu nhân.
Nhượng quận công và Quận phu nhân “vốn tính nhân
từ, cư xử trung hậu” (Bia lập Hậu thần Kiến Hậu
thần bi ký bảo tồn ở đình làng Lê Xá, Như Quỳnh,
Văn Lâm, Hưng Yên - xem PLTA III), hay làm điều
thiện, giúp đỡ kẻ khó, mọi người rất quý trọng.
Ông bà lại sinh được trưởng nữ hiền hậu, giỏi
giang là Trương Thị Điểm làm Thị nội cung tần ở phủ
chúa, thăng tiến tới ngôi vị Tu nghi, rồi Chiêu
3dung, Chiêu nghi, tính tình “rất mực khiêm nhã, ôn
hòa, hiền thục” cũng thường “làm ơn cho thân thuộc,
giúp đỡ cho dân làng” (Bài ký đã dẫn) cho nên xa
gần, người người đều tôn kính.
Vì vậy, toàn thể hương lão và nhân dân thôn Lê Xá,
xã Như Kinh, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn
Kinh Bắc (nay là thôn Lê Xá, thị trấn Như Quỳnh,
huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên) đã tôn ông bà Nhượng
quận công và trưởng nữ Chiêu nghi Trương Thị Điểm
làm Hậu thần, khắc bia ghi nhớ công đức, thờ phụng,
tế lễ ở đình làng.
Nhượng quận công mất ngày 11 tháng 4 âm lịch (năm
nào không rõ). Hiện nay, tại đình thôn Lê Xá, thị
trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, tấm
bia Kiến Hậu thần bi ký dựng năm Tân Mùi, niên hiệu
4Chính Hòa thứ 12 (1691) ca ngợi công đức Nhượng
quận công Trương Nghiêm cùng phu nhân và trưởng nữ
vẫn được tôn kính bảo tồn và thờ phụng (xem PBTA
III).
II. ĐỌC THÊM:
Bài ký trên bia lập Hậu thần
Bia Kiến Hậu thần bi ký (Bài bia ký lập Hậu thần)
dựng năm Tân Mùi, niên hiệu Chính Hòa thứ 12
(1691), hiện được lưu thờ tại đình thôn Lê Xá, thị
trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Bia có 4 mặt, mỗi mặt có một tên riêng, nhưng là
một bài văn thống nhất, ca ngợi công đức của Nhượng
quận công Trương Nghiêm, Quận phu nhân Nguyễn Thị
Khang cùng trưởng nữ Chiêu nghi Trương Thị Điểm,
nội dung như sau:
5“Tại xã Như Kinh, tổng Như Kinh, huyện Gia Lâm,
phủ Thuận An, hương lão thôn trưởng và toàn thể
nhân dân trên dưới, lớn bé, cùng nhau họp bàn, đồng
tâm nhất trí dựng lập văn bia Hậu thần, ca ngợi
công đức.
Ôi! Xưa nay người làm điều thiện tất được phúc,
người có công tất được báo đáp. Đó là lẽ thường
tình.
Xét thấy xã ta quả là thắng cảnh nước Nam, danh
hương vùng Kinh Bắc, đất gấm vóc, vùng xướng ca
thịnh vượng. Nguyên từ xưa có thờ một vị Thành
hoàng trấn thủ linh thiêng, người làng lập án hàng
năm cúng lễ. Nhưng chỉ xây được một bệ thờ nhỏ,
dưới một bóng cây già mà thôi. Trải mấy trăm năm
rêu phủ, gió táp, mưa sa, tuy vẫn hương khói thờ
6phụng, nhưng sợ linh thần không đủ nơi nương tựa,
nên vẫn ngậm ngùi.
Muốn làm những việc người xưa chưa từng làm được,
tất phải trông chờ vào những người tài đức lớn. Nay
may nhờ có vị hương quan, Ty chánh Ty giáo phường
Trương Nghiêm, tự là Phúc Mệnh và phu nhân là
Nguyễn Thị Khang, hiệu là Diệu Hải, theo hầu trong
vương phủ, chức lộc lớn, hàm tước cao. Lại sinh quý
nữ là Trương Thị Điểm, sau đổi là Nguyễn Thị Ngọc
Diện, làm Quý phi Thị nội cung tần trong phủ chúa,
được hưởng hương trời, gió quý, nhà vàng, rạng rỡ
quý phái, làm vẻ vang cho tổ tiên, lại ban ơn cho
cả họ hàng, làng xóm. Đúng là nhà tích điều thiện
tất có phúc lộc vậy!
Vợ chồng cụ Trương công vốn tính nhân từ, cư xử
7trung hậu. Hơn nữa Quý phi rất mực khiêm nhã, ôn
hòa, hiền thục, làm ơn cho thân thuộc, giúp đỡ cho
dân làng, hết lòng kính cẩn, thờ phụng thần minh.
Thấy nơi thờ Thành hoàng u trệ như thế, đã mở lòng
từ bi. Mùa xuân năm Giáp Tý (1684), xuất tiền của
nhà mua gỗ, thuê thợ, xây dựng đền thờ, tòa trong 3
gian, xung quanh bao tường. Lại mua thêm 2 thước
đất để mở rộng đất đền, và cúng 2 mẫu ruộng của nhà
để làm ruộng hương hỏa.
Ngôi đền cao ngất như núi, khí thiêng nghi ngút
một phương. Như vậy, thần Thành hoàng đã có đền để
thờ, có ruộng để cúng tế, ngàn năm về sau, uy
nghiêm mãi mãi.
Như vậy, người có lòng thành kính phụng thờ thần,
thần cũng sẽ hâm hưởng mà phù hộ cho. Từ đây về
8sau, thần sẽ ban ân giáng phúc, cho dân yên, vật
thịnh, nhà nhà no đủ, mùa màng bội thu, chăn nuôi
sinh sản, lại ngăn trừ tai họa, công đức kể sao cho
xiết được!
Các vị giúp cho dân ta, dân ta đền đáp sao đây?
Bèn bàn nhau rằng: Những người chỉ có công đức một
thời, chỉ làm lợi lộc cho dân một làng, còn được
người đời thờ phụng. Huống hồ tôn thần không có các
vị thì biết nương tựa vào đâu? Dân ta không có
thần thì lấy ai phù hộ?
Người đã có công với thần, với dân, tất phải được
thần, dân báo đáp. Nếu thần bỏ các vị để hưởng
riêng thì có yên tâm được không? Dân có yên lòng
được không?
Vậy nên, nhân dân mới nguyện rằng: Vợ chồng Trương
9công và Quý phi, cả ba vị, đều tôn làm Hậu thần,
bình sinh thì dâng lễ chúc mừng, khi trăm tuổi thì
cúng giỗ kính cẩn. Mong thần minh chứng giám, thề
muôn đời hương khói mãi mãi, trường tồn cùng núi
non, trời đất, quyết không thay đổi.
Lại di chúc cho đời sau, dẫu đến trăm năm, nghìn
năm dài lâu, không ai được đổi dạ thay lòng, trái
lời đoan ước. Thần vẫn còn đó, chư vị vẫn còn đây,
cha già thì con nối, mãi mãi không quên. Nếu kẻ nào
khinh nhờn, bội ước thì xin trời đất soi xét, quỷ
thần tru diệt, lại còn thêm tội bất hiếu nữa vậy.
Dân ta cùng nhau lập lời đoan ước, khắc vào bia đá,
lưu truyền cho đời, năm tháng càng xa càng bền,
càng lâu càng sáng.
Kinh Thi có câu rằng: “Không trái không quên, theo
10về nếp cũ” chính là thế đó!
Nay ngày lành, tháng 5, năm Tân Mùi, niên hiệu
Chính Hòa thứ 12 (1691) lập văn bia.
- Nguyễn Phụ Phác, đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất
thân, tước Hoằng Tín đại phu, chức Phủ doãn phủ
Phụng Thiên, người xã Hoàng Bảo, huyện Tiên Du, phủ
Từ Sơn soạn văn bia.
- Lưu Chí Trung, khảo ưu trúng thí khoa Quý Mùi,
Thị nội thống tri, Dụ Tường nam, người cùng huyện
Thuận Đồng viết chữ.
- Lê Đoan Cảnh, Lê Đoan Minh tước Ninh Văn nam,
Nguyễn Duy Nhân, tước Tào Giang bá, và Lê Đoan Phú,
người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên
cùng khắc bia.
(Lược qua đoạn liệt kê về ruộng đất để tế lễ)
11- Phó hương chức Vũ úy Nguyễn Văn Thông ký.
- Hương hào Trương tộc ký.
- Phó chánh đội trưởng, Thiêm An hầu Trương Nhưng
ký.- Ty phó Ty giáo phường, quan viên Diên Nghĩa
bá Trương Dự ký.
- Các Hương lão là Nguyễn Tất Tích, Nguyễn Văn
Tài, Nguyễn Văn Lộng, Nguyễn Công Lâm, Phạm Thế
Dần, Nguyễn Tất Hưng, Trương Dụ, Nguyễn Văn Tấn,
Phạm Thế Nguyên, Trần Bình, Nguyễn Nhân Tùng,
Nguyễn Nhân Lân cùng ký.
- Hương trưởng Nguyễn Nhân Hiền, Phạm Nhân Khoái,
Trần Vật, Trương Cá, Trương Căn Lõ, Nguyễn Nhân Tộ,
Phạm Nhân Chuyên, Trương Đông Chi, Phạm Nhân Thọ,
Trương Đắc Năng, Trương Đắc Khả, Phạm Văn Biếm,
Nguyễn Văn Thọ, Trương Ất, Nguyễn Nhân Tính, Nguyễn
12Nhân Nhất, Nguyễn Tất Kiêm, Nguyễn Tất Phái cùng
ký.”
III. TÀI LIỆU LIÊN QUAN
1. Kiến Hậu thần bi ký (Bài bia ký lập Hậu thần)
dựng năm Tân Mùi, niên hiệu Chính Hòa thứ 12
(1691), hiện lưu giữ tại đình thôn Lê Xá, thị trấn
Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
2. Thế phả quý thích họ Trương ở Như Quỳnh - Kinh
Bắc, Trương Hoán biên soạn khoảng 1766-1776, Lê
Quý Kiệt viết lời bạt, lưu tại Thư viện Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, ký hiệu A.959.
IV. GHI CHÚ
(*) Như Kinh: Tên Nôm là làng Ghênh, thời Hậu Lê
thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc.
Từ khi bà Trương Thị Ngọc Chử trở thành Cung phi,
13rồi Thái phi, Thái tôn Thái phi (1685), đất này trở
thành quê ngoại của các chúa Trịnh. Nhiều công
trình kiến trúc được tạo dựng nguy nga tráng lệ (Từ
Vũ họ Trương, phủ Chí Nguyên,...). Vì thế, từ thời
Hy Tổ Nhân Vương Trịnh Cương, làng này được gọi là
làng Như Kinh (đẹp như Kinh đô). Đến 1834, triều
Minh Mệnh, vì kị húy, nên đổi là làng Như Quỳnh
(thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ngày nay,
đất này thuộc thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm,
tỉnh Hưng Yên.
14