Bia Vĩnh Văng là một phần quan trọng của lăng mộ Lê Thái Tổ, nằm ở phía tây nam, cách khu lăng mộ khoảng 300m, liền kề với hồ Tây - là "não" của điện miếu Lam Kinh
Bia
Vĩnh Văng là một phần quan trọng của lăng mộ Lê Thái Tổ, nằm ở phía tây
nam, cách khu lăng mộ khoảng 300m, liền kề với hồ Tây - là "não" của
điện miếu Lam Kinh.
|
Bản dập trán bia Vĩnh Lăng |
Bia
được đặt trên một gò đất cao thoai thoải hướng về phía nam, cao 2,79m,
rộng 1,94m, dày 0,27m, do Vinh Lộc Đại phu nhập nội hành khiển, tam tri
quán sự Nguyễn Trãi soạn. Nội dung bia ngắn gọn, xúc tích, nêu khái
quát đầy đủ thân thế sự nghiệp và công lao của Đức Thái Tổ cao Hoàng
đế, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tới sự khoan dung, với quân thù khi đã
chiến bại.
Bia
hình chữ nhật, trán cong hình bán nguyệt, chính giữa có biểu tượng
trời/đất (hình vuông, trong tròn), ở chính giữa khắc nổi hình rồng
cuộn, uốn khúc quanh mặt trời với ý nghĩa thiên tử (con trời) là do sự
giao hoà của trời đất tạo nên là pho sử liệu sống động, là tác phẩm
nghệ thuật có giá trị lịch sử/văn hoá to lớn trong kho tàng di sản văn
hoá Việt Nam. Hai bên là hình rồng chầu với thân dài uốn khúc cùng văn
mây nước. Diềm bia được trang trí (từ trên xuống), 9 hình rồng trang
trí tinh xảo bố cục trong 1/2 lá đề, đan xen hoa cúc dây mang phong
cách nghệ thuật thời Lý - Trần. Bia Vĩnh Lăng là pho sử liệu sống động,
là tác phẩm nghệ thuật có giá trị lịch sử, văn hoá to lớn trong kho
tàng di sản văn hoá Việt Nam.
Văn bia Vĩnh lăng
(theo Nguyễn Trãi toàn tập. Nxb. KHXH 1969, tr. 83 - 84)
Thuận
Thiên năm thứ 6, tức Quý sửu, tháng 8 nhuận, ngày 22 Thái Tổ Cao Hoàng
đế chầu trời. Cùng năm ấy, tháng 10, ngày 23 táng ở Vĩnh Lăng tại Lam
Sơn.
Vua
họ Lê, huý là Lợi, tằng tổ của vua huý là Hối, người phủ Thanh Hoá, một
ngày kia đi qua Lam Sơn thấy có đàn chim bay lượn quanh ở dưới núi Lam
như vẻ đông người tụ họp, cho rằng chỗ này là đất tốt liền dời nhà đến
đấy, được ba năm thành sản nghiệp, con cháu ngày một đông, tôi tớ ngày
một nhiều, việc dựng nước, mở đất gây nền từ đấy. Từ bấy giờ làm chủ
một miền.
Tổ
của vua huý là Đinh, nối dõi nghiệp nhà, theo trí người trước, bộ hạ có
đến hàng nghìn người. Tổ mẫu của vua họ Nguyễn rất có đức hạnh sinh
được hai con trai, trưởng là Tùng, con thứ là Khoáng, tức thân phụ của
vua. Người vui vẻ, dễ dãi hiền lành, thích làm việc thiện, mến đãi khách đối với người láng giềng coi như người một nhà cho nên người ta chẳng ai là không cảm ơn mà phục nghĩa.
|
Diềm bia Vĩnh Lăng |
Thân
mẫu của vua họ Trịnh huý là Thương chăm sóc đạo đàn bà, cửa nhà hoà
vui, gia đạo thêm thịnh sinh được ba con trai, trưởng là Học, thứ là
Trừ, út là vua.
Người
con trai trưởng được cha truyền nghiệp không may chết non. Vua vâng
thừa nghiệp của cha ông một lòng kính cẩn, tuy thời gặp loạn lớn mà trí
càng thêm bền, giấu mình ở Lam Sơn làm nghề cày cấy vì giận giặc tàn
bạo càng chuyên tâm vào sách lược thao, dốc hết của nhà khoản đãi tân
khách.
Năm
Mậu Tuất dấy nghĩa hưng binh, đóng trên sông Lạc Thuỷ, trước sau hơn 20
trận đều đặt mai phục, dùng kỳ binh tránh mũi nhọn, thừa chỗ hở, lấy ít
địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.
Năm Bính Ngọ đánh ở Ninh Động đại thắng, liền tiến vây Đông Đô.
Năm
Đinh Mùi giặc gửi viện binh An Viễn hầu Liễu Thăng đem 10 vạn quân do
Quảng Tây tiến. Kiềm quốc công Mộc Thạnh đem 5 vạn quân do Vân Nam
tiến, một trận Chi Lăng Liễu Thăng nộp đầu, chém quân giặc hơn mấy vạn
tên. Bắt sống bọn Hoàng Thúc, Thôi Tụ hơn 300 người và hơn vạn binh sĩ,
sắc mệnh và binh phù bắt được của Liễu Thăng gửi đám quân Vân Nam Mộc
Thạnh trông thấy nhân đêm chạy trốn giặc bị chém đầu và bị bắt sống
không biết bao nhiêu mà kể.
|
Rồng ổ trán bia Vĩnh Lăng |
Bấy
giờ trấn thủ thành Đông Quan là bọn Thành Sơn hầu Vương Thông đã cùng
quân ta giảng hoà mà chưa xong, đến đây xin thề trên sông Nhị những
thành trì trấn thủ các xứ đều mở cửa ra hàng. Những giặc bị bắt và
những quân đầu hàng có đến 10 vạn người đều tha cho về cả, đường thuỷ
thì cấp cho 500 thuyền, đường bộ thì cấp cho lương ăn và ngựa. Răn cấm
quân sĩ (của ta) không được xâm phạm mảy may (đến quân giặc). Hai nước
từ đây giao hảo, Bắc Nam vô sự. Mường Lễ và Ai Lao dẫn vào bản đồ, Chiêm Thành và Chân Lạp vượt biển đến cống.
Vua thức khuya dậy sớm 6 năm mà nước thịnh trị, đến nay băng.
Thuận Thiên năm thứ 6, Quí Sửu, tháng 10, ngày tốt.
Vinh Lộc Đại phu Nhập nội hành khiển tri tam quán sự, thần Nguyễn Trãi vâng soạn.
Nguyễn Văn Đoàn