Nhà mồ PETRUS Trương Vĩnh Kư

                                    Tác giả QUỐC VIỆT

 

 TT - Có một nhà mồ nằm ngay mặt tiền đường Trần Hưng Đạo, TP.HCM mà không phải ai cũng biết có một thân phận đặc biệt đang yên nghỉ.

Trên cửa nhà mồ, ḍng chữ Latin Miseremini mei saltem vos amici mei (Xin hăy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi) như nói lên nỗi ḷng thiên cổ của một người Việt đă được vinh danh là một trong 18 nhà thông thái của thế kỷ 19: Trương Vĩnh Kư.

Mộ Trương Vĩnh Kư ở giữa và vợ con hai bên là ba phiến đá lát phẳng với nền nhà mồ

- Ảnh: Q.V.

 
 

 

Lặng lẽ bên đường

Lách cách mở ổ khóa đă hoen gỉ ở cửa nhà mồ, ông Trương Minh Đạt, hậu duệ đời thứ tư của Trương Vĩnh Kư, ngậm ngùi: “Lâu lắm rồi mới có khách đến viếng!”.

 Chúng tôi nhẹ bước qua những chiếc lá vàng khô bị gió cuốn bay vào nhà mồ, mà ngẩn ngơ nh́n thực tế khác nhiều với điều ḿnh h́nh dung. Nền bằng phẳng, không một g̣ đất, công tŕnh nào nhô lên như những nấm mộ thường hay nh́n thấy. Dưới ánh chiều đang sậm dần, phải nh́n kỹ mới thấy ba phiến đá khác màu có chiều rộng khoảng 1m, dài gần 2m được lát bằng phẳng mà mới nh́n cứ tưởng là nền nhà mồ. Ông Đạt bùi ngùi: “Các ông nhà tôi yên nghỉ dưới đấy!”.

Dưới phiến đá trắng đă ngả màu vàng nhạt, nơi Trương Vĩnh Kư yên nghỉ, ở giữa người vợ Vương Thị Thọcon trai cả Trương Vĩnh Thế. Sinh thời Trương Vĩnh Kư đă nổi danh. Và hơn một thế kỷ trôi qua bao ng̣i bút ngược xuôi vẫn c̣n rỏ mực về ông, nhưng bia mộ lại chỉ vài ḍng ngắn ngủi. Nó được khắc ngay trên phiến đá làm nắp mộ với vài ḍng danh phận người yên nghỉ: J.B. Petrus Trương Vĩnh Kư. Chữ Pháp đầu ḍng không phải tên Tây của ông mà là tên đạo ông theo từ thuở ấu thơ ở quê hương Cái Mơn, Bến Tre. Bia mộ không ghi năm ông sinh (6-12-1837), nhưng khắc rơ ông mất ngày 1-9-1898. Trang trí mộ bia cũng giản dị với h́nh một cành lá, không hoa bao quanh.

Mất sau chồng đến chín năm, nhưng bia mộ bà Vương Thị Thọ lại bị thời gian làm phai ṃn nhiều hơn. Bà yên nghỉ dưới phiến đá màu nâu đỏ đă ngả màu sậm có nhiều vết nứt, vỡ cùng năm tháng.

 Lau lớp bụi thời gian, ông Đạt ngậm ngùi kể ḿnh 58 tuổi. Từ nhỏ, ông đă được cha là Trương Vĩnh Thạnh dặn ḍ phải ǵn giữ nhà mồ các cố để hậu sinh truyền đời tưởng nhớ, nhưng không thể ngăn được sự tàn phá của thời gian và bao biến động thời cuộc.

Giữ đúng đạo “xuất giá ṭng phu” xưa, ḍng đầu trên bia mộ cụ bà mang tên chồng là Maria Trương Vĩnh Kư. Ḍng nhỏ dưới mới khắc tên ḿnh là Vương Thị Thọ mất năm 1907 và không trang trí một hoa văn nào ngoài h́nh cây thánh giá. Nằm bên trái cha, t́nh trạng bia mộ người con Trương Vĩnh Thế cũng bị nhiều vết hư hại của thời gian. Trong gia phả ḍng họ, Trương Vĩnh Thế là anh cả ông nội Trương Vĩnh Tống của ông Trương Minh Đạt, hiện đang sống ở đây để ǵn giữ nhà mồ. Sinh thời, ông Thế làm quan đốc phủ sứ mà ḍng chữ khắc trên bia vẫn c̣n rơ nét.

Ông Đạt trầm ngâm: “Hồi xưa, khu nhà mồ này c̣n nhiều di vật ông cố Trương Vĩnh Kư để lại với các sách vở, h́nh ảnh được giữ ǵn cẩn thận. Về sau, một số được tặng cho Viện Khảo cổ Sài G̣n, nhiều cái c̣n lại đem qua Pháp trong năm 1975”. Thuở trước, nhà mồ c̣n có bức tượng bán thân cụ cố Trương Vĩnh Kư. Tượng được đắp bằng ximăng, sơn đen. Những năm khó khăn sau năm 1975, kẻ xấu đă lẻn vào lấy trộm v́ tưởng là “đồng đen” quư hiếm. Thời ấy, phải vật vă kiếm miếng ăn, anh em ông Đạt đă bỏ nhiều ngày lang thang các khu “chợ trời” vỉa hè để t́m chuộc lại nhưng cuối cùng đành gạt nước mắt về không. Họ nghĩ có lẽ kẻ gian phát hiện tượng ximăng, không phải kim loại quư, đă đập mất rồi!

Hiện nay, toàn bộ khuôn viên nhà mồ c̣n rộng hơn 2.000m2. Ngoài nhà mồ Trương Vĩnh Kư, băi đất c̣n khoảng 60 ngôi mộ khác của gia tộc và một nhà ngói cổ được xây từ năm 1937 đến giờ vẫn đang là nơi ở của gia đ́nh ông Đạt. Mang nét kiến trúc Pháp với nhiều cửa, cột, ṿm cong, nhà mồ Trương Vĩnh Kư rộng khoảng 50m2, trang nhă với các chi tiết nhẹ nhàng nhưng tinh tế

Chân dung Trương Vĩnh Kư - Ảnh tư liệu

 
 

 

Thiên tài và định mệnh

Theo chân ông Đạt, tôi trở ra đường Trần Hưng Đạo. Cảm giác bùi ngùi khi chẳng thể t́m được tấm bảng nào chỉ dẫn đây là nơi Trương Vĩnh Kư - người Việt đă được vinh danh một trong 18 nhà thông thái thế giới, sử dụng thành thạo 26 ngôn ngữ - yên nghỉ. Bên góc cổng, người anh Trương Minh Tấn của ông Đạt đang cặm cụi với quán cà phê kiếm sống qua ngày. Gương mặt ông Tấn hằn nét khắc khổ, già hơn tuổi 68. Nhắc chuyện xưa, ông Tấn tràn ngập kư ức: “Hồi tôi c̣n nhỏ, đường này thưa thớt lắm, bên đây nh́n thấy con kênh đào ven đại lộ Vơ Văn Kiệt bây giờ. Thuở đó, kênh vẫn c̣n trong xanh và là nơi ông cố Trương Vĩnh Kư dựng nhà mát bên sông để đọc sách, dạy học tṛ”.

Khi anh em ông Tấn, ông Đạt chào đời, Trương Vĩnh Kư đă mất cả nửa thế kỷ. Kư ức hai anh em được ông nội Trương Vĩnh Tống (con trai thứ Trương Vĩnh Kư) truyền kể rằng nhà mồ nằm bên đại lộ Gallieni nay là đường Trần Hưng Đạo. Vùng đất ngày xưa c̣n gọi Chợ Quán này là quê vợ Trương Vĩnh Kư. C̣n nơi chôn nhau cắt rốn của ông ở Cái Mơn, Bến Tre. Là con trai lănh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu, Trương Vĩnh Kư sớm mồ côi khi cha đi công vụ ở Cao Miên.

Trong gia đ́nh có đạo, tuổi thơ Trương Vĩnh Kư sớm thăng trầm khi triều Nguyễn ra lệnh “sát tả” ngăn chặn Thiên Chúa giáo. Ban đầu, Trương Vĩnh Kư học chữ Nho với thầy đồ, và ông chỉ lộ rơ thiên tài khi được các linh mục Pháp dạy học. Đặc biệt là ở chủng viện Penang (Malaysia), ông đă làm cả thầy lẫn bạn học khâm phục sự đam mê đọc sách cùng trí nhớ siêu việt và khả năng học nhanh chóng cùng lúc nhiều ngoại ngữ khó như Latin, Hi Lạp, Pháp, Ư, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,Thái Lan. Nhờ vậy mà nghiệp bút của Trương Vĩnh Kư đă đạt kỷ lục khoảng 120 cuốn sách gồm đủ các lĩnh vực, đặc biệt là các sách đạo làm người, từ điển Pháp - Việt...

Và rồi định mệnh như an bài với Trương Vĩnh Kư. Chính thiên tài ngoại ngữ, tri thức sâu rộng nhờ đọc sách, đi xa đă cuốn ông vào ṿng xoáy lịch sử chênh vênh, phức tạp trong thời cuộc nước nhà bị Pháp tiến chiếm. Trở thành thông ngôn cho Pháp, rồi cho cả sứ bộ triều đ́nh, phải kề cận kẻ đô hộ lẫn gần gũi chính nhà vua nước ḿnh, Trương Vĩnh Kư đă bị người đời nh́n nhận ngược xuôi công tội.

Để rồi trước khi nhắm mắt xuôi tay, chính ông phải cảm thán viết bài thơ đầy nỗi niềm: Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai

Xô đẩy người vô giữa cuộc đời

Học thức gửi tên con sách nát

Công danh rốt cuộc cái quan tài

Dạo ḥn lũ kiến men chân bước

Ḅ xối, con sùng chắc lưỡi hoài

Cuốn sổ b́nh sanh công với tội

T́m nơi thẩm phán để thừa khai.

QUỐC VIỆT