Thơ‎ > ‎

Bích câu kỳ ngộ



Truyện thơ Nôm: Bích câu kỳ ngộ

Tác giả: (Khuyết danh)


1.- Mở đầu (câu 1- câu 8) 

Mấy trăm năm một chữ tình,
Dưới trời ai kẻ lọt vành hoá-nhi
Cơ duyên ngẫm lại mà suy,
Trời Nam nào có xa gì cõi Tây.
Tương duyên kỳ ngộ xưa nay,
Trước kia Lưu, Nguyễn; sau này Bùi-Trương.
Kìa ai mê giấc đài Dương,
Mây mưa là chuyện hoang-đường biết đâu?

2.- Cảnh Bích-câu (câu 9 - câu 16)

Thành Tây có cảnh Bích-câu,
Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao!
Đua chen thu cúc, xuân đào,
Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông,
Xanh xanh dãy liễu, ngàn thông,
Cỏ lan lối mục, rêu phong dấu tiều.
Một vùng non nước quỳnh-giao,
Phất-phơ gió trúc, dặt-dìu mưa hoa.

3.- Trần công-tử Tú-Uyên (câu 17 - câu 34)

Triều Lê đương hội thái hòa,
Có Trần công-tử tên là Tú Uyên.
Phúc lành nhờ ấm xuân-huyên,
So trong tài mạo kiêm tuyền kém ai.
Thông minh sẵn có tư trời,
Còn khi đồng ấu mải vui cửa Trình.
Trải xem phong cảnh hữu tình,
Lâm-toàn pha lẫn thị thành mà ưa.
Liền khu trùm một lầu thơ,
Lau già chắn vách, trúc thưa giủ rèm.
Thừa hư đàn suối ca chim,
Nửa song đèn sách, bốn thềm gió trăng.
Của chung huy-hoắc đâu bằng.
Chứa kho vàng cúc, chất từng tiền sen.
Khắp so trong cõi ba nghìn,
Yên-hà riêng nửa, lâm-tuyền chia đôi.
Thú vui bốn bạn thêm vui,
Khắp trong bể thánh, đủ ngoài rừng tao.

4.- Nỗi buồn của Tú-Uyên sau khi cha mẹ mất (câu 35 - câu 50)

Thoi đưa ngày tháng sương sao,
Ngô vừa rụng lá lại đào nẩy hoa.
Trời hôm giục bóng dâu tà,
Xuân già e tuyết, huyên già ngại sương.
Não người thay! nỗi tang thương,
Trông vùng mây trắng ngất đường non xanh.
Vai còn đôi gánh thâm tình,
Bầu Nhan đã sạch-sành-sanh còn gì!
Mấy phen hạ tới thu về,
Lọt mành nắng rõ, quanh hè tuyết xây.
Chiều trời lạnh ngắt hơi may,
Mai tàn trước gió, liễu gầy sau sương!
Lơ-thơ nửa mái thảo-đường,
Phên thềm lọt gió, vôi tường thấm mưa!
Phong-quang lạ khác dấu xưa,
Ao tù sen rũ, rào thưa, cúc cằn.

                                                             9.- Nỗi nghi hoặc của Tú-Uyên sau khi mỵ-nhân biến đi (câu 143- câu 160)

Người còn cợt gió, đợi mây,
Gót tiên khách đã trở giầy làm thinh.
Ngóng theo đến Quảng-văn đình,
Bóng trăng trông đã trên cành lướt qua.
Mượn người thăm hỏi gần xa,
Hồng lâu tử các đâu mà đến đây?
Hay là quán nước, làn mây,
Gió xuân thổi xuống chốn này đấy sao?
Dám xin trỏ lối cho nao,
Tới non Ngọc dễ ai nào về a!
Nản lòng nhắm liễu thăm hoa,
Biết đâu sắc sắc vẫn là không không.
Thoắt thôi lẩn bóng ngàn thông,
Hương trầm còn thoảng cánh hồng đã khơi.
Xe loan gió cuốn lưng trời,
Tiên về động bích, tình rơi cõi trần.
Ngửa trông năm thức mây vần,
Hồn chưa đến chốn non thần đã mê.

10.- Tú-Uyên trở về mang bệnh tương tư (câu 161 - câu 190)

Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hoè chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là?
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương-tư ấy nghĩ mà buồn tênh!
Có khi gẩy khúc đàn tranh,
Nước non ngao-ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay tựa nên vần,
Tương-Như lòng ấy, Văn-Quân lòng nào.
Có khi mượn chén rượu đào,
Tiệc mồi chưa cạn, ngọc dao đã đầy.
Hơi men chưa nhấp đã say,
Như xông mùi nhớ, như gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kềnh nện sương.
Oỏi tai những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ nguội, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăng tàn,
Tiếng quyên hót sóm, trận nhàn bay khuya.
Ngổn ngang cãnh nọ tình kia,
Nỗi riêng, riêng biết, dãi dề với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư.
lòng yêu tay tả nên thơ,
Mảnh tình phong với mảnh tờ đưa theo.
Ả Hằng ví nặng lòng yêu,
Rẽ mây mở lối tinh-thiều cho nao !
Hỏi cho giáp mặt hoa đào,
Vườn xuân chẳng lẽ ngăn rào mãi ru !

11.- Hà-Sinh đến thăm bạn, Tú-Uyên kể sự tình (câu 191 - câu 218)

Đồng song có gã họ Hà,
Ướm tình mới hỏi lân-la gót đầu.
Cớ sao chuốc não mua sầu,
Bữa thường ngao-ngán như màu nhớ ai?
Bấy nay vắng vẻ thư-trai,
Vóc sương nghe đã kém vài bốn phân.
Nguồn cơn ngỏ với cố nhân,
Hoạ may sẽ giúp được phần nào chăng?
Điều đâu thực khéo như rằng,
Nói vào hợp ý, khôn bưng lòng người.
Song mà tình chẳng riêng ai,
Bệnh tương tư có trải mùi mới hay.
Người ngu đấng thánh xưa nay,
Tình chung chẳng ở vòng này hay sao?
Nói dù nghe cũng thế nào,
Lặng dù, nghe cũng nao-nao chẳng đành.
Bệnh căn khôn lẽ dấu quanh,
Cầm tay mới kể đinh ninh mọi điều.
Nói bao nhiêu, tưởng bấy nhiêu,
Ghê cho sắc ngọc dễ xiêu lòng vàng.
Những là tiếc phấn say hương,
Nên vò lưới nhện mà vương tơ tằm.
Sầu dường bể, khắc như năm,
Xương mai chịu được mấy lăm mà gầy!
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Gánh sầu san-sẻ ai đầy ai vơi?
Lạ cho cái giống hương trời,
Biết năm biết thuở, biết đời nào quên.

12.- Hà-Sinh nhắc lại chuyện Thánh-Tông gặp tiên (câu 219 - câu 244)

Hà nghe nói hết căn nguyên,
Nghĩ xem chuyện ấy quả nhiên rằng kỳ.
Chẳng thần nữ, cũng tiên-phi,
Duyên xưa còn có chút gì hay không.
Lá hồng ra mối chỉ hồng,
Nước bèo kia cũng tương phùng có phen.
Ngọc-Liên nghe có Hoa-tiên,
Thánh-Tông thủa trước qua miền ấy chơi.
Lầu chuông bỗng gặp môt người,
Ngâm câu thần kệ, vịnh bài quốc âm.
Ngự khen tú khẩu cẩm tâm,
Mến riêng vì sắc, yêu thầm vì thơ.
Rước về rắp gạn tóc tơ,
Gót tiên bỗng thoắt bao giờ còn đâu?
Mười lăm năm nọ chưa lâu,
Còn di tích đó là lầu vọng tiên.
Lạ tai nghe những chẳng tin,
Thử coi cho thấy nhỡn tiền mà ghê.
Nhận ra trong lá thơ đề,
Bút tiên chi để điểm mê lòng phàm.
Những là én bắc nhạn nam,
Cánh hoa mặt nước dễ làm sao đây?
Tuy rằng cách trở đông tây,
Dẫu xa, xa cũng có ngày gần nơi.
Gác xuân cách mấy dặm khơi,
Nhân duyên đành để gió trời thổi đưa.

                                                        13.- Hà-Sinh khuyên bạn không nên mơ tưởng hão (câu 245 - câu 272)

Hà rằng: "Hương lửa duyên ưa,
"Có khi tình trước còn chờ hội sau.
"Đành rằng ký ngộ nan cầu,
"Biết đâu non thẳm doành sâu mà tìm.
"Biết đâu nhắn cá gửi chim,
"Vớt trăng dưới nước, mò kim trong doành.
"Biết đâu ả Tố, nàng Quỳnh,
"Cớ chi nhớ quẩn sầu quanh khéo là.
"Chuốc mua lấy nợ phong hoa,
"Mối tơ phó mặc trăng già phải nao!
"Xuân sang xuân đã già nào,
"Chờ sau mai nở thì đào chẳng lâu."
Vắt tay ngẵm nghĩ xưa sau,
Như ai cất hẳn gánh sầu thoảng không.
Nói cười tươi tắn thong dong,
Đổi lòng phong nguyệt ra lòng vân-thiên.
Thôi mong khách, lại chờ tin,
Thư hồng ngày mỏi, chăn uyên đêm dài.
Bâng khuâng một mối viễn hoài,
Khi trong sân tuyết, khi ngoài trời tây.
Ngày thường ngắm cảnh am mây,
Người buồn xui cả cỏ cây cũng buồn.
Còn trời, còn nước, còn non,
Mây xanh nước biếc vẫn còn như xưa.
Hoa đào còn đó trơ trơ,
Mà người năm ngoái bây giờ là đâu?
Vù vù gió thổi rèm lau,
Càng như chất mối tơ sầu vào thêm.

14.- Tú-Uyên xem bói thẻ và nằm mộng (câu 273 - câu 290)

Chạnh đâu nhớ chuyện bốc tiêm,
Tới đền Bạch-mã, giải niềm cầu duyên.
Khấn rồi ra góc tây hiên,
Nén hương tắt đỏ, ngọn đèn nhỏ to.
Bóng trăng vừa xế cành ngô,
Giấc hoè dìu-dịu, chăn cù êm êm.
Thấy người cao mũ rộng xiêm,
Tay cầm thiết bảng, trang nghiêm khác vời.
Trước sân sang sảng dạy lời,
Rằng: "Mai sớm đợi ta ngoài sông Tô;
"Lọ là oanh yến hẹn-hò,
"Cầu Đông sẵn lối, cầu ? đó mà!"
Vội mừng chợt tỉnh giấc hoa,
Sao vừa nhàn-nhạt, trời vừa eo eo.
Lòng yêu phải bước chân theo,
Xăm xăm ra đó vắng teo thấy gì.
Nước trong vắt, cỏ xanh rì,
Thạch-kiều thấy đó giai kỳ nào đâu?

15.- Gặp người bán tranh, Tú-Uyên mua về treo (câu 291 - câu 304)

Trông mong đã suốt giờ lâu,
?m cây mãi thế, ra màu cũng quê.
Chán chiều thơ thẩn ra về,
Xem tình dở tỉnh dở mê nực cười.
Bỗng may lại gặp một người,
Tay mang tranh vẽ, gót dời đường hoa.
Liền tay xin lĩnh xem qua,
Truyền-thần một tượng Tố-nga rành rành.
Dịu dàng vẻ đạm màu thanh,
Như người gặp Quảng-văn đình ngày xưa.
Càng nhìn nét bút càng ưa,
Chàng Vương dẫu mạc bao giò cho nên.
Mua về treo chốn thư-hiên,
Như ai đem ngọc giải phiền lại cho.

16.- Tú-Uyên với bức tranh Tố-nữ (câu 305 - câu 327)

Mưa hoa khép cánh song hồ,
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi.
Mâm chung một, đũa thêm hai,
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa.
Tưởng gần thôi lại nghĩ xa,
Có khi hình ảnh cũng là phát phu.
?m trời vừa tiết trăng thu,
Ngàn sương rắt bạc, lá khô rụng vàng.
Chiều thu như gợi tấm thương,
Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình.
Kề bên năn nỉ bày tình,
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa.
Từ phen giáp mặt đến giờ,
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn.
?ấy ai điểm phấn tô son,
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?
Buồn đào nửa bước chẳng rời,
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng,
Vén mây mở mặt chi Hằng, chút nao!
Chợt trông mấp máy miệng đào,
Mặt hoa hớn-hở dường chào chúa Đông.

                                                                    17.- Tố-nữ trong tranh hiện thành người thực (câu 327 - câu 340)

Cho hay tình cũng là chung,
Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!
Một khi ra việc tràng văn,
Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng.
So xem phong vị khác thường,
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt-ngào.
Bếp trời sẵn đấy hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi?
Rạng mai cứ buổi ra đi,
Liệu chừng thoắt trở lại nhà thử coi.
Sẩy đâu thấy sự lạ đời:
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhơn nhơn mày liễu mặt hoa,
Này người khi trước, đâu mà đến đây?

18.- Tú-Uyên cùng Giáng-Kiều trò chuyện (câu 341 - câu 374)

Nàng đương trang điểm nào hay,
Cửa ngoài sẽ hé cánh mây bước vào.
Vội-vàng đánh tiếng ra chào,
Bên mừng, bên lệ, xiết bao là tình!
Rằng:"Bấy lâu một chữ tình,
"Gặp đây xin tỏ tính danh cho tường".
Nàng rằng: "Bồ liễu phận thường,
"Vì mang má phấn, nen vương tơ điều.
"Vốn xưa thiếp khách thanh-tiêu,
"Tiên-thù là hiệu, Giáng-Kiều là tên.
"Ba sinh đã nặng vì duyên,
"Đem thân liễu yếu, kết nguyền đào thơ.
"Nhân duyên đã định ngày xưa,
"Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân.
"Cũng là nhờ đức tiên-quân,
"Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày."
Sinh rằng: "Trong bấy lâu nay,
"Nhắp sầu, gối muộn, có ngày nào ngơi!
"Đã rằng: Tác hợp duyên trời,
"Lám chi cho vẩn lòng người lắm nau?"
Nàng rằng: "Xin quyết gieo cầu,
"Tấm son thề với trên đầu xanh xanh.
"Dám đâu học thói yến oanh,
"Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương.
"Gieo thoi trước đã dở dang.
"Sau nên nát đá phai vàng như chơi.
"Mái Tây còn để tiếng đời,
"Treo gương kim cổ cho người soi chung.
"Lạ chi hoa với gió đông,
"Tiếc hương, vả cũng nể lòng chim xanh.
"Một mai mưa gió bất tình,
Vóc tàn, nên để yến oanh "hững hờ.
"Nghĩ trong thân-phận yếu thơ,
"Làm chi để tiếng sờ-sờ lại sau?"

19.- Giáng-Kiều dùng phép tiên biến hoá (câu 375 - câu 400)

Nói thôi rút chiếc trâm đầu,
Biến hình liền thấy đôi hầu theo ra.
Tưng bừng sắm sửa tiệc hoa,
Bình trầm đưa khói, chén hà đậm hương.
Giọng tình sánh với quỳnh-tương,
Giả say sinh mớ toan đường lần khân.
Thưa rằng: "Túc trái tiền nhân,
"Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi.
"Song còn mấy bạn tương tri,
"Bấy lâu chưa có chút gì là đâu.
"Trước xin từ biệt cùng nhau,
"Chữ duyên này trở về sau còn dài."
Nghe lời nói cũng êm tai,
Chìu lòng chi nỡ ép nài mưa mây.
Trước sân mừng cuộc tỉnh say,
Tiếng vui đãi nguyệt, tiệc bày đối hoa.
Bóng mâ bỗng kéo quanh nhà,
Thảo am thoát đã đổi ra lâu đài.
Tường-quang sáng một góc trờ,
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh-tao,
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai.
Lả-lơi bên nói bên cười,
Bên mừng cố hữu, bên mời tân-lang.
Đong đưa khoe thắm đua vàng,
Vũ-y thấp-thoáng, Nghê-thường thiết tha.

20.- Tú-Uyên cùng Giáng-Kiều kết duyên (câu 401 - câu 428)

Yến tân chuốc chén năm ba,
Người còn vui tiệc, khách đà cáo say.
Kẻ ra nương bánh xe mây,
Người vào trong gấm vui-vầy bạn loan.
Lả-lơi cười với hoa-nhan,
Trải chăn thúy-vũ, buông màn phù-dung.
Phòng tiên dìu-dặt chén đồng,
Rèm tương giủ thấp, trướng hồng treo cao.
Ngẩn-ngơ hé cửa động đào,
Mây tuông bể ái, mưa rào sông ân.
Mấy vàng đổi được khắc xuân.
Xưa nay tài-tử, giai-nhân lạ gì?
Cho hay thiên tải giai kỳ,
Trăng già xe đã phải thì đào non.
Cũng là môt mốt tơ son,
Năm-trăm năm cũng vuông tròn từ đây.
Đàn cầm từ thủa bén dây,
Khi đằm thắm đã, bỏ ngày nhớ nhung!
Khi gió mát, lúc trăng trong,
Bầu tiên chuốc rượu, tơ đồng nối dây.
Khi tuyết xuống, lúc hương bay,
Câu thơ trên gác, bàn vây bên bình.
Tài hoa-quốc, sắc khuynh thành,
Cầm, kỳ, thi, tửu, đủ vành trần duyên.
Ngươi tao-nhã, khách thuyền-quyên,
Phong, hoa, tuyết, nguyệt, là tiên trên đời.
Nhà lan sum-họp ban mai,
Đã trong tần-tảo, lại ngoài ty-ca.

                                                                25.- Tú-Uyên toan tự-ải, Giáng-Kiều bỗng hiện về (câu 437 - câu 570)

Khách đà về chốn tây-trai,
Một mình một bóng đứng ngồi sao yên.
Quyết tìm khắp nước non tiên,
Đem duyên giai lão đính nguyền lai sinh.
Giải là giủ sẵn bên mình,
Cũng liều trắng nợ, trần tình thử xem!
Gió hương đâu bỗng lai rèm,
Bóng hoa đâu đã trước thềm lả-lơi.
Đương khi rằng một rằng hai,
Sịch hài nàng đã tớ nơi bao giờ!
Mặt trông mặt, hãy ngẩn ngơ,
Nào hay đã tỉnh còn ngờ rằng mê.
May sao may khéo đi về,
Chậm chân chút nữa còn gì là ai!
Mắt nhìn chung cả con ngươi,
Bên lòng mừng tủi, bên lời hợp tan,
Sinh rằng: "Từ vắng phương-nhan.
"Lòng theo trăng, bể, mây ngàn thiếu đâu.
"Quản bao bể rộng sông sâu,
"Đã toan quên cả cái cầu tư-sinh.
"Dám đâu riêng phụ với tình,
"Dưới vàng có đất, trên xanh có trời.
"Kể chi những sự đã rồi,
"Sắt son ghi tạc một lời từ đây."
Thưa rằng: "Cầm đã bén dây,
"Có tri âm đó, cuốn dây sao đành.
"Cũng công hương lửa ba sinh,
"Nguồn ân chưa cạn, sóng tình còn xao."
Đinh ninh gắn bó tất giao,
Trước sau nối gót trướng đào song song.
Vườn xuân hoa đã quen ong,
Từng xa-xôi lắm, lại nồng nàn thêm.
Mấy thu gối ấm chăn êm,
Cửa cài then nghĩa, phòng niêm khoá tình.

26.- Sau khi tái hợp, vợ chồng Tú-Uyên sinh Chân-Nhi (câu 571 - câu 576)

Trên đào vừa thấy tinh oanh,
Gốc giao sớm đã nối cành quế Yên.
Chân Nhi rơi chút dấu tiên,
Một mai dành để dõi truyền thi thư.
Sinh càng chăm-chút sớm trưa,
Cá mong rẽ sóng, rồng chờ tung mây.

27.- Giáng-Kiều khuyên chồng tòng tiên (câu 577 - câu 608)

Đường trời chưa mỏi cánh bay,
Thung-dung nàng lại giãi-bày một hai.
Rằng: "Coi cho thấu sụ đời,
"Giam danh khoá lợi, những người thế-gian.
"Trời thu mây hợp, lại tan,
"Ngày xuân hoa nở, hoa tàn mấy lăm.
"Gẫm trong tám, chín mươi năm,
"Bóng câu cửa sổ, dễ cầm mãi ru!
"Thịt xương gửi đám Diêm-phù,
"Sinh sinh hóa hóa trong lò hồng-quân.
"Đố ai vượt khỏi lòng trần,
"Sông mê chìm nổi, thế-nhân đã đầy.
"Anh hùng những mặt xưa nay,
"Trăm năm nát vớt cỏ cây cũng là.
"Dần dần tháng trọn ngày qua,
"Má hồng mấy chốc đã ra bạc đầu.
"Thôn hoang mấy nắm cổ khâu,
"ấy nền Đồng-tước, hay lầu Nhạc-dương.
"Chưa đầy một cuộc tang thương,
"Non đồng cũng lở, núi vàng cũng nghiêng.
"Sao bằng ngày tháng cung tiên,
"Vui chung tám cõi, xuân riêng bốn mùa.
"Dọc ngang bốn bể, năm hồ,
"Khắp trong ba cõi chín châu mặc dầu.
"Ra vào kim khuyết quỳnh-lâu,
"Treo tranh yên-thủy, giắt bầu kiền-khôn.
"Đi về tuyết điếm hoa thôn,
"Thông rền nhịp phách, suối tuôn ngón đàn.
"Một này trong thú thanh-nhàn,
"Mấy trăm mươn cảnh nhân-hoàn đọ sao!
"Khuyên chàng sớm nghĩ lấy nao,
"Gà lồng, hạc nội, bên nào là hơn?"

28.- Nghe Giáng-Kiều thuyết về tiên đao, Tú-Uyên tỉnh ngộ dần (câu 609 - câu 630)

Mảnh riêng sinh những bàng hoàng,
Tuy say cõi tĩnh, chưa tan lòng phàm.
Trót xưa túi sách con gươm,
Ví ta Sào, Hứa, ai làm Y, Chu?
Thưa rằng: "Đã tiếng trượng-phu,
"Sụ đời vinh nhục chi cho bận lòng.
"Ví ham nghìn tứ, muôn chung,
"Con chim bay mãi cũng trong khuôn trời.
"Làm chi cho bạn tiên cười,
"Ai vui viên hạc, ai vui yên-hà,
"Vẩn-vơ trong đám phồn hoa,
"Ba mươi sáu động, ai là chủ nhân?"
Sinh nghe tỉnh chuyện tiền-nhân,
Rửa dần bụi tục, tỏ dần lối mê.
Rằng: "Xưa Hoàng-Đế, An-Kỳ,
"Nào phương thoát hoá tu từ sao đây?"
Nàng rằng: "Thiên đạo nhiệm thay,
"Kiều, Tùng xưa cũng thế này chứ sao!
"Vả chàng dự bậc thanh-tao,
"Mà xem trong sổ Tiên-tào có tên.
"Học sao cho hết chân truyền,
"Tu sao cho hết tinh-huyền thì tu."

29.- Sau khi trao nhận tiên-phù, hai người cùng cỡi hạc lên tiên (câu 631 - câu 648)

Tay trao một đạo tiên-phù,
Môt phương hỏa-tảo, một lò kim-đan.
Đường tu sẵn cách khảo bàn,
Rượu sen thắm giọng, trà lan thơm lòng.
Dần theo gió liễu, trăng đồng,
Thân phàm như chấp cánh lông nhẹ nhàng.
Đương khi lốt trắng điểm vàng,
Tỉnh say Vương-mẫu, mơ-màng Lão-quân.
Mây đưa năm sắc tường vân,
Hạc đâu đôi chiếc, trước sân đón người.
Dang tay cỡi hạc cả cười,
Nhủ Chân-Nhi lại nối lời thề xưa:
"Còn kỳ dậy gió tuôn mưa,
"Mai sau gặp gỡ bấy giờ sẽ hay!"
Nói rồ thẳng rẽ đường mây,
Trông theo cánh hạc về tây tuyệt vời.
Bồng lai riêng một bầu trời,
Màn hoa, cầu đá, mấy nơi thiên thành.


Hết

    Tiểu thuyết: Bích Câu kỳ ngộ

                                                                                                                                                                                        Tác giả: (Khuyết Danh)


Vào đời Hồng Đức, có một người học trò nghèo, sớm mồ côi cha mẹ, trọ học ở phường Bích Câu, phía Nam thành Thăng Long. Chàng rất hay chữ, tuy chưa đỗ đạt gì nhưng người ta vẫn gọi là Tú Uyên.

Vào một ngày mùa xuân, chùa Ngọc Hồ mở hội Vô Già, thiện nam tín nữ ở kinh đô và bốn phương tụ họp lại rất đông. Tú Uyên cũng không bỏ lỡ cơ hội để tìm người trong mộng. Chàng vui chân đi quanh quẩn đến chiều và ngồi bên gốc đa gần chùa. Bỗng một chiếc lá đa bay đến trước mặt, chàng nhặt lên xem thì thấy mặt sau có đề một bài thơ.

Tú Uyên ngạc nhiên tưởng có người nào trên lầu ném xuống rồi nấp vào một chỗ. Nhưng ngước nhìn mọi nơi, mãi cũng không thấy gì cả. Đương lúc ngơ ngác, chàng bỗng thấy một đám người từ trong chùa đi ra, trong đó có một thiếu nữ xinh như mộng. Thấy nàng liếc mắt đưa tình, chàng tiến lại bắt chuyện. Hai người vừa đi vừa vui vẻ truyện trò, lòng Tú Uyên như mở hội hoa đăng.

Nhưng khi đến Quảng Văn thì người con gái bỗng biến mất. Tú Uyên ngơ ngẩn mãi một lúc rồi mới trở về nhà.

Từ đấy, Tú Uyên ngày đêm mơ tưởng đến bóng dáng người thiếu nữ ấy, không thiết gì đến việc ăn uống, học hành.

Nghe người ta bảo là đền Bạch Mã rất thiêng, chàng liền đến xin quẻ thẻ rồi ngủ đêm lại đền để cầu mộng. Đêm hôm ấy, vị thần giữ đền hiện ra trong giấc mơ của chàng nói rằng:

- Này anh chàng hào hoa kia, sáng mai hãy đến cầu Đông ta sẽ cho biết một tin rất tốt.

Tú Uyên vô cùng mừng rỡ, như vậy là chàng sẽ có cơ may gặp lại người trong mộng…

Hôm sau, chàng y hẹn đến cầu Đông, nhưng đợi mãi không thấy ai cả. Cuối cùng chàng mới gặp một ông già bán tranh, ông đưa tới mời chàng mua một bức tranh tố nữ. Chàng mở ra xem thì không ngờ hình dạng người tố nữ trong tranh trông chẳng khác gì người mà mình đã gặp hôm trước.

Quá mừng rỡ nên Tú Uyên mua ngay bức tranh mà không cần hỏi thăm xuất xứ từ đâu nữa.

Dù không gặp được người thật, nhưng người trong tranh cũng làm cho chàng hoan hỉ trong lòng.

Tú Uyên muốn lúc nào cũng được nhìn ngắm chân dung người đẹp, nên chàng treo bức tranh bên cạnh chỗ ngồi, để khi học, hay khi thưởng thức chén trà ngon, thậm chí khi ăn cơm chàng cũng đem ra hai cái bát, hai đôi đũa rồi mời người thiếu nữ trong tranh như mời thật.

Mỗi lần say đắm ngắm nhìn người tố nữ trong tranh như thế, Tú Uyên hơi ngạc nhiên khi thấy tố nữ cũng say đắm nhìn lại, cũng như những lúc chàng nói những lời hoa bướm với người đẹp thì thấy hai má tố nữ trong tranh đỏ bừng như có ý thẹn.

Một hôm, khi Tú Uyên đi học về thì thấy giữa bàn đã dọn sẵn sàng một mâm cơm có thức ăn ngon, khác với cơm rau thường ngày. Tuy chưa hiểu là của ai cho, nhưng đói bụng, chàng cũng ngồi vào ăn một cách ngon lành.

Chàng không ngờ thiếu nữ trong tranh cũng nhìn chàng một cách trìu mến và mãn nguyện.

Tiếp mấy ngày hôm sau, chàng luôn được chăm sóc bằng cách đó, cơm canh lúc nào cũng được dọn sẵn sàng trên bàn. Tú Uyên vừa mừng lại vừa lo, không hiểu vì đâu mà mình được ưu đãi như thế!

Hôm khác chàng giả vờ đi học, được nửa đường rồi quay trở về, nấp ngoài cửa nhìn vào.

Chợt thấy tố nữ trong tranh bước ra, dọn dẹp nhà cửa và xuống bếp làm cơm. Thế là chàng đã biết rõ nguyên nhân, liền đột ngột xô cửa bước vào, nắm chặt lấy tay nàng mà rằng:

- Sao nàng lại nỡ để tôi trông đợi mỏi mòn đến thế! Bây giờ tôi đã gặp lại nàng, tôi nhất quyết là không cho nàng ra khỏi đây đâu!

Thiếu nữ trong tranh e thẹn, má đỏ hồng, không dám nhìn mặt Tú Uyên.

Tú Uyên đã biết nàng từ đâu ra nên giật lấy bức tranh trên tường xé nát để nàng không còn nơi trú ẩn. Người con gái se sẽ nói:

- Sao chàng ác thế! Thiếp đã lạc vào đây rồi nên đâu dám không vâng lời.

Rồi nàng cho biết mình là tiên nữ tên là Giáng Kiều, vốn có duyên nợ với chàng nên được xuống trần cùng kết làm đôi lứa. Tú Uyên tưởng không còn có gì vui sướng hơn nữa, chàng đưa tay lên trời thề yêu nàng trọn đời. Thế là hai người được thành thân với nhau, dưới sự chứng kiến của các bạn tiên của nàng.

Nhưng từ ngày được vợ đẹp, Tú Uyên buông thả không màng gì đến đèn sách. Suốt ngày chàng ở bên vợ và đặc biệt là thích được uống rượu và ăn ngon. Giáng Kiều khuyên can mãi, nhưng Tú Uyên vẫn chứng nào tật nấy.

Ba năm trôi qua, chàng không hề lai vãng đến nhà học. Dần dà chàng trở nên nghiện rượu, đã uống thì uống đến say, không còn biết trời đất là gì nữa, thậm chí nhiều khi còn chửi mắng vợ.

Giáng Kiều giận lắm! Song nàng không biết làm sao hơn, kiên nhẫn chờ dịp quay về trời.

Một hôm Tú Uyên từ tửu quán khật khưởng trở về, Giáng Kiều đưa chồng vào giường rồi nhân lúc chàng ngủ thiếp đi, nàng liền bay về trời.

Lúc tỉnh rượu, không thấy vợ đâu, Tú Uyên lấy làm hối hận. Suốt một tháng trời, chàng bỏ ăn bỏ ngủ, kêu khóc thảm thiết. Bạn bè thân thiết hết lời khuyên nhủ nhưng chàng cũng không sao giảm được u sầu. Giận thân, chàng chỉ muốn từ giã cõi đời mà thôi.

Nhưng khi khăn vừa vắt lên xà nhà để thắt cổ tự vẫn thì bỗng có trận gió thoảng đưa mùi hương đến…

Thì ra đó chính là Giáng Kiều hiện ra cứu chàng. Tú Uyên vừa thẹn vừa mừng, thề xin chừa hẳn rượu và chăm lo học hành. Hai vợ chồng lại sum họp đầm ấm như xưa.

Chẳng bao lâu, Giáng Kiều sinh được một trai, đứa bé lớn lên thông minh tuyệt đỉnh, học đâu nhớ đó.

Một đêm nọ bỗng có hai con hạc từ trên trời bay xuống, đến đón hai người ở trước sân. Hai vợ chồng dặn dò con ở lại học cho tốt, rồi cưỡi hạc bay về trời.

Về sau con của hai người cũng đỗ đạt cao, làm quan vinh hiển…

 

Comments