Skip to content

Narrow screen resolution Wide screen resolution Auto adjust screen size Increase font size Decrease font size Default font size default color brick color green color
Bạn đang xem:Home arrow Lịch Sử Văn Hoá arrow Những ngôi chùa thời Lý ở Thanh Hóa (Viên Ngọc Lưu)
Những ngôi chùa thời Lý ở Thanh Hóa (Viên Ngọc Lưu) PDF In E-mail
Người viết: ThanhHung   
02/08/2010

NHỮNG NGÔI CHÙA THỜI LÝ Ở THANH HÓA

* Viên Ngọc Lưu

Tháng 10 năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi, lập nên nhà Lý kéo dài hơn 200 năm. Năm 1010, Thái tổ Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng Long, đổi 10 Đạo của quốc gia Đại Việt thành 24 Lộ, riêng châu Hoan, châu Ái gọi là Trại (tức là địa phương xa kinh thành). Với vị trí địa lý là vùng phên dậu phía nam của Đại Việt, lại là vùng đất có bề dày lịch sử truyền thống dựng nước và giữ nước từ thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu, đồng thời cũng là đất cung cấp nhiều nhân tài cho nhà Lý như Thái sư Đào Cam Mộc (một trong hai nhân vật chủ chốt đưa Lý Công Uẩn lên ngôi), Lê Phụng Hiểu (còn gọi là Thánh Bưng) – một dũng tướng nổi tiếng với sức khỏe hơn người..., Thanh Hóa được các vua Lý rất quan tâm, thường cử những quan lại cao cấp, các bậc đại thần đến coi giữ, điển hình là Lý Thường Kiệt.

          Từ khi nhà Lý nắm quyền, lị sở châu Ái (đến cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII là phủ Thanh Hóa) chuyển từ Tư Phố (làng Giàng) về Duy Tinh (thị trấn Hậu Lộc ngày nay).

          Dưới thời Lý, Phật giáo trở thành Quốc đạo, “dân chúng quá nửa là sãi, chỗ nào cũng có chùa chiền” (Lê Văn Hưu), Thanh Hóa là vùng đất tương đối ổn định về mọi mặt chính trị, xã hội và kinh tế: hầu như Thanh Hóa không có năm nào bị mất mùa lớn. Đây chính là điều kiện, cơ sở xã hội rất tốt để nhân dân có điều kiện phát triển, xây dựng, kiến thiết hàng loạt chùa chiền, mà theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu, trước và sau thời Lý, không có thời nào sánh kịp.

          Có thể nói, những ngôi chùa nổi tiếng của Thanh Hóa trong lịch sử hầu hết được xây dựng từ thời Lý. Tuy nhiên, do sự khắc nghiệt của thiên nhiên và những biến thiên của lịch sử, xã hội kéo dài hàng ngàn năm, đến nay chỉ có chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (Hậu Lộc) là còn tương đối cơ bản về nguồn gốc ban đầu, từ vị trí xây dựng đến hiện vật, mặc dù đã qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo. Các chùa còn lại đều đã bị hủy hoại, biến thành phế tích, chúng ta chỉ biết được qua thư tịch cổ và các văn bia hiện đang được bảo quản, giữ gìn.

          Rất nhiều chùa thời Lý bị hoàn toàn mất dấu vết, chỉ còn thấy tên gọi trong sách vở, thư tịch cũ như chùa Trịnh Nghiêm ở Kẻ Go, Minh Nghiêm ở Kẻ Bôn, Phúc Diên Tự Khánh (không rõ địa điểm), chùa Minh Tịnh (ở Hoằng Hóa) cũng không rõ địa điểm, chỉ phát hiện được bia (đang lưu giữ tại nghè Tế Độ, xã Hoằng Phúc, huyện Hoằng Hóa) cho biết chùa được xây dựng trước năm 1090 (năm khởi dựng bia chùa) với quy mô “... nguy nga tựa long cung, sừng sững trên nền đất bằng”, các đầu trụ tựa như sao trên trời, vì kèo lượn như vành trăng treo” (theo Lê Văn Tạo - Một số đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc đá truyền thống ở Thanh Hóa - Nhà Xuất bản Thanh Hóa -2008). Cũng có chùa sau nhiều biến động của thời gian, lịch sử, đã bị di chuyển khỏi vị trí ban đầu, chỉ còn sót lại mấy viên đá tảng mang dấu ấn thời Lý (chùa Hương Nghiêm hiện ở xã Thiệu Trung, Thiệu Hóa).

          Trên cơ sở nguồn tư liệu và hiện vật đang được bảo tồn, gìn giữ, chúng ta có thể tìm hiểu một số chùa tiêu biểu sau:

  

    Chùa Hương Nghiêm:

          Chùa Hương Nghiêm  ở Giáp Bối Lý, nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa. Theo sử sách, chùa được xây dựng trước thời tiền Lê. Khi Lê Đại Hành kinh lý qua Thanh Hóa, thấy chùa đổ nát, bèn cho tu bổ lại. Đến thời Lý (năm 1112), Thiền sư Đạo Dung (là cháu đích tôn của Lê Lương) cho tu bổ chùa khá khang trang, hoành tráng. Các sử liệu cũ mô tả: Chùa được xây dựng ở núi Càn Ni... “trên đá chênh vênh, tượng phật uy nghiêm, giữa sóng thấp cao... mái hiên cong như cánh trĩ, ngói lợp lớp lớp như vảy rồng, lan can thoáng mát, cửa ngõ thênh thang. Mé trái có một tòa lầu nguy nga trong treo chuông lớn...” (Lê Văn Tạo -  Sách đã dẫn). Dấu vết thời Lý rõ nhất hiện còn ở chùa Hương Nghiêm là một số đá tảng chạm hình hoa sen.

    

    Chùa Báo Ân:

          Chùa Báo Ân ở núi An Hoạch (núi Nhồi), nay thuộc huyện Đông Sơn, được xây dựng từ mùa hạ năm 1099 đến mùa hạ năm 1100 thì hoàn thành. Theo văn bia “An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký” (bia hiện đang được bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Hà Nội), chùa được xây dựng do Lý Thường Kiệt nhân một lần đi thăm vùng An Hoạch (núi Nhồi), sai người dò tìm ra loại đá “sắc óng ánh như ngọc lam, chất biếc xanh như khói nhạt... đẽo thành khánh, đánh lên thì tiếng ngân muôn dặm, dùng làm văn bia, văn chương để lại thì còn mãi ngàn đời”; đã tạo nên một nghề mới – nghề chạm khắc đá - cho nhân dân trong vùng, từ đó, đời sống kinh tế được phát triển mạnh mẽ. Để ghi nhớ công đức của Thái uý, nhân dân địa phương cho xây dựng ngôi chùa mà tên gọi đã thể hiện rõ tâm nguyện của người dân vùng An Hoạch đối với vị quan trấn trị nổi tiếng trong lịch sử dân tộc. Thật đáng tiếc, ngôi chùa “ngoảnh hướng nam, với tượng phật, tượng Bồ Tát sắc ánh như vàng, đẹp như tranh vẽ... mái tường rực rỡ là nhờ một sớm nét đan thanh điểm xuyết trăm năm khí tượng mãi thơm tho...” (Văn bia chùa Báo Ân – LSTH-tập II-NXBKHXH-HN-1994) hiện nay không còn dấu vết, không xác định được vị trí cụ thể.

 

    Chùa Linh Xứng:

 

          Trên sườn núi Ngưỡng Sơn (nay thuộc xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung) được Lý Thường Kiệt cho xây dựng trong 4 năm (1085-1089) khi ông được vua nhà Lý cử về làm Tổng trấn cai quản Ái châu và được phong thái ấp một vạn hộ. Theo văn bia “Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh”, bấy giờ có Sùng Tín trưởng lão là thầy học của Linh Nhân Hoàng thái hậu từ Thăng Long vào thuyết pháp ở Ái châu. Thái úy đưa Sùng Tín trưởng lão đi khắp nơi tìm đất xây chùa. Đến vùng Ngưỡng Sơn, thấy cảnh trí thanh u, cây cối tốt tươi, lại không quá xa làng xóm, bèn quyết định cho xây dựng chùa. Chùa được xây khá bề thế: ... “chùa phật thênh thang ở giữa, phòng chay rộng rãi hai bên. Trang nghiêm chính giữa thì ngũ chí Như Lai sắc vàng rực rỡ... quanh tường thì thêu vẽ uy nghi 16 vị La Hán cùng mọi hình biến tướng muôn hình vạn trạng. Phía sau xây ngôi tháp báu gọi là tháp Chiêu Ân 9 tầng chót vót, giăng mắc lưới rèm, cửa mở 4 bên, lan can vây nhiễu...” (theo Lê Văn Tạo – Nguyễn Văn Hải: Những bia ký điển hình ở Thanh Hóa - NXBTH, 2008, tr. 107).

          Chùa Linh Xứng ở vị trí ngay trên con đường huyết mạch: trên bộ, dưới sông, lại gần quận lỵ, phía bên kia sông (sông Lèn) là vùng sầm uất, làng lớn, đông dân, vì vậy rất nhiều người đến thăm viếng. Tài liệu cũ còn ghi sứ các nước Chiêm Thành, Chân Lạp khi sang cống nước ta, vẫn qua thăm viếng chùa Linh Xứng. Sau này, hai người cháu của Thái úy Lý Thường Kiệt đến ở đây, cho xây dựng thêm một chùa nhỏ ở phía đông núi Ngưỡng Sơn, đặt tên là chùa Thánh Ân (hiện nay không còn dấu tích). Năm 1138, sau khi Lý Thường Kiệt mất, ghi nhớ công đức của Thái úy, nhân dân trong vùng đã lập một ngôi đền thờ ông ngay cạnh chùa Linh Xứng, dưới chân núi Ngưỡng Sơn. Đền thờ Lý Thường Kiệt qua gần ngàn năm, sau bao lần tu bổ, hiện vẫn được bảo vệ, phát huy giá trị rất tốt, đã được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia.

 

    Chùa Sùng Nghiêm  Diên Thánh:

          Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh do Thông phán Chu Công – người được vua nhà Lý cử trấn giữ, cai quản Thanh Hóa sau khi Lý Thường Kiệt được rút về Thăng Long giữ chức Tể tướng lần thứ hai, cho xây dựng năm 1116 trên nền chùa cũ. Đây là ngôi chùa theo mô tả của văn bia là khá bề thế, do huy động được nguồn vật lực trong nhân  dân  rất dồi dào “thợ mộc, thợ nề gắng sức như viên tròn lăn trên ván gỗ; trẻ già, trai gái giúp duyên, như lớp sóng xô giữa triền sông. Góp lương như kiến, vung rìu như mây...”. Quy mô chùa thì “...rường nhà cong cong như vảy rồng nhô ra sau mưa, ngói uyên ương phơi dưới gió như xập xòe uốn lượn. Mái cong lấp lánh dưới mặt trời, hiên lượn quanh co trước gió. Tường vách chạy xung quanh..., hành lang bao bọc 4 mùa hiên cửa thanh hư. Bên hữu có vườn thơm, phía tả có ao mát, mặt nước hoa sen tốt tươi..., lại sắm đủ chiếu giường cho khách trọ nghỉ chân, lại xây đủ bếp núc cung cấp cho người thiền định...”  (Những bia ký điển hình – Sđd, tr. 115). Sùng Nghiêm Diên Thánh là ngôi chùa thời Lý ở Thanh Hóa còn lại nhiều dấu tích, giá trị nguyên gốc: từ vị trí, quy mô cảnh quan đến một số hiện vật kiến trúc như rồng, bia, chân tảng và đặc biệt là một số tượng pháp như bộ Tam Thế tọa trên tòa sen.

          Trên đây là một số chùa thời Lý tiêu biểu ở Thanh Hóa hiện còn dấu vết, chứng tích quý giá đang được bảo quản, giữ gìn và phát huy giá trị. Dù tư liệu, chứng tích còn lại rất ít ỏi, nhưng đó là những tư liệu gốc cực kỳ quý báu (đặc biệt là văn bia của các chùa). Nghiên cứu nguồn tư liệu này sẽ góp phần tìm hiểu nhiều mặt về kinh tế, xã hội, lịch sử, văn hóa thời Lý, đặc biệt là việc tìm hiểu về vai trò, hành trạng của một số nhân vật thời Lý như Lý Thường Kiệt, Hải Chiếu đại sư, Thông phán Chu Công... Chính những giá trị quý báu vô giá của những ngôi chùa thời Lý ở Thanh Hóa cho nên nhân dịp kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long - tỉnh Thanh Hóa đã hoàn thành các dự án và đề nghị Ban tổ chức kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long - Hà Nội, UBND thành phố Hà Nội hỗ trợ kinh phí để tu bổ, phục hồi và tôn tạo một số di tích thời Lý tiêu biểu ở Thanh Hóa, trong đó có các chùa Linh Xứng (Hà Ngọc, Hà Trung), Sùng Nghiêm Diên Thánh (Hậu Lộc).

Cập nhật ( 02/08/2010 )
 
< Trước   Tiếp >

Tìm kiếm bài viết

Click here !
Click here !
Click here !

Liên lạc online