Từ Cung Hoàng thái hậu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Hoàng Thị Cúc
黃氏菊
ĐứcTừCung.jpg
Hoàng thái hậu nhà Nguyễn
Tại vị 1926 - 1945
Tiền nhiệm Khôn Nghi hoàng thái hậu
Kế nhiệm Không có
Hoàng thái hậu cuối cùng của Việt Nam
Thông tin chung
Phu quân Nguyễn Hoằng Tông
Khải Định hoàng đế
Hậu duệ Bảo Đại
Tước hiệu Cung nữ
Huệ tần
Huệ phi
Hoàng thái hậu
Tước vị Đoan Huy Hoàng thái hậu
端暉皇太后
Hoàng tộc nhà Nguyễn
Thân phụ Hoàng Trọng Tích
Thân mẫu La Thị Sơn
Sinh 28 tháng 1, 1890
Phú Lộc, Thừa Thiên-Huế
Mất 9 tháng 11, 1980 (90 tuổi)
cung An Định
An táng Hương Chữ, Hương Thuỷ, Thừa Thiên-Huế

Hoàng Thị Cúc (chữ Hán: 黃氏菊; 28 tháng 1, 1890 - 9 tháng 11, 1980), còn được gọi là Đoan Huy Hoàng thái hậu (端暉皇太后) hay Từ Cung Hoàng thái hậu (慈宮皇太后). Đức bà là phi thiếp của hoàng đế Khải Định, thân mẫu của hoàng đế Bảo Đại của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Đức bà là Hoàng thái hậu cuối cùng của nền quân chủ chuyên chế Việt Nam.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Xuất thân[sửa | sửa mã nguồn]

Thuở nhỏ bà sống cùng phụ mẫu ở quê nhà làng Mỹ Lợi, Phú Lộc, Thừa Thiên-Huế[1]. Thân sinh của bà là ông Hoàng Trọng Tích, đậu Tú tài, làm Tri huyện Hòa Đa (Bình Định), thân mẫu của bà là bà La Thị Sơn.

Theo gia phả của họ Hoàng làng Mỹ Lợi, sinh thời ông Hoàng Văn Tích lấy bà La Thị Huân và có với bà hai người con, một trai một gái. Khi người con gái thứ 2 là Hoàng Thị Như chào đời, ông đón người chị gái của vợ là bà La Thị Sơn đến giúp lo toan việc nhà. Tuy nhiên, ông Tích dần có tình cảm với bà Sơn, dẫn đến bà Sơn có con và sinh ra một người con gái chính là bà Hoàng Thị Cúc. Sau khi sinh bà Cúc, bà La Thị Sơn cảm thấy ân hận với em gái, nên đã để lại con gái cho ông Hoàng Văn Tích và bà La Thị Huân nuôi, còn mình thì về quê rồi sau này đi lấy chồng khác.

Sinh ra trong một gia đình quan Tri huyện, nhưng từ nhỏ, Hoàng Thị Cúc đã sống cuộc sống hết sức vất vả, khó khăn. Ông bà Tri huyện mất sớm, khi Hoàng Thị Cúc còn nhỏ tuổi, phải sống nhờ gia đình người anh trai cả là Hoàng Trọng Khanh. Nhưng chẳng may người anh cả Hoàng Trọng Khanh lại là người ham mê cờ bạc, có bao nhiêu tiền đều ném vào hết các chiếu bạc. Do mê cờ bạc rồi sinh ra nợ nần, ông Khanh đã "bán" các em gái cho những nơi quyền quý. Bà Hoàng Thị Cúc được đưa vào làm cung nữ hầu hai bà Thánh Cung Nguyễn Hữu Thị Nhàn và Tiên Cung Dương Thị Thục – vợ góa của vua Đồng Khánh[2].

Từ đây, bà dần tiếp xúc với ông Phụng Hóa công Nguyễn Phúc Bửu Đảo (奉化公阮福寶嶹), con của bà Tiên cung.

Huệ phi của Khải Định[sửa | sửa mã nguồn]

Lúc quen biết ông hoàng, thì ông đã có vợ chính là bà Trương Như Thị Tịnh, con gái đại thần phụ chính Trương Như Cương, nhưng cả 2 chung sống không hòa thuận và cũng không có một mụn con nào. Đến một ngày, ông hoàng bị thua bạc to, xin bà về nhà cha ruột để đòi tiền trả nợ, bà Tịnh quá nhục nhã mà khóc lóc, chạy ra khỏi phủ và xuất gia tu hành, từ đấy ông hoàng để trống ngôi vị chính thất.

Đầu năm 1913, bà mang thai và nhận là của Phụng Hóa công. Hai bà Tiên Cung và Thánh Cung hoàng hậu đã nhiều lần tra khảo, có lần còn ép bà phải nằm úp bụng bầu xuống đất và đánh, bắt bà phải khai đó là thai của ai sao lại dám đặt điều nhưng bà vẫn một mực khẳng định đây là con của Phụng Hóa Công. Kể từ đó bà mới được tha và hưởng thời kỳ dưỡng thai[2]. Ngày 22 tháng 10, năm 1913, bà hạ sinh hoàng nam Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy.

Năm 1916, Phụng Hóa Công lên ngôi, tức hoàng đế Khải Định. Sau khi lên ngôi ông phong cho bà là Tam giai Huệ tần (三階惠嬪), qua năm 1918 thăng lên Nhị giai Huệ phi (二階惠妃), đứng thứ 2 trong Hậu cung của ngài, sau bà Ân phi Hồ Thị Chỉ. Tước Hoàng quý phi ông vẫn dành tặng cho bà Tịnh, dù bà đã xuất gia và từ chối nhận phong.

Khi hoàng tử Vĩnh Thụy mới chào đời, khác với những người mẹ bình thường, Huệ phi lập tức bị cách ly khỏi con trai. Bà Tiên Cung đón cháu nội về cung của mình, tự chăm sóc, nuôi nấng. Mỗi ngày vài lần, bà Tiên Cung cho gọi Huệ phi đến cho con bú, rồi lại bắt về. Vì thế Huệ phi tiếng là làm mẹ nhưng gần như không được một ngày chăm sóc con. Mối quan hệ giữa bà và đức Tiên Cung hết sức căng thẳn, vì xuất thân không cao quý, đức Tiên Cung không xem trọng và tỏ ra lạnh nhạt với bà [1].

Hoàng thái hậu[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 6 tháng 11, năm 1925, vua Khải Định băng hà, thọ 40 tuổi. Lăng của vua Khải Định hiệu Ứng Lăng, tại làng Chân Chữ, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Bà Huệ phi được di chiếu lập làm Hoàng thái hậu, còn hoàng tử con trai bà là Vĩnh Thụy được đưa lên làm hoàng đế kế vị.

Năm 1926, hoàng tử Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy được tôn lên kế vị, lấy niên hiệu là Bảo Đại. Sau khi lên ngôi, ông phong cho mẹ mình làm Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (端徽皇太后), nhưng mọi người vẫn thường gọi bà là đức Từ Cung (德慈宮)[1]. Vào ngày sinh nhật hàng năm của bà triều đình tổ chức lễ mừng rất trọng thể, gọi là Lễ Từ Khương.

Năm 1932, vua Bảo Đại kết hôn với Nguyễn Hữu Thị Lan (阮友氏蘭), một người theo đạo Công giáo và phong bà này làm Nam Phương hoàng hậu. Việc này làm bà Từ Cung rất buồn rầu, vì bà Nam Phương là người Công giáo, chịu ảnh hưởng của giáo dục Tây phương nên không rành rẽ các quy tắc nghiêm nghặt trong cung. Ngày Nam Phương hoàng hậu nhập cung, đức Từ Cung và các quan lại trong triều có đưa Hoàng hậu đi đến các lăng miếu thờ các vị vua đời trước, nhưng đến lăng miếu nào, Hoàng hậu cũng chỉ đứng ngoài chứ nhất quyết không chịu vào [1]. Giữa khác biệt về tôn giáo và xuất thân, mà giữa hai bà Từ Cung và Nam Phương hay xảy ra việc bất đồng ý kiến.

Năm 1939, vua Bảo Đại xây ngôi chùa đầu tiên trên đất Buôn Mê Thuột, lấy hai chữ đầu trong hiệu của phụ mẫu ông đặt tên cho ngôi chùa là Chùa Khải Đoan, vì lẽ bà rất sùng đạo Phật. Tháng nào, đức Từ Cung cũng dành ra 10 ngày ăn chay, mỗi ngày lại dành ra vài tiếng đọc Kinh, niệm Phật, ăn uống rất đơn giản. Ngoài 10 ngày ăn chay trong tháng, bữa ăn của bà cũng không bao giờ bày sơn hào, hải vị, mà chỉ bày những món ăn được chế biến đơn giản, bình dân.

Sau Cách mạng[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1945, vua Bảo Đại giao ấn kiếm cho chính quyền Cách mạng, tuyên bố thoái vị, bà Từ Cung cùng bà Nam Phương hoàng hậu và con cháu hoàng thất dọn ra cung An Định ở. Khi cựu hoàng Bảo Đại ra Hà Nội làm cố vấn cho ông Hồ Chí Minh, bà Từ Cung và bà Nam Phương cùng các hoàng nam, hoàng nữ vẫn ở tại cung An Định.

Những năm 1949 - 1954, khi Bảo Đại trở về làm Quốc trưởng bà Từ Cung trở lại Hoàng cung, ở tại cung Diên Thọ. Năm 1954, khi Bảo Đại qua Pháp lưu vong bà lại phải ra khỏi Hoàng thành về sống ở cung An Định.

Năm 1955, khi Quốc trưởng Bảo Đại bị lật đổ, ông Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng thì chính quyền miền Nam Việt Nam không cho phép bà Từ Cung ở lại trong cung An Định. Trong tình cảnh này bà đã mua lại ngôi nhà của bà Ân phi Hồ Thị Chỉ, là nhà 79 phố Phan Đình Phùng và ở đây cho đến ngày cuối đời. Trong thời gian chiến tranh loạn lạc, mọi hoạt động cúng bái các bậc tiên tổ, hội họp Nguyễn Phước Tộc đều diễn ra tại căn nhà này. Cũng trong thời gian này bà hoàn toàn mất liên lạc với ông hoàng Bảo Đại.

Bà Lê Thị Dinh là người phục vụ bà Từ Cung hơn 60 năm, là người cung nữ cuối cùng triều Nguyễn phục vụ cho Từ Cung Hoàng Thái hậu[3]. Bốn cung nữ hầu Hoàng Thái Hậu gồm: bà Lê Thị Dinh (nhiệm vụ là trang điểm cho đức Bà, là người hầu hạ Đức Bà tới lúc cuối đời), Lê Thị Tìm (đọc truyện cổ tích và tụng kinh cho Đức Bà nghe hàng đêm), Nguyễn Thị Vân và Trần Thị Vui. Đây là bốn cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là những cung nữ cuối cùng của Việt Nam đang sống vào thế kỷ XXI[4].

Năm 1980, Từ Cung thái hậu qua đời, bà được an táng gần Ứng Lăng tại xã Hương Chữ, Hương Thuỷ, Thừa Thiên-Huế. Căn nhà 79 Phan Đình Phùng mà bà đã ở những ngày cuối đời hiện nay được tu bổ trở thành điểm tham quan cho khách du lịch.

Ở Huế không có ai đủ tư cách thừa kế gia sản cho nên ngôi nhà của bà và các hiện vật bên trong được giao cho Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế quản lý.

Đánh giá chung[sửa | sửa mã nguồn]

Từ Cung Hoàng Thái hậu rất trọng đạo Phật và chú tâm đến việc thờ cúng các vị vua triều Nguyễn. bà được coi là người có công lớn trong việc chấn hưng Phật giáo thời nhà Nguyễn. Chính bà đã khuyên vua Bảo Đại dành nhiều tiền đóng góp cho An nam Phật giáo Hội, vận động Bảo Đại góp tiền xây chùa và phát triển Phật giáo.

Bà chưa khi nào rời khỏi Kinh thành Huế ngay cả khi con trai và con dâu bà sang Pháp sống lưu vong. Bà nguyện sống cả đời ở đây để giữ gìn nơi thờ phụng các bậc tiên đế, các bảo vật của triều Nguyễn. Bà nói: Ta sinh ra ở đâu thì sẽ chết ở đó. Tổ tiên nhà Nguyễn còn ở Huế thì ta còn phải ở lại lo chuyện thờ cúng, chăm sóc lăng mộ các bậc tiền nhân. Nhà Nguyễn đã cho ta hưởng lộc cả đời. Ta có chết cũng chưa báo đáp hết được. Bà chưa bỏ một lễ giỗ nào, kể cả khi tiền bạc gần như đã suy kiệt hoàn toàn.

Khi ra khỏi cung Diên Thọ về sống ở cung An Định, hay là khi bị Ngô Đình Diệm đuổi khỏi cung An Định, Từ Cung Thái hậu vẫn luôn mang theo bên mình tất cả những bảo vật của triều Nguyễn và cả những bộ y phục mà nhà vua đã từng mặc trước đây. Để có thể duy trì cuộc sống, bà đã phải bán dần từng món đồ trang sức mà mình có. Phần lớn tài sản mà Từ Cung Thái hậu mang ra khỏi cung Diên Thọ bà dùng để phục vụ cho việc thờ cúng,[5]. bà cải đạo theo Đạo Cao Đài Tây Ninh được phong chức Gáo sư.

Lúc còn sống trong cung, Từ Cung Thái hậu đã ăn uống rất đơn giản, bà ăn chay 10 ngày mỗi tháng và hiếm khi dùng sơn hào hải vị. Sau khi nhà Nguyễn mất, càng về già, Từ Cung Thái hậu càng ăn uống đơn giản hơn bao giờ hết. Y phục bà mặc và những thứ đồ dùng của bà cũng hết sức giản dị.

Từ Cung Thái hậu là một người rất khó tính nhưng lại khoan dung, độ lượng.

Cả đời bà không có phước phận được gần con cháu. Khi Vua Bảo Đại còn nhỏ thì bà Tiên Cung Hoàng hậu nuôi. Đến lúc bà Tiên Cung mất, thì Vua Bảo Đại cũng đi học ở Pháp. Sau này khi Bảo Đại trở về (năm 1932), lấy vợ, sinh được các hoàng tử, công chúa, Từ Cung Thái hậu có một thời gian vui vẻ bên con cháu, nhưng từ sau năm 1945, bà hầu như sống một mình, cô đơn, lạnh lẽo. Khi Vua Bảo Đại, Hoàng hậu Nam Phương, bà Thứ phi Mộng Điệp cùng các hoàng nam, hoàng nữ đều sang Pháp sống, thì Từ Cung Thái hậu hoàn toàn không còn cơ hội gặp lại con cháu mình nữa. Bà sống như thế cho đến tận cuối đời, trong nỗi đau dằn vặt xa con, xa cháu.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Truyện kể về các Vương phi, Hoàng hậu nhà Nguyễn - Thi Long, NXB Đà Nẵng.
  • An Nam kí sự