|  | 
            Lược 
            sử Giáo họ Xối Thượng Từ thành phố Nam Định đi qua cầu Đ̣ Quan, dọc theo đường số 21 
            đến thị trấn Cổ Lễ (khoảng 16km) nh́n về hướng tây, bên phải khoảng 
            1km sẽ thấy ngôi nhà thờ cổ kính với hai tháp chuông cao sừng sững 
            giữa cánh đồng lúa mênh mông xanh thẳm - Đó là nhà thờ Họ Xối Thượng 
            - Xứ Tương Nam được xây dựng cách đây 100 năm vào năm 1909, trên địa 
            danh làng Xối Thượng - Tổng Liên tỉnh - Nam Trực (cũ).  Thánh Gioan tông đồ là Quan thầy giáo họ Xối Thượng. Ngài sinh 
            khoảng năm thứ 6 SCN (kém Chúa Giêsu 6 tuổi), là em của Thánh 
            Giacôbê, con của ông Giêbêđê. Ngài qua đời khoảng năm thứ 100 SCN 
            tại Êphêsô vùng Tiểu Á. Ngài là môn đệ trẻ nhất trong số 12 tông đồ 
            của Chúa, được Chúa yêu quư cách riêng. Ngài có một vị trí nổi bật 
            trong số các tông đồ.  Thánh Gioan là tác giả của một số sách: Phúc âm, Thư tín và Khải 
            huyền. Ngài và Thánh Phêrô đă được sai vào thành phố để thực hiện 
            các việc chuẩn bị cho bữa ăn tối cuối cùng (Lc 228). Trong bữa ăn 
            Ngài được ngồi bên cạnh và ngả đầu vào ngực Chúa Giêsu (Ga 
            13,23-25). Ngài cũng là môn đệ duy nhất đứng dưới chân Thánh giá 
            trên đồi Calvariô cùng với Đức Mẹ Maria và các phụ nữ khác. Ngài 
            cũng đă đón Đức Mẹ Maria về chăm sóc theo như lời trối của Chúa (Ga 
            19,25-27).  Thánh Gioan và Phêrô là 2 người chạy về hướng lăng mộ và chính 
            Ngài là người đầu tiên tin rằng Chúa Giêsu thực sự đă sống lại (Ga 
            20,2-10).  Hàng ngày, sáng, trưa, chiều, tối cách xa hàng mấy cây số dân cư 
            trong vùng nghe thấy tiếng chuông ngân vang, đổ hồi thay tiếng loa 
            của Thánh Thiên thần kêu gọi mọi người đọc kinh thờ phượng Chúa 
            trong đức tin, đức cậy, đức mến.    Tiếng chuông thánh thoát mang Tin mừng đến mọi nhà trong những 
            ngày lễ mừng Chúa Giáng sinh, lễ Phục sinh, lễ kính Thánh Gioan quan 
            thầy, lễ kính Đức Mẹ và các ngày lễ trong năm...  Tiếng chuông gần trăm năm nay thay đồng hồ nhắc nhở mọi người 
            hăng say làm việc, lao động, nghỉ ngơi, trẻ con đến trường đi học...
             Tiếng chuông cầu hồn từng tiếng nghẹn ngào thông báo tin buồn, 
            xin giáo dân cầu nguyện cho linh hồn người mới qua đời.  Tiếng chuông đă đi vào kỷ niệm khó phai trong tâm hồn của bao 
            người xa quê, ở khắp mọi miền đất nước và nước ngoài, luôn hướng về 
            quê hương với nỗi niềm thao thức: vui, buồn và thương nhớ.  Hôm nay những thế hệ con cháu đang sống ở quê hương, mọi miền đất 
            nước và nhiều nước trên thế giới hướng về ông bà, tổ tiên với ḷng 
            thành kính biết ơn, tri ân những người đă không tiếc công, tiếc của 
            xây dựng, bảo tồn Nhà thờ họ Xối Thượng - một tài sản vô giá cho 
            muôn đời. Xin Chúa, Đức Mẹ Maria và Thánh Gioan Quan thầy cầu bầu 
            cho những người đang sống và đă qua đời ở khắp mọi miền đất nước và 
            trên thế giới. Chúng ta hăy cùng nhau ôn lại những ngày ấy.  A - NHỮNG NGÀY ĐẦU SƠ KHAI 
             Xă Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định - mảnh đất có truyền 
            thống lâu đời, ngàn năm văn hiến. Xưa kia nơi đây là biển, sông Hồng 
            mang phù sa màu mỡ bồi đắp. Cha ông ta với bao công sức đắp đê lấn 
            biển để xây dựng làng ấp. Vào đời Trần thế kỷ 13 vùng đất này có tên 
            là Tây Chân thuộc Phủ Thiên Trường (Nam Định ngày nay). Sau đổi 
            thành Nam Chân. Đến đời Minh Mạng thứ 14 vào năm 1833 tách Nam Chân 
            thành hai huyện: Nam Chân và Chân Ninh. Đến năm 1890 đổi thành Nam 
            Trực và Trực Ninh.  Theo các tư liệu lịch sử, Đạo Công giáo được truyền vào Việt Nam 
            từ đầu thế kỷ 17, do các thừa sai ḍng Tên (Bồ Đào Nha). Lúc này Ṭa 
            thánh Vatican giao việc truyền giáo vào Việt Nam cho Hội truyền giáo 
            nước ngoài Pari. Người có công rất lớn với dân tộc Việt Nam, góp 
            phần tạo ra chữ Việt từ mẫu Latinh trở thành chữ Quốc ngữ ngày nay 
            là Cha Alexanre de Rhodes c̣n gọi là Cha Bá Đa Lộc hay Cha Đắc Lộ. 
            Cha là người Pháp đă sống ở Việt Nam gần 10 năm (khoảng từ tháng 12 
            năm 1624 đến 12-1645). Ngoài ra cha c̣n để lại nhiều tác phẩm có giá 
            trị như Từ điển Việt - Bồ - La, hành tŕnh truyền giáo, lịch sử 
            vương quốc Đàng Ngoài, Phép giảng Tám ngày... Lịch sử đă ghi nhận 
            Giáo phận Bùi Chu là một trong những nơi đạo Thiên Chúa được truyền 
            vào từ cách đây hơn 470 năm (hiện nay có hơn 400.000 giáo dân) (theo 
            báo Hà Nội mới - trang 7 ra ngày 6/9/2008). Điều này chứng tỏ họ 
            giáo Xối Thượng cũng được h́nh thành rất sớm.  Trước khi xây nhà thờ khang trang như ngày nay, nơi đây đă tồn 
            tại một nơi thờ phượng Chúa mà tương truyền đă có 2 ngôi nhà thờ nhỏ.
             Việc t́m thấy hài cốt của 14 vị tử đạo ở cuối nhà thờ vào năm 
            2000 là một minh chứng hùng hồn về đức tin vĩnh hằng vào Thiên Chúa, 
            về lịch sử đạo Công giáo đă gieo mầm, đâm chồi nảy lộc từ lâu ở xóm 
            đạo này.  Vào thế kỷ 17, giáo đoàn Bùi Chu đă phát triển đông giáo dân. Nhà 
            cầm quyền lúc đó không mấy khi để giáo dân được yên bề sống đạo. 
            Lệnh truyền cấm đạo được ban hành vào năm thứ 7 đời Cảnh Tự ngày 
            16/5 (14/6/1669) (xem Kỷ yếu giáo phận Bùi Chu 1999 - trang 35) và 
            được thực thi triệt để ở Bùi Chu vào năm 1675. Năm 1682 cha Gioan 
            Desantaruz Thập, Ngài quản nhiệm truyền giáo ở 5 huyện: Giao Thủy (Xuân 
            Trường), Nam Chân (Nam Trực), Chân Ninh (Trực Ninh), Thanh Quan (Thái 
            B́nh) và Vũ Tiên. Từ những năm 1710 cho măi tới sau, liên tiếp với 
            những lệnh truyền, sắc chỉ cấm đạo. Các h́nh thức xử phạt man rợ hơn 
            như: đập đầu gối, thích chữ vào trán, gông cùm, tra tấn và xử tử. 
            Nhất là chỉ dụ cấm đạo năm 1721 gây thiệt hại lớn cho giáo dân Bùi 
            Chu. Lịch sử Công giáo c̣n ghi tiếp, cách đây 200 năm vào tháng 
            8/1798 từ Phú Xuân (B́nh Định) vua Cảnh Thịnh thời Tây Sơn ra tiếp 
            sắc chỉ cấm đạo, hạ lệnh bách hại gắt gao. Cơn bách hại đột ngột và 
            dữ dội tại khắp các tỉnh phía Bắc. Đến đời vua Minh Mạng, một ông 
            vua khét tiếng độc đoán, coi Công giáo như cái họa cần nhổ tận gốc. 
            Ngày 6/1/1833 và ngày 25/1/1833 hai chiếu chỉ cấm đạo được ban hành, 
            có đoạn viết: “Trẫm cấm không được mở cửa biển cho tàu bè của bọn 
            man rợ vào nước. Chỉ trừ cửa Hàn. Hễ bắt được Tây dương đạo trưởng 
            nào trên tàu khách vào nước, th́ phải đem xử tử ngay... Xử tử tất cả 
            những kẻ nào, giữ bọn đạo trưởng ấy trong nhà ḿnh. Hễ bắt được đạo 
            trưởng ẩn nấp trong địa hạt nào, th́ quan địa hạt ấy cũng phải xử tử 
            như vậy, v́ lẽ đă không t́m cách bắt lấy” (xem Kỷ yếu giáo phận Bùi 
            Chu 1999 - trang 86).  Sau đó việc cấm đạo lại diễn ra dưới thời vua Tự Đức, ông sinh 
            vào ngày 22/9/1829, lên ngôi năm 19 tuổi ngày 10/11/1847 và mất ngày 
            19/7/1883. Vua Tự Đức thông minh, uyên thâm nho học, giỏi thi phú... 
            nhưng độc đoán, nghi kỵ và thiếu kiên quyết. Với chính sách “bế quan 
            tỏa cảng”, cấm đạo công giáo triệt để, ngoại giao lỗi thời và thiếu 
            khôn khéo dẫn đến nước mất, nhà tan, dân tộc anh em giết hại, tàn 
            sát lẫn nhau. Sử gia Trần Trọng Kim đă viết “Sức không đủ giữ nước 
            mà lại làm những điều tàn ác, không cho người ngoại quốc vào buôn 
            bán, lại c̣n đi làm tội những người giảng đạo. Bởi thế nước Pháp và 
            nước Iphanho mới nhân cơ hội ấy mà đánh nước ta...” (xem Kỷ yếu giáo 
            phận Bùi Chu 1999 - trang 106). Những cuộc tàn sát tập thể, phân sáp, 
            tra tấn, tù tội, có những làng công giáo không c̣n dân số. Họ giáo 
            Xối Thượng khi ấy cũng chung số phận với giáo phận mà thi thể các vị 
            tử đạo t́m thấy trong khuôn viên nhà thờ chịu tử đạo dưới thời vua 
            Tự Đức là số ít trong số hàng ngàn tử đạo thời bấy giờ.  Theo thẻ ch́ t́m thấy trong từng hài cốt, các ngài gồm:  1. Gioan Vỵ 2. Gioan Loan
 3. Gioan Đẩu
 4. Gioan Bửu
 5. Gioan Huyền
 6. Gioan Liên
 7. Maria Tác
 8. Maria Chất
 9. Gioan Hậu
 10. Gioan Quyến
 11. Gioan Giám
 12. Gioan Tâm
 13. Gioan Quang
 14. Gioan Tứ
 Tương truyền rằng thi hài của các Ngài đă được giáo dân cất giấu, 
            mai táng di chuyển qua nhiều nhà thờ, nhiều vùng và cuối cùng được 
            bí mật an táng tại nhà thờ Xối Thượng. Các ngài là những người trong 
            140.000 các tử đạo Việt Nam. Trong đó có 117 vị được Đức thánh cha 
            Gioan Phaolô II phong Hiển thánh tại Rôma ngày 19/6/1988. Có 44 vị 
            sinh quán và phục vụ tại giáo phận Bùi Chu.  Hai ngàn năm trước Chúa Giêsu “xuống thế làm người, Người chịu 
            khổ h́nh, chịu đóng đinh để cứu nhân loại, Người chịu chết và táng 
            trong mồ, đến ngày thứ 3 Người lại phục sinh...”. Hai ngàn năm qua 
            trên thế giới biết bao Tông đồ, các mục tử, tu sỹ, các nhà khoa học, 
            giáo dân nhiều nước trên thế giới đă tử v́ đạo. Ở Việt Nam và địa 
            phận Bùi Chu nói riêng trong gần 500 năm qua hàng trăm, hàng ngàn 
            giám mục, linh mục, tu sỹ, giáo dân đă ngă xuống qua rất nhiều triều 
            đại, trong đó có các vị tử đạo họ giáo Xối Thượng. Các ngài đă hy 
            sinh cho niềm tin vào Thiên Chúa. Biết bao tài sản, mồ hôi, nước mắt, 
            mạng sống bị tước đoạt, gia đ́nh ly tán, xóm làng xơ xác. Chẳng có 
            vinh quang nào mà không trải qua thử thách bằng máu và nước mắt. 
            Chúa Giêsu đă báo cho con cái Người “Họ sẽ lôi chúng con ra trước 
            công nghị, sẽ đánh đ̣n chúng con giữa hội đường, sẽ điệu chúng con 
            ra trước vua chúa quan quyền v́ danh ta... để làm chứng cho họ và 
            dân ngoại” (Mt 10,17-18). C̣n biết bao chiến sỹ tử đạo khác, họ vô 
            danh. Vô danh với loài người. C̣n trên Thiên giới, các ngài đang cầu 
            bầu, theo dơi sự phát triển của chúng ta, những con cái Chúa, mà các 
            Ngài đă nêu tấm gương sáng viết lên, bản anh hùng ca trên quê hương 
            thân yêu, tiếp nhận cho con cháu muôn đời một sự sống, sự sống vĩnh 
            cửu trong ánh sáng Chúa Kitô. Máu các anh hùng tử đạo đă nảy sinh ra 
            các tín hữu. Noi gương các Ngài, giáo dân họ Xối Thượng chúng con 
            nguyện sống xứng đáng với truyền thống anh hùng bất khuất của cha 
            ông.  B - GIAI ĐOẠN I (1890 ĐẾN 
            1954)  Xây dựng nhà thờ:  Những đợt tàn sát điên cuồng, man rợ của triều đ́nh nhà Nguyễn 
            không tiêu diệt được niềm tin vào Thiên Chúa. Sau hiệp ước ngày 
            5/6/1862 (9/5/Nhâm Tuất) Tự Đức phải kư sắc lệnh tha đạo. Nhưng đến 
            tháng 7/1863 việc cấm đạo mới được chấm dứt ở giáo phận Bùi Chu và 
            tỉnh Nam Định. Được lệnh ân xá trở về quê hương nhưng các họ đạo 
            tiêu điều xơ xác, nhiều làng công giáo không c̣n giáo dân. Số tín 
            hữu c̣n lại (đa số là đàn bà, trẻ con) trở về làng cũ trong cảnh 
            người chết, kẻ sống, nhà cửa tan nát, ruộng vườn hoang hóa, thiếu 
            cơm ăn, áo mặc, nghèo khó và cơ cực. Nhưng hàng ngày họ cầu nguyện 
            xin Chúa và Đức Mẹ rộng ḷng thương phù hộ. Với niềm tin sắt đá giáo 
            dân bắt đầu xây dựng lại từ đầu. Cơ cực nghèo khổ là vậy, nhưng mấy 
            chục giáo dân họ Xối Thượng đă vượt lên tất cả, dỡ bỏ nhà thờ cũ, 
            xây ngôi thánh đường mới như ngày nay, được khánh thành vào năm 
            1909.  Toàn bộ nhà thờ họ Xối Thượng được tọa lạc trong khu đất gồm 
            những công tŕnh đồ sộ:  1. Nhà thờ chính:  Nhà thờ chính nằm ở vị trí trung tâm, theo hướng truyền thống Nam 
            - Bắc, kiến trúc theo phong cách Á Đông: Cột lim, kèo gỗ, mái vẩy, 
            hiên hai bên, lợp ngói mũi... gồm tám gian, dài 32m, rộng 14m.  Tiền đường là cửa lớn chính nằm ở phía cuối nhà thờ, từ sân ta 
            ngắm nh́n thấy phần cuối nhà thờ h́nh tam giác với 5 cửa ṿm, những 
            trụ thẳng đứng trên cùng là thánh giá nến cao, hoa văn được đắp hết 
            sức tinh sảo với đường nét uốn lượn mềm mại, chim muông hoa lá ... 
            Rêu phong phủ kín theo thời gian nhưng c̣n nguyên vẹn như thuở ban 
            đầu. Vật liệu dùng chủ yếu là gạch đỏ, vôi, vữa nhào với rơm và giấy 
            bản, trộn thêm muối và mật mía ... vậy mà 100 năm qua vẫn tồn tại 
            trước mưa gió phũ phàng của thiên nhiên.  Qua cửa chính, trước mắt chúng ta là 4 hàng cột lim đồ sộ trên bệ 
            đá. Hai bên hai hàng cửa, bao lơn tạo không gian vừa thoáng mát vừa 
            ấm cúng. Trên những hàng cột cao 5-7m là hệ thống kèo, bẩy, rui mè 
            bằng gỗ lim đen bóng như đồng đúc được chạm trổ hết sức tinh vi, kết 
            nối với nhau mềm mại, thần kỳ và vững chắc mà ngày nay các nhà kiến 
            trúc sư phải thán phục về độ bền chắc của mộng mẹo, không cần đinh 
            sắt. Trên long cốt của nhà thờ c̣n ghi bằng chữ nho:  - Tây lịch, Thiên chúa giáng sinh, một ngàn chín trăm linh chín.
             - Duy tân, nhị niên, thập nhị nguyệt, Trung tu tọa thượng lương - 
            nghĩa là: Đặt nóc trùng tu nhà thờ vào năm 1909 (tháng 12 âm lịch 
            1908)  Đi tiếp một chút, trước mắt chúng ta hiện ra gian cung thánh với 
            hệ thống ṭa vàng (sơn son thiếp vàng) rực rỡ. Bước vào đây con 
            người như lạc vào chốn thiên cung bồng lai trang nghiêm và thánh 
            thiện. Ai đến đây kể cả khách nước ngoài hết sức ngạc nhiên trước vẻ 
            đẹp nguyên sơ của nhà thờ và hệ thống ṭa vàng - một trong những ṭa 
            vàng c̣n tồn tại trường tồn với thời gian trong giáo phận Bùi Chu. 
            Với những đường nét tinh xảo chạm trổ cỏ cây, hoa lá, muôn thú, chim 
            chóc, ṭa ḿnh thánh, ṭa đặt tượng Chúa, Đức Mẹ và các thánh uy 
            nghi trên bậc tam cấp. Những đường nét mềm mại tinh xảo tới mức du 
            khách tưởng tượng được tạo ra bởi bàn tay các thợ kim hoàn chứ không 
            phải thợ trạm khắc. Rất nhiều đoàn thợ, đoàn tham quan đă đến đây 
            chụp ảnh, lấy mẫu với hy vọng làm sản phẩm tương tự nhưng đều bó tay, 
            kính phục. Hơn một trăm năm trước kíp thợ nào, ở đâu, theo mẫu thiết 
            kế nào mà tạo được tác phẩm nghệ thuật tuyệt tác như vậy? Ở đây c̣n 
            lưu giữ tượng Đức Mẹ và Thánh Gioan Tông đồ - Quan thầy bằng ngà - 
            Hiền từ, thánh thiện theo phong cách Á Đông, các tượng các thánh 
            bằng gỗ là những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời. Trên các ṭa vàng là 
            ṿm cong với bầu trời đầy sao tượng trưng cho thiên đường nơi Chúa 
            ba ngôi ngự trị - lư tưởng của mọi người Kitô hữu. Trên các bàn thờ 
            là hệ thống đèn nến trạm trổ tinh vi có một không hai trong hệ thống 
            các nhà thờ cổ.  Chúng ta rất tiếc hiện không c̣n lưu giữ được tài liệu về quá 
            tŕnh xây dựng nhà thờ. Tương truyền rằng gạch xây được nung bằng 
            rơm rạ, móng được đầm bằng cho trâu giẫm và đóng cọc tre, những cây 
            gỗ lim dài hàng chục mét, các tảng đá được vận chuyển bằng sức người. 
            Và như vậy chúng ta mới thấy được công lao to lớn của ông bà tổ tiên 
            xứ đạo nghèo với vài chục gia đ́nh.  Là họ lẻ thuộc xứ Tương Nam, nhà thờ là nơi tập trung cầu nguyện 
            của họ giáo sáng, trưa, chiều, tối, nơi cử hành lễ trong các ngày 
            theo lịch của cha xứ, ngày lễ kính Thánh Quan thầy...  Nơi đây c̣n là nơi trú ẩn của họ giáo trong những ngày mưa băo, 
            lụt lội, do sông Hồng đe dọa xóm nghèo. Mỗi khi băo gió nổi lên, 
            tiếng trống ngũ liên (năm tiếng) đổ dồn thôi thúc, giáo dân trẻ con, 
            phụ nữ, người già dắt nhau đến nhà thờ nhờ Đức Mẹ ấp ủ, che chở. Và 
            những ngày chiến tranh giặc giă tràn về, bom đạn đùng đùng trên bầu 
            trời, giáo dân ôm nhau chạy vào nhà thờ tụ tập, an ủi, nương tựa vào 
            nhau, cầu xin b́nh an trong tay Chúa và Đức Mẹ. Nhiều lần khi bị 
            giặc vây ráp, du kích, bà con, làng xóm chạy vào ẩn nấp trong nhà 
            thờ, được giáo dân giúp đỡ đùm bọc, cưu mang. Không một ai bị tố 
            giác, bắt bớ, hành hạ, tù đầy khi chạy vào nhà thờ. Với những lời 
            cầu khẩn của con chiên, một trăm năm qua với bao cuộc chiến tranh 
            giặc giă, vây hăm, bắt bớ phụ nữ, với nhiều lần bom đạn, hỏa hoạn 
            trút xuống xóm đạo nhưng Nhà thờ vẫn là nơi an toàn tuyệt đối, không 
            một ḥn tên, mũi đạn nào rơi vào khu nhà thờ. Hồng ân Chúa và Đức Mẹ 
            ban.  Từ trong nhà thờ bước ra, du khách sẽ gặp hệ thống hàng hiên, bao 
            lơn thoáng mát, ḍng không khí trong lành ùa vào mang theo hương lúa, 
            hương bưởi, hương chanh, hương hoa xoan mùa hạ. Mặt trời rực rỡ trên 
            những hàng cây, đồng lúa xanh rờn, màu mỡ. Một bức tranh làng quê 
            mộc mạc muôn màu sắc tạo cho mỗi người một cảm giác b́nh yên, lâng 
            lâng và thánh thiện.  Những người đi xa quê hương mỗi lần về quê được tham dự thánh lễ 
            tại Nhà thờ, cha vẫn cử hành thánh lễ theo nghi thức. Nhưng nh́n các 
            cụ già gần trăm tuổi, các cháu nhi đồng mắt đen tṛn, các bà, các 
            chị áo dài muôn màu, các anh chị ca đoàn với thánh ca đơn sơ, mộc 
            mạc... không ồn ào, đông đúc như những nhà thờ lớn ở Sài G̣n, Hà Nội… 
            nhưng vẫn thấy trang nghiêm, ấm áp một cách lạ lùng.  2. Hai gác chuông:  Đứng xa từ phía cuối nhà chúng ta nh́n thấy hai gác chuông sừng 
            sững cao mấy chục mét, soi bóng dưới mặt hồ trong xanh (kỷ lục về 
            chiều cao thời bấy giờ). Hai gác chuông ở giữa là cuối nhà thờ tạo 
            thành một quần thể - một điểm nhấn vững vàng như niềm tin sắt đá của 
            giáo họ. Tương truyền rằng gác chuông được xây sau nhà thờ khoảng 10 
            năm, khánh thành năm 1920. Trên hai gác chuông treo hai quả chuông, 
            mỗi quả nặng hàng mấy tạ, đươc cha Thập và Cụ cố trùm Trương Can đặt 
            mua từ Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ 20 (trong đó ḍng họ Vũ cúng tiến 
            một quả). Đây là một trong những đôi chuông to c̣n tồn tại trong 
            giáo phận Bùi Chu. Khi chuông cất lên tiếng thanh, tiếng trầm ngân 
            nga, thánh thót rộn ràng thôi thúc ḷng người cầu nguyện. Một bản 
            nhạc tuyệt vời vang rộng cả một vùng rao truyền tin mừng Thiên Chúa.
             Cho tới ngày hôm nay một câu hỏi vẫn được đặt ra, chỉ với vật 
            liệu gạch, vôi, vữa, gỗ, tre nứa thô sơ, ông bà tổ tiên xóm đạo 
            nghèo với vài chục hộ dân làm thế nào đă xây dựng, vận chuyển, lắp 
            đặt được 2 quả chuông to lên độ cao mấy chục mét. Lấy đâu đủ tiền 
            bạc để nhập khẩu được đôi chuông ấy trong điều kiện vừa thoát khỏi 
            cấm đạo? Không ǵ khác ngoài Hồng ân Thiên Chúa và nhân đức tin, cậy, 
            mến.  Liền hai gác chuông là dăy nhà quán cư gồm 9 gian nhà gỗ lợp ngói 
            (nay đă bị dỡ bỏ, không c̣n). Đây là kho cất giữ kiệu, đ̣n, kèn, 
            trống và các dụng cụ nhà thờ phục vụ thờ phượng Chúa.  3. Nhà pḥng:  Nằm riêng biệt ở phía đầu nhà thờ. Nhà pḥng được xây dựng sau 
            nhà thờ và hai gác chuông, kiến trúc mang dáng dấp nhà biệt thự kiểu 
            Pháp, sang trọng, có vườn cây với hai cây nhăn lồng cổ thụ (nay 
            không c̣n). Đây là nơi ăn nghỉ của các cha khi có dịp về nhà thờ ban 
            thánh lễ, là nơi hội họp của họ giáo. Nơi chứng kiến bao thăng trầm, 
            vui buồn của họ đạo qua các thời kỳ.  4. Khu vực quanh nhà thờ:  Bao gồm hệ thống sân gạch, bao lơn, tường bao quanh nhà thờ, hồ 
            nước, vườn hoa, cây cảnh... tất cả tạo thành một không gian thoáng 
            mát, thơ mộng, thanh b́nh và thành kính nơi thờ phượng Chúa.  5. Các kiệu:  Hiện nhà thờ c̣n lưu giữ được 3 bộ kiệu sơn son thiếp vàng: kiệu 
            bành, kiệu gọng vó, kiệu hoa. Đây là một trong những bộ kiệu c̣n giữ 
            nguyên vẹn thuộc địa phận Bùi Chu, là những tác phẩm tuyệt vời trong 
            ngành trạm trổ. Hàng năm vào những ngày lễ kính thánh Quan thầy, 
            ngày lễ trọng, những buổi rước kiệu được tổ chức uy nghi, trang 
            nghiêm theo nghi thức tôn giáo cổ truyền. Đây là ngày hội lớn của 
            giáo dân giáo họ.  Đi trước và sau kiệu là những bộ chiêng trống, cờ ảnh cổ giữa hội 
            đoàn công giáo với những trang phục thướt tha, lộng lẫy đủ màu. 
            Những thanh niên trai tráng khiêng kiệu trong lễ phục thêu ren cổ, 
            theo kiểu lễ phục cung đ́nh, nhịp nhàng theo điệu nhạc kèn trống 
            trong tiếng hát câu kinh rộn ràng, thành kính.  Những bài ca, tiếng hát là những lời cầu khẩn xin b́nh an dâng 
            lên Chúa và Đức Mẹ.  6. Hai cột cờ:  Nhà thờ c̣n lưu giữ được 2 cây cột cờ, mỗi cây cao vài chục mét 
            bằng gỗ quư. Trong giáo phận Bùi Chu đây là 2 cột cờ duy nhất c̣n 
            tồn tại nguyên vẹn. Hàng năm vào dịp lễ Giáng sinh, kính thánh Gioan 
            Quan thầy ngày dựng cờ là ngày hội của giáo dân: tất cả thanh niên 
            nam nữ, thiếu nhi, các cụ già... theo tiếng chuông, tiếng trống thúc 
            giục cùng nhau ḥ reo kẻ kéo, người khiêng ... dựng cờ. Khi cây cờ 
            thẳng đứng, lá cờ đại rộng 36m2 được kéo lên, mọi người mới thở phào 
            nhẹ nhơm, nụ cười rạng rỡ trên môi. Mừng sự thành công, vui mừng 
            trong ngày lễ thánh. Cây cờ sừng sững như tuyên xưng đức tin. Niềm 
            tự hào của giáo dân họ Xối Thượng.  Tất cả các công tŕnh trên được xây dựng trong những điều kiện vô 
            cùng khó khăn, vừa thoát khỏi sắc cấm đạo, vừa nghèo khó thiếu thốn 
            đủ bề. Hôm nay nh́n lại chúng ta thấy chỉ có đức tin vững vàng, ơn 
            Chúa, Đức Mẹ và Thánh Gioan Quan thầy, các Cha xứ, các bề trên, chỉ 
            dẫn, ông bà tổ tiên chúng ta đă làm nên kỳ tích. Để lại công tŕnh 
            cho con cháu muôn đời.  Chúng ta tri ân cộng đồng dân chúa họ giáo Xối Thượng, giáo xứ 
            Tương Nam đă không tiếc thân xác, cả máu, công của bao thế hệ đă hy 
            sinh để xây dựng Nhà thờ. Tri ân những cụ cựu trùm, những người đă 
            gánh vác phục vụ giáo họ, đặc biệt là cụ cố trùm Gioan Vũ Ngọc Can - 
            Trương Can người đầu tiên đặt nền móng xây dựng nhà thờ, ḍng họ Vũ 
            đă luôn tâm huyết, ủng hộ tài chính, tài trợ giúp đỡ xây dựng nhà 
            thờ trong 100 năm qua.  Các cụ cố trùm thời kỳ đầu xây dựng nhà thờ gồm:  1. Cụ cố trùm Gioan Vũ Can (Cụ Trương Can);  2. Cụ cố trùm Gioan Phạm Đ́nh Hán (Cụ Trùm Hán);  3. Cụ cố trùm Gioan Phạm Văn Biểu (Cụ Trùm Biểu);  4. Cụ cố trùm Gioan Nguyễn Văn Tựu (Cụ Trùm Tựu);  5. Cụ cố trùm Gioan Vũ Ngọc Cuông (Cụ Cửu Cuông);  6. Cụ cố trùm Gioan Phan Văn Hợp (Cụ Trùm Hợp);  7. Cụ cố trùm Gioan Vũ Rong (Cụ Trùm Rong);  8. Cụ cố trùm Gioan Nguyễn Văn Tứ (Cụ Trùm Tứ);  9. Cụ cố trùm Gioan Nguyễn Văn Phán (Cụ Trùm Phán);  10. Cụ cố trùm Gioan Phạm Văn Tùy (Cụ Trùm Tùy);  11. Cụ cố trùm Gioan Phạm Ngọc Mây (Cụ Trùm Mây);  12. Cụ cố trùm Gioan Phạm Văn Hóa (Cụ Trùm Hóa);  13. Cụ cố trùm Gioan Phạm Thế Vân (Cụ Trùm Vân).  Ngay từ thời kỳ đầu trong giáo họ có bà Maria Vũ Thị Mùi (Bà Tư 
            Khiết sinh năm 1878 mất 1964) con gái cụ cựu trùm Trương Can là quản 
            hội Nghĩa b́nh thánh thể là thành viên Hội truyền giáo địa phận Bùi 
            Chu mà ngôi nhà c̣n lại duy nhất của Bà nằm cạnh nhà thờ trên cổng 
            đề 1931. Nhờ hồng ân Thiên Chúa, chăm lo cầu nguyện, nuôi dạy nghĩa 
            binh, phục vụ giáo hội bà được Ṭa thánh Vaticăng do Đức giáo hoàng 
            ban tặng Sắc vàng của Ṭa thánh - Đây là niềm vinh dự của gia đ́nh, 
            ḍng họ Vũ, giáo họ nói riêng và giáo xứ nói chung.  Ông bà tổ tiên ta sau khi phải chạy trốn, bị bức hại do sắc cấm 
            đạo trở về đă quy hoạch, xây dựng xóm đạo quy mô, trù phú và giầu có 
            thời bấy giờ. Mô h́nh xây dựng được chọn là: Quy hoạch theo từng khu 
            của từng ḍng họ. Một quy hoạch tiên tiến dưới thời vua chúa của 
            Việt Nam bấy giờ.  Điển h́nh là quần thể ḍng họ Vũ được quy hoạch ở phía Bắc nhà 
            thờ rộng hàng mấy hecta. Kiến trúc bao gồm nhà, cột gỗ lim, mái 
            cong, hệ thống nhà, tường xây, kèo gỗ, lợp ngói mũi và có cả nhà hai 
            tầng (nhà cụ cố trùm Chánh Sự, Cửu Cuông) hiện đại. Nhiều dăy nhà 
            quây quần được nằm trong tường rào, muốn vào phải qua ba bốn lần 
            cổng, giữa một hệ thống ao hồ rộng mêng mông với cầu ao, bến đá, 
            vườn cây cổ thụ, cây ăn trái xum xuê, chim muông rủ nhau về làm tổ, 
            hót véo von khi hè về thu sang. Một không gian thơ mộng của người 
            giàu có thời bấy giờ. Trong nhà là sập gụ, tủ chè, án thư, câu đối... 
            đầy đủ tiện nghi theo kiểu vua quan truyền thống của Việt Nam.  Phía tây nhà thờ là khu nhà ngói khép kín h́nh chữ môn của ḍng 
            họ Phạm, kín cổng cao tường, ngăn ngừa nạn cướp phá. Trong quần thể 
            cũng xuất hiện ngôi nhà hai tầng, kiến trúc theo kiểu thành phố, 
            kiểu Pháp với dáng dấp hiện đại (nhà cụ cố trùm Vân) chứng tỏ chủ 
            nhân của ngôi nhà đă tiếp thu, giao tiếp rộng răi.  Phía Nam là quần thể ḍng họ Phan với những nhà gỗ lim, lợp lá 
            gồi, xen lẫn những dăy nhà xây hiện đại. Xa một chút là quần thể 
            ḍng họ Nguyễn với những khu nhà được xây dựng riêng biệt liền kề: 
            Ông bà, bố mẹ ở khu trung tâm, các con được phân thành thửa đất 
            riêng biệt (mỗi thửa khoảng 1 đến 2 sào Bắc Bộ) nằm liền kề thành 
            một quần thể ḍng họ tập trung. Ngoài nhà gỗ lim, lợp lá, ở đây đă 
            xuất hiện kiều nhà tường xây cao, thoáng mát, rộng răi, kèo tre hoặc 
            gỗ, lợp lá, cửa sổ rộng, cửa đi lớn. Sân gạch, bể chứa nước mưa, ao 
            thả cá... Tiếp theo là quần thể ḍng họ Trần, họ Bùi và các họ khác.
             Ruộng đất ph́ nhiêu, hầu hết tập trung vào nhà giàu. Nhiều gia 
            đ́nh phải làm thuê, cấy rẽ. Nếu chỉ sống bằng nghề nông chắc xóm đạo 
            không thể phát triển nhanh và trù phú như vậy. Các cụ đă chọn cho 
            ḿnh một con đường làm giàu riêng: Thương nghiệp (buôn bán) cụ thể 
            là buôn bán hàng làm thổ sản: tre, gỗ, nứa, chè ... và nhiều sản 
            phẩm của rừng được thu mua tận gốc từ Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà 
            Giang... được đóng bè, thả trôi theo sông Hồng cập bến tại Cổ Lễ bán 
            buôn, bán lẻ cho các thương gia khắp vùng. Đôi khi các cụ c̣n sang 
            tận Trung Quốc buôn bán, giao lưu. Chính nhờ những cuộc giao lưu 
            tiếp xúc rộng răi với nền văn minh của Pháp, Trung Quốc, tiếp xúc 
            với Hà Nội, Hải Pḥng và nhiều thành phố khác nên học được cách làm 
            giàu và tiếp thu nền văn minh. Kinh tế phát triển nhanh ở xóm đạo 
            này, có gỗ lớn xây dựng nhà thờ, nhà ở, thuê được những thợ lành 
            nghề tài ba, xây dựng quê hương.  Ngoài làm ruộng, buôn bán xóm đạo c̣n phát triển nghề dệt vải, 
            thêu ren, kéo sợi... Nghề dệt vải vẫn tồn tại đến ngày hôm nay, h́nh 
            ảnh những cô thôn nữ thắt đáy lưng ong ngồi bên khung cửi, khuôn mặt 
            thánh thiện của người Kitô hữu với những tà áo dài thướt tha tô đậm 
            thêm vẻ đẹp cho xóm đạo.  Kinh tế các ḍng họ ổn định, khá giả v́ vậy nạn đói năm 1945 (Ất 
            Dậu) cả nước có hơn 2 triệu người chết đói, ở xóm đạo này không có 
            gia đ́nh, người nào chết đói mà nhà thờ c̣n là nơi tế bần cứu đói 
            cho nhiều người từ vùng khác đến. Đấy là nhờ Hồng ân Thiên Chúa.  Nhờ sớm tiếp thu với văn hóa mới, nhờ kinh tế phát triển ổn định, 
            xóm đạo đầu tư cho con cháu học hành chữ Nho, tiếng Pháp, chữ quốc 
            ngữ. Nhiều người đỗ đạt cao thời bấy giờ trở thành công chức, quan 
            lại thời Pháp thuộc, nhiều thanh niên giác ngộ t́nh nguyện tham gia 
            cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc trở thành những sỹ quan, cán 
            bộ các cấp.  Cuộc sống văn hóa tinh thần sớm h́nh thành thú chơi cây cảnh, 
            nuôi chim, cá cảnh, thả diều, ca hát... sớm phát triển ngay từ đầu 
            thế kỷ 20. Tất cả tạo thành một không gian lăng mạng, thanh b́nh. 
            Rất tiếc sự khắc nghiệt của thời gian, toàn bộ những dấu tích trên 
            đă bị xóa nḥa, phôi pha hết.  Nh́n lại lịch sử 100 năm qua có lẽ đây là thời kỳ sơ khai, nhiều 
            biến động khó khăn nhất. Chính niềm tin vào Thiên Chúa, cha ông ta 
            đă làm nên kỳ tích: xây dựng xóm đạo trở thành hưng thịnh và giàu có 
            trong vùng.  C - THỜI KỲ KHÓ KHĂN  
            (1955 - 1987)  Xóm đạo đang sống trong b́nh yên, êm ả. Cuộc kháng chiến chống 
            Pháp đă lan tỏa vào xóm đạo với việc xây đồn lính Pháp tại thị trấn 
            Cổ Lễ. Rồi những trận càn, xe tăng, xe lội nước, súng đại bác đă làm 
            rung chuyển lũy tre làng, nỗi ám ảnh sợ hăi trong từng khóe mắt trẻ 
            thơ, trong từng gia đ́nh.  Ác liệt nhất vào năm 1953: giặc Pháp kéo đến tàn phá đốt hết cả 
            làng. Đàn ông, con gái phải chạy xa làng tránh bị hăm hại, bị bắt 
            làm tù binh. Buổi sáng bỗng dưng súng nổ đùng đùng, khói lửa ngút 
            trời bốc cao, tiếng đàn bà, trẻ con gào thét, cố chạy khỏi làng, 
            tránh khỏi ngọn lửa thiêu trụi. Chạy ra cánh đồng đầu làng, ḷng đau 
            như cắt nh́n về làng khói lửa mịt mùng đang thiêu đốt nhà cửa, thóc 
            gạo, tài sản, hoa màu, vật nuôi... thành tro bụi. Đến chiều tối khi 
            ngọn lửa đă tàn, giáo dân trở về làng, tất cả kinh hoàng, những cột 
            gỗ lim trơ trụi, tiếng gào thét, nước mắt, sức cạn kiệt trước cảnh 
            hoang tàn. Tất cả các nhà cửa làng biến thành tro bụi, chỉ c̣n mấy 
            ngôi nhà ngói. Tương lai mù mịt trong làn khói, không nhà, không 
            lương thực, thực phẩm, không quần áo, sống bằng ǵ?  Những đêm đầu tiên, nhà thờ, nhà pḥng, quán cư là nơi tá túc của 
            hàng chục gia đ́nh giữa mùa đông. Theo điều răn yêu người của Chúa, 
            các nhà ngói c̣n lại mở cửa cho họ đạo vào tá túc, rạ rơm thay cho 
            chăn màn, trẻ con rúc ngủ trong đống rơm rạ. Thức ăn của những ngày 
            đầu là lợn, gà bị chết, cháy rụi... Cơ cực trăm phần, giáo dân lại 
            lá lành đùm lá rách giúp nhau nhặt cây que c̣n sót lại dựng tạm 
            những túp lều cạnh những bức tường trơ trụi cháy c̣n sót lại. Ơn 
            Chúa và Đức Mẹ, cầu bầu của Thánh Quan thầy xóm đạo dần dần hồi sinh. 
            Cơm cháo độn ngô, khoai, sắn qua ngày nhưng vẫn sốt sắng cầu nguyện 
            Chúa.  Chưa kịp hoàn hồn đại họa cháy nhà, một năm sau 1954 một cuộc di 
            cư vào Nam khiến xóm đạo tiêu điều, chia ly. Người ra đi chui lủi, 
            bí mật, lặng lẽ. Người ở lại hoang mang dao động. Gia đ́nh ḍng họ 
            phân ly, vợ xa chồng, con cái ĺa cha mẹ. Khoảng 50% gia đ́nh, giáo 
            dân rời bỏ quê hương ruộng vườn, nhà cửa thân yêu vào miền Nam xây 
            dựng cuộc sống mới. Xóm làng tiêu điều, lạnh lẽo, hoang vắng, nhiều 
            nhà bỏ không, dột nát, cỏ mọc ùm tùm.  Ḥa b́nh vui v́ không khí tưng bừng không c̣n tiếng bom đạn, 
            tiếng súng. Nhưng nỗi buồn chia ly, cuộc sống thiếu thốn đă đè nặng 
            trong mỗi gia đ́nh. Giao lưu buôn bán, nghề phụ - nguồn làm giàu 
            chính của xóm làng không c̣n nữa. Với số ruộng ít ỏi, năng suất thấp 
            không đủ ăn, giáo dân chụm đầu cầu nguyền và cơm cháo qua ngày.  Năm 1956 cải cách ruộng đất ở miền Bắc. Với chính sách của Nhà 
            nước lấy ruộng đất, nhà cửa, tài sản của người giầu (địa chủ) chia 
            cho người nghèo (bần cố nông). Người nghèo phấn khởi có ruộng đất, 
            trâu cày, người giàu phải lao động vất vả làm lại cuộc sống từ đầu.
             Mô h́nh kiến trúc quần thể theo ḍng họ bị phá vỡ thay vào mô 
            h́nh nông thôn mới như ngày nay. Những ngôi nhà giữa vườn cây um tùm, 
            sân đ́nh, cầu ao giếng nước, chim muông, cây cảnh, vườn hoa... chỉ 
            c̣n trong hoài niệm của những người yêu quê hương.  Có ruộng, có trâu cày bà con chăm chỉ làm ăn. Ít lâu sau năm 1958 
            Nhà nước có chủ trương xây dựng hợp tác xă nông nghiệp: toàn bộ 
            ruộng vườn, trâu ḅ, tư liệu sản xuất tập trung vào hợp tác xă cùng 
            làm, cùng hưởng. Bà con giáo dân phấn khởi gia nhập hợp tác xă với 
            hy vọng đổi đời xây dựng cuộc sống tốt đẹp, sung sướng. Nhưng do 
            phương thức canh tác lạc hậu, tŕnh độ quản lư yếu kém, nóng vội 
            nặng nề h́nh thức: sáng, trưa, tối đi làm theo tiếng kẻng của đội, 
            ăn công, tính điểm... Kết quả công nhiều, thóc ít, chăn nuôi tập thể 
            tốn kém và không hiệu quả.  Vừa thoát khỏi chiến tranh, Nhà nước đă chú ư đến công tác giáo 
            dục. Nhưng cơ sở vật chất hầu như không có ǵ. Các lớp học được bố 
            trí ở nhà thờ, đ́nh chùa, nhà dân,... ngồi đất, đặt sách lên ghế. Cả 
            xă Nam Ninh (tên gọi lúc đó) chỉ có một trường cấp I (lớp 1, 2, 3, 
            4) với tổng số 4 lớp. Cả huyện Nam Trực có một trường cấp 2 (lớp 5, 
            6, 7) với tổng số 10 lớp đặt tại chợ Chùa, đi học phải đi bộ xa tới 
            10km, cả tỉnh Nam Định có 2 trường cấp 3 (lớp 8, 9, 10): Lư Tự Trọng 
            và Lê Hồng Phong đặt tại thành phố Nam Định. V́ vậy con em giáo dân 
            đa phần chỉ học hết lớp 3, lớp 4. Thế hệ hiện nay c̣n sống khoảng 65 
            - 70 tuổi là những minh chứng sống cho thời kỳ này.  Niềm vui lớn nhất của dân tộc nói chung và họ giáo nói riêng là 
            được sống và cầu nguyện trong ḥa b́nh không có tiếng bom, tiếng 
            súng. Bằng lao động cần cù, làm ruộng, dệt vải, buôn bán,... cuộc 
            sống của nhân dân trong đó có giáo dân dần dần được cải thiện, vào 
            năm 1961 nhà thơ Tố Hữu đă viết “... Chào 61 (1961) đỉnh cao muôn 
            trượng...”. Trong làng, trong xă đă có nhiều con em cần cù chăm chỉ 
            chịu khó đi bộ hàng chục km để học cấp II tại Nam Trực - Trực Ninh. 
            Nhiều người đă trở thành công chức, công nhân của Nhà nước, đi học 
            nghề, trung cấp, giáo viên tại các thành phố: Hà Nội, Hải Pḥng, 
            Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hà Bắc,.... Bộ mặt nông thôn đă thay dổi 
            bởi dáng dấp của văn minh đô thị, xây dựng trường học, bệnh xá, hợp 
            tác xă thủ công (dệt vải), tiếng thoi đưa suốt ngày đêm vang dột xóm 
            làng. Ngày chủ nhật, ngày lễ thánh quan thầy trẻ em đă có áo mới, 
            chị em phụ nữ thướt tha trong tà áo dài. Cuộc sống mới đă nảy mầm, 
            hồi sinh.  Khoảng một nửa giáo dân của xóm đạo đă bỏ lại ruộng vườn, nhà cửa, 
            làng mạc, xóm giềng vào xây dựng quê hương mới: Miền Nam. Những ai 
            đă xa quê mới thấy được những khó khăn, vất vả, nỗi nhọc nhằn cô đơn 
            khi phải bắt đầu xây dựng làm quen với cuộc sống mới nơi xứ người xa 
            lạ cách hàng ngàn km. Sau mấy năm ổn định cuộc sống, giáo dân Xối 
            Thượng tại Miền Nam đă liên lạc, tụ tập thành lập Họ đồng hương Xối 
            Thượng phía nam tại xóm mới; quận G̣ Vấp. Hàng năm đến ngày lễ thánh 
            Gioan Quan thầy, bà con tụ tập găp mặt cầu nguyện kính Thánh Gioan 
            Quan thầy hướng về quê hương cầu nguyện b́nh an, ḥa b́nh, thống 
            nhất hai miền. Mong ngày đoàn tụ sum họp. Cộng đoàn giáo dân đă cùng 
            nhau chia sẻ, giúp đỡ, động viên nhau những lúc xa quê. Chính từ đây 
            đă là đầu mối liên hệ thông thương giúp đỡ nhau giữa hai miền Nam 
            Bắc.  Năm 1964, máy bay Mỹ bắt đầu ném bom tàn phá miền Bắc. Bắt đầu 
            một cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử Việt Nam. Thanh 
            niên công giáo lên đường đi bộ đội, thanh niên xung phong chiến đấu 
            bảo vệ Tổ quốc. Ở hậu phương giáo dân vừa lao động vừa sẵn sàng 
            chiến đấu. Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng. Hầm hố khắp 
            nơi trong nhà, ngoài đường, cạnh lớp học, ngoài cánh đồng. Cuộc sống 
            vô cùng khó khăn vất vả. Thời chiến tất cả theo chế độ tem phiếu.
             Gian khổ là vậy nhưng Nhà thờ vẫn là nơi tập họp cầu nguyện của 
            giáo dân sáng, trưa, chiều, tối. Giáo dân với niềm tin sắt đá vào 
            Thiên Chúa, siêng năng cầu nguyện cho b́nh an, ḥa b́nh và thống 
            nhất.  Chiến tranh tàn khốc, ăn không đủ no, áo không đủ mặc nhưng phong 
            trào học tập hăng say trong nhân dân nói chung và học sinh công giáo 
            nói riêng. Hầu hết con em đă được cấp sách đến trường, học ngày học 
            đêm dưới đèn dầu leo lét, máy bay Mỹ gầm rú trên đầu th́ chạy vào 
            hầm, máy bay đi xa lại học tập. Và từ đấy tŕnh độ văn hóa của giáo 
            dân được nâng lên, nhiều thanh niên đă rời quê hương làm việc, sinh 
            sống tại các thành phố lớn: Hà Nội, Hải Pḥng, Quảng Ninh, Thái 
            Nguyên,.... Cá biệt có những thanh niên công giáo đi học đại học của 
            trường đại học lớn trong nước, học đại học ở nước ngoài (châu Âu). 
            Tạo thành một thế hệ công giáo Họ Xối Thượng ở các tỉnh khác sau này. 
            Sống và làm việc xa quê nhưng luôn hướng về quê hương với tấm ḷng 
            thành kính.  Trong những năm đầy khó khăn, sóng gió, chiến tranh tàn khốc này, 
            giáo dân với ḷng tin sắt đá vào Thiên chúa, cầu nguyện, giữ ǵn bảo 
            tồn ngôi thánh đường không bị hư hại, xâm phạm, không có điều kiện 
            xây dựng thêm. May mắn không một quả bom, ḥn tên mũi đạn nào xâm 
            phạm nhà thờ, con cháu giáo dân họ Xối Thượng ở hai miền Nam - Bắc 
            không một ai bị tử trận ở chiến trường như là một minh chứng của 
            Hồng Ân Thiên Chúa, sự phù hộ của Đức Mẹ và Thánh Gioan Quan thầy. 
            Chúng ta xin tạ ơn Chúa, Đức Mẹ, Thánh Quan thầy về Hồng ân vô cùng 
            to lớn này. Trong thời kỳ gian khổ này, cùng với giáo họ, các cố 
            trùm, cựu trùm đă kế tục, phục vụ lời Chúa bảo vệ, giữ ǵn nhà thờ:
             14. Cụ cố trùm Gioan Vũ Ngọc Tấn;  15. Cụ cố trùm Gioan Trần Văn Tận;  16. Cụ cựu trùm Gioan Vũ Văn Quế;  17. Cụ cựu trùm Gioan Hoàng Văn Định.  Bằng công lao phục vụ lời Chúa của ḿnh, các cụ cố trùm Gioan Vũ 
            Ngọc Tấn và Gioan Trần Văn Tận được Giáo phận Bùi Chu tằng bằng Ghi 
            ân. Cụ Maria Hoàng Thị Nhật được nhận bằng Ghi ân của Giáo phận Bùi 
            Chu.  Họ giáo đồng hương miền Nam cựu trùm Gioan Nguyễn Văn Phát là 
            người bỏ nhiều công sức tập họp, phục vụ lời Chúa, giúp đỡ quê hương 
            cùng giáo dân phía Nam suốt từ năm 1954 đến nay và các ông trùm trẻ 
            hiện nay vẫn tiếp tục phát huy ủng hộ giáo họ theo tinh thần ấy.  D - GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN  
            (1988-2009)  Năm 1975 nước nhà thống nhất. Hai miền Nam - Bắc thông thương. 
            Giáo dân hai miền gặp nhau, mừng mừng, tủi tủi. Những giọt nước mặt, 
            những nụ cười... sau bao năm xa cách. Gặp nhau ôn lại những kỷ niệm 
            xưa, kẻ mất, người c̣n. Hơn hai mươi năm một thế hệ mới, con cháu đă 
            trưởng thành, nhiều người định cư ở nước ngoài: Mỹ, Anh, Pháp, Úc... 
            Họ Xối Thượng vươn cánh tay lớn rộng răi và phong phú hơn. Các thế 
            hệ con cháu họ giáo Xối Thượng đă sinh sống làm việc không chỉ ở quê 
            hương mà c̣n ở hầu hết các thành phố cả nước: Hà Nội, Sài G̣n, Hải 
            Pḥng, Đà Nẵng, Biên Ḥa, Nha Trang, Lâm Đồng, Vũng Tàu, Lào Cai, 
            Yên Bái, Quảng Ninh... và nhiều nước trên thế giới: Mỹ, Úc, Anh, 
            Pháp, Nhật Bản, Châu Âu... Tất cả đều quy tụ hướng về quê hương. Bất 
            kỳ ở đâu trong nước hay ngoài nước, không phân biệt già trẻ, gái 
            trai, dâu rể... Một ḷng một dạ thờ phượng Chúa, kính Thánh quan 
            thầy, kẻ góp của, người góp công, tất cả đồng ḷng chung sức xây 
            dựng Thánh đường quê hương. V́ vậy một loạt công tŕnh đă được tu bổ, 
            xây dựng mới.  1. Dỡ nhà Quán cư, sửa nhà pḥng: Được thực hiện vào năm 1988. 
            Nhà Quán cư (nối giữa 2 gác chuông) do thời gian xuống cấp, mục nát, 
            giáo dân đă quyết định dỡ bỏ lấy gỗ, gạch, ngói vật tư sửa lại Nhà 
            pḥng cũng bị xuống cấp, mục nát. Những người xa quê lâu trở về sẽ 
            không nh́n thấy dấu vết nhà Quán cư trước đây nữa.  2. Lát lại gạch toàn bộ sân nhà thờ: Sân nhà thờ lâu ngày hỏng, 
            lầy lội nay được sửa chữa lát mới (1988).  3. Tôn sân bông: Để tiện việc tham dự lễ của giáo dân, họ giáo 
            quyết định tôn sân phần cuối nhà thờ lên cao 0,3 mét. Sau này làm 
            xong do phá mất cảnh quang sân cuối nhà thờ nên lại quyết định dỡ bỏ. 
            Điều này giúp cho việc t́m thấy hài cốt của các thánh tử v́ đạo 
            (1988).  4. Xây bờ hồ: Trước đây xung quanh hồ ở cuối nhà thờ, bờ đắp bằng 
            đất. Giáo dân quyết định xây lại bờ hồ bằng gạch cho khang trang 
            sạch đẹp. Mặt trời lên 2 gác chuông, nhà thờ lung linh soi bóng dưới 
            mặt hồ thơ mộng và trang nghiêm (1988).  5. Mua máy nổ, đàn nhạc, hệ thống loa đài cho nhà thờ: Công tŕnh 
            được thực hiện vào năm 1990. Nhằm mục đích tăng thêm ḷng thành kính, 
            trang nghiêm, phong phú trong khi cầu nguyện, được sự hỗ trợ của họ 
            đồng hương miền Nam, hệ thống điện, loa đài hoạt động đều chủ động. 
            Ca đoàn của giáo họ được thành lập rất sớm. Đầu tiên do bà Hoàng Thị 
            Đại - Trưởng ca đoàn. Bà Trần Thị Tận làm Phó ca đoàn. Các thế hệ 
            trẻ của giáo họ luôn hăng say luyện tập, kế tiếp đứng đầu là ông 
            Gioan Phan Văn Kính, Gioan Phạm Văn Sơn (1990).  6. Tạc mới tượng chịu nạn, đóng quan tài kính phục vụ tưởng niệm 
            ngày Chúa Giêsu chịu nạn (1994).  7. Xây đài các Thánh tử v́ đạo: Đài kính thánh mẫu Maria được xây 
            trên phần ruộng cũ nằm về phía đông xa nhà thờ. Đây là công tŕnh 
            lớn được đầu tư xây dựng thời bấy giờ. Công tŕnh được thực hiện vào 
            năm 1995  8. Lát đá hoa gian cung thánh: Công tŕnh được hoàn thành vào năm 
            1995. Hai gian cung thánh được tôn tạo lại, lát đá hoa khang trang 
            tôn kính.  9. Xây cầu, làm đường vào nhà thờ, đường xóm: Công tŕnh được 
            hoàn thành vào năm 1996. Để phục vụ giáo dân đi lại cầu nguyện, rước 
            kiệu các ngày lễ, hệ thống đường xá vào nhà thờ, đường, xóm được bê 
            tông hóa, khang trang, sạch sẽ chấm dứt t́nh trạng lụt lội mấy chục 
            năm.  10.T́m thấy hài cốt của các đấng tử đạo: Từ bao đời nay giáo dân 
            vẫn truyền miệng nhau ở khu vực quanh nhà thờ có thi hài của các 
            thánh tử đạo. Nhưng ở dâu? Chôn khi nào? Bao nhiêu vị?... vẫn là một 
            ẩn số và bao thế hệ trước vẫn cầu nguyện và ao ước t́m thấy các ngài. 
            Nhờ Hồng ân Thiên Chúa đă t́m được 14 vị. Đă bảo quản, làm thủ tục 
            đưa các vị về đài. Đây là một phép lạ, một Hồng ân vô cùng lớn lao 
            của Thiên chúa với giáo họ. Đây là một dấu ấn chứng minh sự tồn tại 
            của xóm đạo đă mấy trăm năm nay. Đây là dấu ấn của Đức tin mănh liệt 
            vào Thiên Chúa. Các vị đă chịu khổ h́nh đến chết để chứng minh cho 
            Đức tin đó. Việc t́m thấy thi hài các ngài đă làm thỏa ḷng mong ước 
            của bao thế hệ đi trước, bao công lao xây dựng nhà thờ. Một dấu ấn 
            vô giá để thế hệ muôn đời sau sống xứng đáng trong đức tin, đức cậy, 
            đức mến - làm sáng danh Chúa (1999).  11. Lát đá hoa trong và hiên nhà thờ: Được sự sốt sắng tài trợ 
            của ḍng họ Vũ do ông Gioan Vơ Quang Đôn đại diện, trong nhà thờ và 
            hai hàng hiên đă được lát gạch hoa khang trang, sạch sẽ thay cho 
            gạch cũ trước đây. Ḍng họ Vũ c̣n tài trợ sơn son thiếp vàng lại 14 
            ḍng thánh giá (2000).  12. Đại tu hai gác chuông: Do giăi dầu mưa nắng hàng trăm năm, 
            hơn nữa trong điều kiện phương tiện thi công thủ công, vật tư, vật 
            liệu, thiếu thốn nên hai gác chuông nhà thờ xuống cấp có nguy cơ sụp 
            đổ, giáo họ đă quyết định thuê thợ lành nghề đại tu toàn bộ phần 
            trong, phần ngoài, gác chuông đảm bảo vững chắc, an toàn (2004).  13. Đổ sân bê tông, vườn hoa cây cảnh khu tượng đài Đức Mẹ: Sau 
            khi t́m được thi hài các thánh tử đạo, các Ngài được chuyển về yên 
            nghỉ tại chân đài Đức Mẹ, giáo họ bỏ công sức sửa chữa tôn tạo đại 
            Đức Mẹ trang nghiêm, sạch đẹp (2005).  14. Đóng ghế mới trong nhà thờ: Toàn bộ ghế trong nhà thờ được 
            sửa chữa, đóng mới đủ chỗ để giáo dân ngồi khi tham dự thánh lễ 
            (2005).  15. Khôi phục hoạt động của đội trống: Cho đến ngày hôm nay hoạt 
            động tốt (2005).  16. Cổng họ Xối Thượng: Công tŕnh được xây dựng năm 2007.  17. Tượng đài Thánh Visente: Công tŕnh trang nghiêm được xây 
            dựng năm 2008 thể hiện ḷng thành kính của giới trẻ họ giáo cùng 
            thực. Sự đóng góp của giáo dân Nam Bắc.  18. Xây tường hoa đài Đức Mẹ, tôn tạo vườn hoa cây cảnh: Tạo cảnh 
            quan sạch đẹp trang nghiêm cả một vùng phục vụ khách tham quan thập 
            phương, được thực hiện năm 2008.  19. Lát đá hoa lại gian Cung thánh và đóng mới bục gỗ (2009).  20. Họ giáo Xối Thượng đồng hương ở các tỉnh phía Nam:  Rời quê hương vào miền Nam, vượt qua những khó khăn gian khổ, nỗi 
            đau thương mất mát xa quê. Họ giáo đồng hương miền Nam được h́nh 
            thành rất sớm. Hàng năm vào ngày kính thánh Gioan quan thầy, giáo 
            dân lại tập trung đọc kinh cầu nguyện xin Chúa ban b́nh an và ơn 
            phúc lành cho giáo dân hai miền Nam - Bắc, đồng thời cùng nhau giúp 
            đỡ ủng hộ xây dựng tôn tạo nhà thờ ở quê hương.  Không có điều kiện xây dựng nhà thờ riêng. Giáo dân đă thay nhau 
            rước tượng thánh quan thầy về từng gia đ́nh, từng năm, tạo nên địa 
            điểm hội tụ, gặp gỡ, cầu nguyện hàng năm.  Từ sau ngày nước nhà thống nhất năm 1975 đến nay, giao lưu hai 
            miền được mở rộng thường xuyên. Trong khi miền Bắc c̣n gặp nhiều khó 
            khăn về kinh tế, giáo dân ở miền Nam, ở hải ngoại đă ủng hộ công đức 
            rất nhiều góp phần rất lớn xây dựng các công tŕnh trên. Đặc biệt 
            hai công tŕnh lớn: Đài các thánh tử v́ đạo và Cổng họ Xối Thượng 
            cùng nhiều công tŕnh khác thông qua ông cựu trùm Gioan Nguyễn Văn 
            Phát và ông Phan Văn Thiện. Đây là sự giúp đỡ vô cùng lớn lao và 
            hiệu quả.  Riêng bà Maria Lê Thị Toản (Vợ ông Gioan Vũ Mạnh Xuân ở Tân Phú - 
            Thành phố Hồ Chí Minh) người con dâu của giáo họ là một trong những 
            người đóng góp ủng hộ Họ giáo, làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo ở 
            địa phương và nhiều xứ khác.  Tất cả các công tŕnh đồ sộ trên đây đánh dấu sự phát triển của 
            họ giáo trong thời kỳ này (1988-2009)  Để hoàn thành 22 công tŕnh trên, giáo dân họ giáo Xối Thượng ở 
            hai miền Nam Bắc và Hải ngoại đă đóng góp rất nhiều công sức, ủng hộ 
            vật chất, tiền bạc. Theo điều răn của Chúa và lời dạy của Đức Cha, 
            Cha Chánh xứ, các ông cựu trùm, các ông trùm, Ban hành giáo đă phục 
            vụ thay mặt giáo dân trong từng thời gian của thời kư phát triển này:
             18. Ông cựu trùm Họ đồng hương Miền Nam Gioan Nguyễn Văn Phát;
             19. Ông cựu trùm Gioan Phan Văn Ṭng;  Cựu trùm hai Gioan Hoàng Văn Tiền;  20. Ông cựu trùm Gioan Bùi Văn Th́n;  Cố trùm hai Gioan Nguyễn Văn Hiên;  Cựu trùm hai Gioan Hoàng Văn Thiệp;  21. Ông Cựu trùm Gioan Phạm Ngọc Lân;  Cựu trùm hai Gioan Phan Văn Kính;  22. Ông trùm Gioan Nguyễn Văn Hiệp;  Trùm hai Gioan Nguyễn Văn Lệ.  Sau lễ kỷ niệm 100 năm khánh thành Nhà thờ, các ông trùm tiếp 
            theo phục vụ cùng giáo dân trong nước và Hải ngoại, các ḍng họ ủng 
            hộ hoàn thành tiếp một số công tŕnh để Nhà thờ Xối Thượng ngày càng 
            khang trang thịnh vượng. Đó là công tŕnh xây dựng nhà lớn để trưng 
            bày, bảo quản các bộ kiệu, chiêng trống, cờ, ảnh… của Nhà thờ, Nhà 
            giáo lư, trùng tu đài các Thánh tử đạo, nhà pḥng, hoàn thiện cầu, 
            cổng tiền, cổng hậu Nhà thờ, cải tạo bờ hồ, làm các bia tưởng niệm…
             Do lịch sử xa xưa hàng ngàn năm để lại, thôn Xối Thượng, xă Nam 
            Thanh gồm giáo dân đạo Thiên Chúa và lương dân đạo Phật cùng chung 
            sống trong t́nh thương yêu, đùm bọc, đoàn kết thực sự. Đây là mô 
            h́nh nổi bật về đoàn kết lương giáo của quê hương. Hàng bao thế hệ, 
            bao đời từ ông bà tổ tiên đến bây giờ, truyền thống đoàn kết luôn 
            được giữ ǵn, nâng niu. Chính quyền các cấp luôn tạo điều kiện thuận 
            lợi giúp đỡ giáo dân, nhà thờ. Ngược lại giáo dân luôn cố gắng sống 
            tốt đời, đẹp đạo trong ánh sáng Chúa Kitô. Cùng giúp nhau xây dựng 
            quê hương giàu đẹp, thanh b́nh. Chúng ta cám ơn chính quyền, đoàn 
            thể các cấp, đồng bào lương dân luôn đồng hành cùng chúng ta chèo 
            chống qua những khó khăn, thăng trầm của cuộc sống, của lịch sử. Cầu 
            xin và giữ ǵn t́nh đoàn kết, nồng ấm quê hương làng xóm trường tồn 
            muôn đời.  KẾT LUẬN  Hơn hai ngàn năm trước Chúa Giêsu xuống thế làm người, từ 12 
            Thánh tông đồ theo Ngài, trải qua bao thăng trầm, đến năm 2008, trên 
            Trái đất đă có hơn 2 tỷ người theo Kitô giáo (Riêng Công giáo là 
            1,15 tỷ người), 1,3 tỷ người theo Hồi giáo và 0,9 tỷ người theo Phật 
            giáo. Riêng ở Việt Nam có hơn 6 triệu người theo đạo Công giáo. Điều 
            đó chứng tỏ đạo Công giáo phát triển rất nhanh ở khắp các Châu lục 
            và sẽ tồn tại măi măi cùng xă hội loài người.  Nh́n lại một trăm năm qua những giáo dân của họ giáo Xối Thượng ở 
            miền Bắc, Nam, Hải ngoại đều tự hào về quê hương ḿnh, nhờ Hồng ân 
            của Thiên Chúa, Đức Mẹ Maria và Thánh Gioan quan thầy, các Thánh tử 
            v́ đạo-Những người đă đặt nền móng, hy sinh v́ đức tin, gieo mầm cho 
            niềm tin sinh hoa kết trái như ngày hôm nay. Tự hào các Đấng, thay 
            mặt Chúa, các Đức Cha thuộc Giáo phận Bùi Chu, các cha chánh xứ 
            Tương Nam, các thầy, các d́, các tu sĩ qua bao thời đại thăng trầm 
            đă vững tay chèo dẫn dắt đoàn chiên theo chân Chúa.  Chúng ta tri ân các ban hành giáo, các cố trùm, cựu trùm, trùm 
            qua mọi thăng trầm, biến cố của thời đại đă không quản ngại khó khăn, 
            hy sinh phục vụ Chúa, phục vụ họ giáo. Tri ân tấm ḷng của giáo dân 
            họ giáo gần xa miền Bắc, miền Nam, hải ngoại đă không tiếc của, tiếc 
            công, bằng tấm ḷng thành đóng góp xây dựng quê hương, thánh đường. 
            Đặc biệt ḍng họ Vũ - người đă đặt nền móng xây dựng nhà thờ là cố 
            trùm Gioan Vũ Can tức cụ Trương Can sinh năm 1855 mất 15/5/1937 và 
            các thế hệ sau đă công đức rất nhiều thông qua ông Gioan Vũ Quang 
            Đôn làm đại diện để tôn tạo, xây dựng nhà thờ.  Dưới ánh sáng Chúa Kitô, Thánh Gioan quan thầy và các Thánh phù 
            hộ, hy vọng hàng trăm, hàng ngàn năm sau các thế hệ tiếp theo sẽ 
            viết tiếp những trang sử huy hoàng rực rỡ về giáo họ Xối Thượng.  Theo sự hướng dẫn của Cha quản hạt, Cha chánh xứ, sự giúp đỡ, góp 
            ư của Ban hành giáo và cộng đồng dân Chúa hai miền Nam Bắc, Ban biên 
            soạn đă cố gắng chỉnh sửa hoàn thành cuốn sách này. Nhưng do điều 
            kiện và khả năng có hạn, chúng tôi không có ư định biên soạn lịch sử 
            họ giáo Xối Thượng, mà chỉ thống kê một số sự kiện và các công tŕnh 
            xây dựng. Chắc c̣n nhiều thiếu sót, xin được lượng thứ và góp ư.  Nguồn : DungLac.org   |  |