| Gò Tháp Mười 
 
 Cập nhật lúc 6:50:18 PM - 17/09/2010(Tiếp theo và hết) Bài và ảnh: Trần Công Nhung
 
 
  
 Bàn Thờ ĐBK và THD
 
 
 Điểm đầu tiên là nền 
Tháp Mười Tầng (thời Đệ Nhất Cộng Hòa), tôi thấy chỉ còn mấy tảng xi 
măng cốt sắt nằm lăn lóc dưới gốc mấy đại thụ (Trôm Sộp). Trên nền có 
che mái một khoảnh  làm nơi hương khói. Với nền tháp rộng lớn như vầy, 
thì tháp 10 tầng hẳn là đồ sộ lắm. Lên tầng 10 chắc chắn bao quát hết 
vùng Đồng Tháp. Vào thập niên 50, với 3 buổi đại nhạc hội mà có được 
công trình như thế thật đáng phục. Ngày nay “tiền rừng bạc bể” liệu làm 
nổi chăng. Giờ đây tàn tích hoang phế ngổn ngang lại được xem như một 
chiến thắng.
 
  
 Di tích Tháp 10 tầng
 
 Cô Hương cho biết: Gò Tháp rộng 
chừng 4.500m2, cách mặt nước biển Hà Tiên 5m047. Tương truyền trên gò có
 ngôi chùa tên Tháp Cổ Tự, từ thời Thiệu Trị 1841-1847 (theo hình dạng 
Tháp Linh Mụ Huế). Năm 1956, để chuẩn bị khai quật nền tháp, Tháp Cổ Tự 
dời về phía Bắc 100m, gọi là chùa Tháp Linh. Năm 1998, nền Cổ Tự chính 
thức khai quật, tìm thấy một nền gạch cổ (chừng 200m2). Nghiên cứu cho 
biết đây là nền của Đền hoặc Tháp có dưới thời vương quốc Phù Nam (thế 
kỷ I – VI sau công nguyên). Di chỉ gồm nhiều mảnh Linga, Yoni... từ thế 
kỷ XV.
 
 
  
 Miếu, mộ Hoàng Cô
 
 Điểm 2 là mộ và miếu Hoàng Cô, 
theo dân địa phương, miếu này thờ bà Nguyễn Phúc Hồng Nga, em gái của 
vua Gia Long, trong lúc nhà Vua chạy qua Sa Đéc, thì bà ở lại và qua đời
 tại đây (2). Mộ của Hoàng Cô qua thời gian chỉ còn tảng đá lớn đầu mộ, 
nấm mộ do dân chúng đắp bằng những viên đá trứng cỡ nắm tay vun cao lên.
 Hiện các nhà nghiên cứu vẫn còn đang trong quá trình tìm hiểu về lịch 
sử cũng như mộ táng của vị công chúa này.
 - Sự tích thì xưa nhưng ngôi miếu như mới xây?
 - Dạ, miếu cổ làm bằng tranh tre nên đã mục nát, miếu mới xây năm 2007. Mộ thì có từ thời Nguyễn.
 - Cạnh mộ dưới một gốc cây có bát nhang và một cái mu rùa, nghĩa là sao?
 - Theo dân chúng ở đây nói, hồi trước có con rùa sống bên mộ Hoàng Cô, 
nên khi rùa chết, người ta lấy mai (rùa) để thờ. Ngày trước dân ở rải 
rác quanh đây, năm 2000 có qui hoạch khu di tích, phải di dời dân đi nơi
 khác.
 Trước mộ Hoàng Cô có cái giếng gạch, giếng này do dân đào thấy, đó là di
 tích văn hóa Óc Eo (3). Để không bị xâm phạm người ta xây thành giếng 
cao gần 1m.
 
 
  
 Chùa Tháp Linh
 
 Điểm thứ 3 là chùa Tháp Linh. 
Ngôi chùa xây mới hoàn toàn, lối kiến trúc không như các chùa thường 
thấy, hai tầng mái trên dưới bằng nhau chứ không dưới lớn trên nhỏ. Vào 
chánh điện đi qua đài Quán Thế Âm như kiểu phương đình, bốn cột có rồng 
cuốn, trên đỉnh có tượng Phật đản sanh. Điều lạ là hai rồng trên nóc mái
 lại mình rồng đầu rắn. (phải chăng rắn thần Thái Lan?). Nhìn chung, màu
 sắc và cách trang trí chùa Tháp Linh quá rườm rà hoa mắt, trái với tinh
 thần “không tịch” của Phật giáo. Chùa đang kinh kệ chuông mõ nhân ngày 
húy kỵ các  vị trụ trì quá cố: Thích Minh Châu, Thích Thanh Trí và cũng 
là dịp đón vị tân trụ trì Thích Minh Bửu.
 Điểm thứ 4 là đền thờ Thiên Hộ Dương và Đốc Binh Kiều (4). Đây là hai vị
 anh hùng đã khởi nghĩa chống Pháp (1862-1866). Gò Tháp là bản doanh của
 hai ông, trong trận đánh quyết liệt cuối cùng hai ông đã hy sinh. Thi 
hài hai vị anh hùng được nghĩa quân mai táng tại đây. Đền thờ ngày 
trước, qua thời gian đã hư hại nặng, năm 1991 người dân Đồng Tháp đóng 
góp xây dựng Đền mới.
 Từ ngoài nhìn vào, tổng thể ngôi đền tuy không “đồ sộ” kiểu du lịch phô 
trương, nhưng trang nghiêm. Tam quan vào Đền đơn giản cổ kính, mái hai 
tầng, có câu đối hai bên. Mặt tiền tường xây không cao, trang trí giản 
dị. Khuôn viên Đền khá rộng, Đền ẩn mình dưới nhiều cây cao bóng mát 
(sao, dầu). Ngay trước cửa điện thờ, có tượng lớn của hai vị anh hùng 
trong tư thế tuốt gươm xung trận. Tượng sơn trắng, nét tượng rắn rỏi và 
nghệ thuật, tượng tạc năm 1995. Tôi hỏi cô hướng dẫn:
 - Hai tượng không khác nhau, vậy làm sao phân biệt cháu?
 - Dạ tượng trên là Đốc Binh Kiều (vung tay chỉ huy), dưới là Thiên Hộ 
Dương. Hồi đầu chỉ có tượng Đốc Binh Kiều, tượng này nay đặt trong phòng
 quản lý.
 Trong Đền, phía trước là bàn thờ Hội Đồng có bài vị ghi:
 
 "Trời đất Việt Nam, Cao Huyền Cổ Tổ, Cửu Huyền trăm họ,
 Tổ Tiên chánh giáo Việt Nam tuyệt diệu,
 duy tâm thức điện chánh tín luật huyền thiện."
 Câu đối hai bên cột từ ngoài vào:
 Bia miệng lưu truyền tiếng Đốc Binh
 Sử xanh sáng chói danh Thiên Hộ
 
 Hai câu treo hai cột trong:
 
 Oai chấn dòng Nhật Tảo
 Linh động thảo Tháp Mười
 
 Tiếp theo sau bàn thờ Hội Đồng, hai bên là bàn Tiên Hiền, Hậu Hiền, giữa
 là thờ hai vị anh hùng, có hai tượng đồng bán thân màu đen. Hai câu đối
 treo sát hai bên hương án:
 
 Cần Lố súng gươm trừ phản tặc (trái)
 Tháp Mười gang thép giữ thành đồng (phải)
 
 Hai câu đối trên hai cột ngoài:
 
 Một thuở phất cao cờ đại nghĩa (trái)
 Ngàn năm vang vọng chí anh hùng (phải)
 
 
  Di tích gò Minh Sư
 
 Nhìn chung sự thờ phượng không 
rườm rà mà nhiều ý nghĩa. Một nhận xét nhỏ: Giảm bớt “thùng góp quĩ 
phụng tự”, và không nên đặt ngay trước bàn thờ, như vậy dễ coi hơn.
 Điểm năm: Gò Minh Sư là do sự tích trước năm 1930, có một vị đạo sĩ đến 
lập chùa tu tại đây. Vì không có đệ tử nên khi đạo sĩ viên tịch, không 
ai trông coi, theo thời gian chùa bị hủy hoại. Từ đó gò có tên Minh Sư. 
Gò Minh Sư rộng  khoảng 1.500m2 cao 4,311mét so với mặt nước biển. Năm 
2002 – 2003, Ts Nguyễn Thị Liên và đoàn khảo cổ, đến thăm dò biết còn 
nhiều di tích. Ngày 23 – 06-2009, Gò Minh Sư được khai quật một diện 
tích 900 m2, các nhà khảo cổ nhận định: “Có thể đây là nền của đền, tháp
 thờ tự, thuộc về vương quốc Phù Nam”.
 Điểm cuối là miếu Bà Chúa Xứ mới xây năm 1995, miếu cổ nằm trên nền tháp
 cổ khai quật năm 1984, thuộc nền văn hóa Óc Eo. Trong dân gian Đền Bà 
Chúa Xứ ở Núi Sam Châu Đốc được biết nhiều hơn và có tiếng “linh thiêng”
 hơn.
 Hơn tiếng đồng hồ, cô hướng dẫn làm việc với tinh thần cởi mở và vui vẻ,
 nhờ vậy trời nắng nóng đi bộ từ điểm này qua điểm kia, tôi thấy không 
có gì mỏi mệt. Trở lại văn phòng, tôi gửi tí quà cho Hương và cô cũng 
biếu anh em chúng tôi mỗi người mấy tập tài liệu về Gò Tháp. Việc làm 
này tôi ít khi gặp. Hương còn dặn thêm: “Nếu chú có gì thắc mắc cứ email
 hay điện thoại cho cháu”.
 Gò Tháp Mười vừa là di tích nền văn hóa cổ của vương quốc Phù Nam, vừa 
là dấu vết công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của người Việt dưới 
thời chúa Nguyễn. Đến để có dịp nhìn lại những trang sử oanh liệt, những
 ngày tháng chống ngoại xâm oai hùng của tổ tiên; để thấy tinh thần yêu 
nước kiên cường không hề khuất phục trước bất cứ bạo lực nào, dù chỉ với
 tầm vông gậy gộc.
 Đó là ý nghĩa lịch sử đã qua, còn hiện trạng thì mọi thứ đều mới, cũng 
như nhiều nơi khác, khi hoàn tất công trình tôn tạo thì dấu vết di tích 
cũng mất luôn, chùa Tà Cú Phan Thiết, chùa Bà Đanh huyện Kim Bảng Hà 
Nam(5), tiếng thì xưa mấy thế kỷ, nhưng sau khi “tôn tạo” thì mới hoàn 
toàn.
 
 
  
 Đền thờ hai vị anh hùng.
 
 Trần Công Nhung
 06- 2010
 
 (1). Theo tư liệu của Bảo tàng Đồng Tháp: sách Gia Định thành thông chí 
gọi vùng nầy là Vô-tà-ôn, Chằm Lớn và Lâm Tẫu. Sách Đại nam nhất thống 
chí gọi vùng này là chằm Măng Trạch và hồ Pha Trạch. Trong bản đồ của 
Pháp năm 1862, vùng này được ghi là Plaine inonde’e couverte d’ herbe 
(Cánh đồng nước ngập cỏ), về sau họ ghi gọn lại là Plaine des Joncs ( 
Đồng cỏ lác).
 Đời Tự Đức trong các châu bản gọi vùng này là “Thập Tháp”. Sau đó, tờ công báo của Nam kỳ thuộc địa gọi là “Tháp Mười”.
 (2). Có thể đặt nghi vấn: Sau khi vua Gia Long đã thống nhất sơn hà, 
không lý để em mình năm trơ nơi xa xôi này, lại mộ như của một kẻ vô 
thừa nhận?
 (3) Các nhà khảo cổ trong các lần khai quật di chỉ Gò Tháp vào các năm 
1984, 1993 đã phát giác ra nhiều di vật của nền văn hóa Óc Eo dưới lòng 
đất cát pha sét, có niên đại cách đây trên 15 thế kỷ. Các tượng thần của
 Hindu giáo như Vishinu, Ganesa, Shiva và các mẫu vật sành sứ, ấm chén, 
khuôn đúc nữ trang hiện được trưng bày tại bảo tàng Đồng Tháp. Mộ táng 
bảy lớp và chín lớp bằng gạch kết dính có hoa văn tám cánh thể hiện bốn 
phương, tám hướng trùng khớp theo la bàn tạo ra sự bí ẩn chưa được khám 
phá. Có một số cọc gỗ chìm dưới lớp đất 2 đến 3m. Người ta cho rằng đó 
là dấu vết nhà sàn của một cụm dân cư cổ sống trong vùng rún lũ, mà Gò 
Tháp là nơi tập trung.
 (4). Võ Duy Dương (1827 - 1866), còn gọi là Thiên hộ Dương do giữ chức 
Thiên hộ, là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Đồng Tháp Mười. Khi thực dân Pháp 
xâm lược chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ, ông đã đứng lên sát cánh với Thủ
 Khoa Huân khởi nghĩa ở Định Tường (1861). Về sau ông lại tham gia, kết 
hợp với Trương Định đánh Pháp. Năm 1864, Trương Định hy sinh, ông cùng 
Đốc Binh Kiều lập căn cứ Đồng Tháp Mười tiếp tục kháng chiến.
 Võ Duy Dương sinh năm 1827 tại thôn Cù Lâm Nam, huyện Tuy Viễn, trấn 
Bình Định nay là thôn Nam Tượng I, xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình
 Định. Tổ tiên của Võ Duy Dương là Võ Hữu Man từ miền Bắc vào thôn Nam 
Tượng lập nghiệp, đến Võ Duy Dương là đời thứ 6. Cha của Võ Duy Dương là
 Võ Hữu Đức. Hậu duệ, cháu nội ông là Võ Quế - 85 tuổi (1989). Thủa nhỏ 
Võ Duy Dương có thể chất cường tráng, thông minh và giỏi võ nghệ. Nhà 
nghèo ông phải đi chăn trâu. Về sau có một vị quan địa phương thương 
tình nhận làm con nuôi. Tương truyền, trong một kỳ thi võ nghệ, ông cử 
được một lúc 5 trái linh, mỗi trái nặng 60 cân (hai tay xách 2 trái, hai
 nách kẹp 2 trái, răng cắn 1 trái), nên từ đó người ta gọi ông là “Ngũ 
Linh Dương”. Năm 1857, hưởng ứng chính sách lập đồn điền của triều Tự 
Đức, Võ Duy Dương vào Nam tìm đến đất Ba Giồng, ven Đồng Tháp Mười chiêu
 mộ dân chúng khẩn hoang lập ấp, và trở thành một hào phú ở địa phương.
 Sau khi Gia Định thất thủ, tháng 4-1861 Pháp đánh chiếm Mỹ Tho, Võ Duy 
Dương cùng Thủ Khoa Huân kéo lực lượng về Gia Định đánh Pháp. Vì vậy, 
ông được phong chức Chánh Quản Đạo. Thất trận ở Gia Định, ông vượt biển 
về kinh, bái yết vua Tự Đức hiến kế đuổi giặc. Ông được điều về Quảng 
Nam dẹp cuộc nổi dậy của người Thạch Bích (mọi Vách Đá) và được phong 
hàm Chánh Bát Phẩm Thiên Hộ.
 Tháng 5-1861, ông được sung vào phái bộ của Khâm phái Quân vụ Đỗ Thúc 
Tịnh vào Nam với nhiệm vụ chiêu mộ nghĩa quân chống ngoại xâm. Ông đóng 
quân ở Bình Cách, liên kết với Trương Định ở Gò Công, Trần Xuân Hòa (phủ
 Cậu) ở Thuộc Nhiêu và Đỗ Thúc Tịnh ở Mỹ Quí.
 Võ Duy Dương lãnh đạo nghĩa quân lấy Đồng Tháp Mười là vùng rừng đầm 
lầy, hiểm trở ở Nam bộ thời bấy giờ làm căn cứ. Ông cho Trần Trọng Khiêm
 xây dựng đại đồn ở Gò Tháp, trên ba con đường ra ngoài có 3 đồn: Tiền, 
Tả, Hữu án ngữ. Ngoài ra còn nhiều đồn nhỏ khác đóng xung quanh bảo vệ 
khu căn cứ. Từ đây, nghĩa quân dùng chiến thuật du kích đánh Pháp trên 
cả một vùng rộng lớn từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Đồng Tháp, gây cho đối 
phương nhiều tổn thất.
 Giữa lúc lực lượng nghĩa quân đang  một lòng quyết chiến, triều đình Huế
 ký hiệp ước Nhâm Tuất ngày 5-6-1862, nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ 
cho Pháp. Ngay sau đó, triều đình Huế buộc các tổ chức kháng chiến của 
nghĩa quân phải hạ khí giới, bãi binh. Không tuân lệnh, ông bị triều 
đình tước binh quyền và lùng bắt. Về sau, Nguyễn Hữu Huân rồi Trương 
Định lần lượt hy sinh trong công cuộc kháng Pháp, Võ Duy Dương cùng với 
các nghĩa sĩ khác như Nguyễn Tấn Kiều (tức Đốc binh Kiều, phó tướng), 
Trần Kỳ Phong, Thống Binh, Lãnh Binh Dương, Thương Chấn, Thống Đa, Quản 
Văn, Quản Là... vẫn không nản lòng, càng tổ chức đánh Pháp quyết liệt 
hơn.
 (5) Chùa Bà Đanh làm lại (trên 10 tỉ) nhưng tam quan xưa biến mất, cây đại cổ mấy trăm năm trước cổng chùa cũng không còn.
 
 Sách đã in: Quê Hương Qua Ống Kính tập 1 đến tập 10, Buồn Vui Nghề Chơi 
Cây Kiểng, Mùa Nước Lũ (Truyện), Về Nhiếp Ảnh, Thăng Trầm (chuyện buồn 
vui một đời người), sách dày trên 200 trang, có 8 phụ bản ảnh màu và cả 
trăm ảnh đen trắng.
 
 Độc giả muốn có sách xin Liên lạc: Tran Cong Nhung  P.O.Box 254 Lawndale, CA. 9026 -  email:trancongnhung@yahoo.com, Website: www.ltcn.net
 |