| Di tích văn hóa - lịch sử quốc gia Thạch
 Động Phạm Nguyễn Du ở thôn Tiên Lạc, xã Nghi Xuân, Nghi Lộc, Nghệ An. 
Ngoài nhà thờ và mộ, có 3 di tích khác gắn với cuộc đời của Hoàng giáp 
Phạm Nguyễn Du là Thạch Động, Tiên Nhân Thạch (đá Người Tiên) thì nay đã
 gần như xóa hết, chỉ còn Hải Thủy Hồ (Hồ nước biển) cũng chỉ là một đầm
 sen nhỏ. 
  
 
 Theo nhiều ghi chép của các vị túc nho 
và cả trong tác phẩm của Phạm Nguyễn Du mô tả, thì Thạch Động, Tiên Nhân
 Thạch, Hải Thủy Hồ là những kỳ quan độc nhất mà tạo hóa ban tặng nơi 
đây. 
 Thủa còn hàn vi, Hoàng giáp Phạm Nguyễn 
Du đã đến đây làm nơi học, giảng sách, vui thú với thiên nhiên và làm 
thơ đặt tên cho “ngôi biệt thự tự nhiên” này, nào là cầm đài (nơi gảy 
đàn), điếu cơ (chỗ ngồi câu), trà song (cửa ngồi uống trà), thi bích 
(vách đề thơ), tửu sàng (giường uống rượu), kỳ cuộc (nơi ngồi đánh cờ), 
thư giá (giá gác sách), tiên tọa (chỗ tiên ngồi)… Ông tự vịnh và cho 
rằng trời dành sẵn cho mình cả “cơ ngơi” tuyệt vời đó. Còn Hải Thủy hồ 
xưa thông ra biển và cả sông Lam, Phạm Nguyễn Du thường chống bè ngao du
 trên hồ và ông cũng có hẳn bài phú “Thừa sà du hồ” (Cưỡi bè chơi hồ). 
Tiến sỹ Dương Thúc Hạp trong tập thơ địa chí “An Tĩnh sơn thủy vịnh” đã 
dành 3 bài thơ vịnh về 3 di tích này: Lập Thạch sơn, Tiên Nhân sơn và 
Hải Thủy hồ, đồng thời được cụ nghè Dương chú dẫn cặn kẽ sau mỗi bài 
thơ. 
 Chúng tôi về thăm di tích, được ông Phạm
 Văn Hà, một hậu duệ của Phạm Nguyễn Du đang trông coi di tích cho hay, 
cách nay khoảng mấy chục năm (khoảng những năm 70), cụm di tích Lập 
Thạch Sơn, gồm cả Thạch Động và đá Người Tiên này còn khá nguyên vẹn, 
vẫn còn những “phòng học” bằng đá tự nhiên thành các dãy bàn học, các 
phiến đá khác trong hang như trong bài thơ của cụ hết sức sinh động, ly 
kỳ. 
 Nhưng chỉ trong khoảng vài chục năm trở 
lại đây bị người dân vào lấy đá về làm nhà, nay di tích Lập Thạch chỉ 
còn lại khoảng 1/10 và không còn hình dung được một nét đẹp của khi xưa.
 Ông Hà còn kể rằng, bà con trong dòng họ được người già truyền ngôn cho
 biết, nguồn gốc họ Phạm này vốn từ ngoài Hải Dương phiêu tán vào đây, 
cụ tổ đã chọn Lập Thạch và Hải Thủy hồ làm nơi sinh kế. Một đêm bà mẹ 
của cụ Hoàng giáp ra múc nước trên hồ bỗng thấy một ánh sao từ Thạch 
Động chiếu vào, sau đó bà sinh được một bé trai khôi ngô và thông minh 
từ rất nhỏ, người cha cũng thấy khác thường bèn đặt tên Khiêm Vỹ và tin 
rằng lớn lên sẽ làm rạng danh cho gia tộc. 
 Từ đó đá Người Tiên còn gọi đá Thần Đồng
 như gắn với sự tích này. Chính Phạm Nguyễn Du cũng lấy Thạch Động làm 
tên hiệu và tự ví mình như tiên. Theo tài liệu chính sử, ông nổi tiếng 
thần đồng, học một biết mười, thi lần đầu đã đậu, năm 1777 ông đậu hội 
nguyên Hoàng giáp, làm quan dưới triều Lê-Trịnh trải nhiều chức tước cao
 như Đốc đồng Nghệ An, hàn lâm viện, đô sát viện, có thời cầm quân dẹp 
loạn xứ Thuận Quảng và đi sứ sang Tàu…Khi quân Tây Sơn ra chiếm Bắc Hà, 
ông bỏ vào rừng và bị giết. Ông cũng là một kẻ sỹ “sinh bất phùng thời”,
 là anh rể của Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnh và đều cùng có một kết 
cục bi thảm bởi quân Tây Sơn. Vợ đầu của Hoàng giáp Phạm Nguyễn Du là 
chị gái Cống Chỉnh nhưng mất sớm và cả hai người đều làm bài phú để ai 
điếu, người thì khóc vợ, người khóc chị nhưng cả hai bài phú này đều 
được đương thời xếp vào những bài phú điếu hay nhất. 
 Phòng VHTT tổng hợp
 |