Lê Hy Tông
Lê Hy Tông | |
---|---|
Hoàng đế Việt Nam (chi tiết...) | |
Vua nhà Hậu Lê | |
Tại vị | 1675 – 1705 |
Tiền nhiệm | Lê Gia Tông |
Kế nhiệm | Lê Dụ Tông |
Thái thượng hoàng nhà Hậu Lê | |
Tại vị | 1705 – 1716 |
Tiền nhiệm | Lê Thần Tông |
Kế nhiệm | Lê Dụ Tông |
Thông tin chung | |
Tên húy | Lê Duy Cáp, Lê Duy Hiệp |
Niên hiệu | Vĩnh Trị (1676-1680) Chính Hoà (1680-1705) |
Thụy hiệu | Chương Hoàng Đế (章皇帝) |
Miếu hiệu | Hy Tông |
Triều đại | Nhà Hậu Lê |
Thân phụ | Lê Thần Tông |
Thân mẫu | Trịnh Thị Ngọc Trúc hoặc Trịnh Thị Ngọc Tấn |
Sinh | 1663 |
Mất | 1716 Việt Nam |
An táng | Phú Lăng, Thanh Hóa, Việt Nam |
Lê Hy Tông (chữ Hán: 黎熙宗; 1663–1716) tên húy là Lê Duy Cáp (黎維祫)[1] hay Lê Duy Hiệp[2] là vua thứ 10 nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.
Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]
Lê Duy Hiệp là con thứ tư của Lê Thần Tông với cung nhân Trịnh Thị Ngọc Trúc[1] hay Trịnh Thị Ngọc Tấn[2], sinh ra sau khi vua cha đã mất (9/1662) khoảng 5 tháng. Theo ghi chép của Khâm định Việt sử thông giám cương mục, mẹ ông người xã Đông Khối, huyện Gia Định (tức huyện Gia Bình sau này), không phải tộc thuộc của họ Trịnh ở Sóc Sơn[2]. Trước khi qua đời, Lê Thần Tông dặn Tây vương Trịnh Tạc trông nom giúp đỡ người con sắp ra đời.
Tháng 4 năm 1675, anh Duy Hiệp là Lê Gia Tông qua đời khi mới 14 tuổi không có con nối. Trịnh Tạc lập Duy Hiệp lên làm vua, tức là Lê Hy Tông.
Làm vua[sửa | sửa mã nguồn]
Lê Hy Tông lên ngôi từ tháng 6 năm 1675. Lúc này chiến tranh với họ Nguyễn ở miền nam đã chấm dứt, cả hai miền lo củng cố nội trị.
Công việc chính sự triều đình đều do các chúa Trịnh đảm nhận. Chúa Trịnh Tạc và người kế nghiệp sau đó là Trịnh Căn tập trung xây dựng Bắc Hà, dùng nhiều tướng văn võ có năng lực nên tình hình Đàng Ngoài khá ổn định, đời sống xã hội được chấn hưng sau nhiều năm chiến tranh. Thời kỳ Lê Hy Tông làm vua được đánh giá là thịnh trị nhất thời Lê trung hưng[3].
Bộ Đại Việt sử ký toàn thư - công trình sử học của sử gia nhiều đời nhà Hậu Lê - được khắc mộc bản ban hành năm Chính Hòa thứ 18 (1697).
Sau 30 năm làm vua, tháng tháng 3 năm 1705[4], Lê Hy Tông nhường ngôi cho thái tử Lê Duy Đường lên làm thái thượng hoàng.
Ông qua đời tháng 4 năm 1716, hưởng thọ 54 tuổi, được an táng tại Phú Lăng, xã Phú Lâm, huyện Đông Sơn, thuộc Thanh Hóa.
Niên hiệu[sửa | sửa mã nguồn]
Đời Hy Tông đặt hai niên hiệu là;
- Vĩnh Trị (1/1676 đến 9/1680)
- Chính Hòa (10/1680 đến 3/1705).
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Đại Việt sử ký toàn thư
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục
- Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (2001), Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh niên
Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a ă Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản kỷ Tục biên 19
- ^ a ă â Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Chính biên quyển thứ 33
- ^ Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, sách đã dẫn, tr 206
- ^ Âm lịch
|