Tuần Việt Nam xin trân trọng gửi đến bạn đọc bài viết này.
Mỗi
năm vào một ngày mùa xuân, người dân tộc thiểu số sống trên những triền
núi xanh rì ở miền Bắc Việt Nam lại mặc trang phục đẹp nhất của họ và
đi xuôi xuống một nơi để tham gia lễ hội xuân của họ: Chợ tình Khâu Vai.
|
Bên bàn rượu. (Ảnh: Lovea7cva) |
Chính ở
nơi đây mà người phụ nữ H’mông tên Nhung gặp chồng mình, năm bà mới 17
tuổi. Bây giờ đã lên ngôi bà, trùm lên vai chiếc khăn kẻ ô xanh, bà bảo
từ bấy đến nay năm nào bà cũng đi Khâu Vai. “Tôi mong đến ngày họp chợ
lắm. Năm nào chúng tôi cũng tới đây gặp bạn” – bà nói, giữa phiên chợ
đông đúc, nườm nượp người.
Những
buổi sinh hoạt đông người như thế đã một thời rất phổ biến ở các cộng
đồng dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam - người Dao, Lôlô, Giáy,
H’mông. Địa hình hiểm trở của vùng đất này khiến việc đi lại giữa các
bản gần như là không thể, vì thế các phiên chợ là nơi tạo cơ hội cho
người ta tìm bạn đời cũng như thắp lại lửa tình cũ. Về sau này, chợ trở
thành nơi đơn giản là cho bạn bè gặp gỡ.
Sự xâm
lấn của thế giới hiện đại, dưới hình thức những khách du lịch tò mò và
những con đường rải nhựa làm cho việc đi lại và đến với nhau được dễ
dàng hơn, lại đang hùa vào tàn phá các chợ tình, và chấm dứt một phong
tục truyền thống ở vùng đất này của Việt Nam. Một số chợ tình biến dạng
thành thứ gì đó chỉ khá hơn cái bẫy khách du lịch một chút. Ở Sapa
chẳng hạn, các cặp trai gái thực hiện những hành vi tán tỉnh “theo thủ
tục”, ví dụ hát đêm hát đối với nhau, sau đó giơ mũ xin tiền boa từ
khách.
|
Khúc tự tình bên hẻm núi. (Ảnh: Lê Anh Tuấn) |
Khâu Vai
là một trong số rất ít chợ tình còn sót lại đến giờ, chỉ do về mặt địa
lý, nó ở quá xa. Chợ này nằm cách biên giới Trung Quốc chừng 20 km. Đi
từ Hà Nội thì mất khoảng hai ngày để vượt qua quãng đường xấp xỉ 360
km, địa hình xấu, với những vụ lở đất và những anh tài xế xe tải có cú
cua xe rất đáng sợ.
Nhưng
ngay cả ở Khâu Vai, mọi thứ cũng đang biến đổi. Sự xuất hiện của những
con đường lát gạch và những ngôi trường mới chẳng hạn, đã khiến thanh
niên dễ gặp nhau ở bên ngoài chợ hơn, cũng như ngoài cái thời gian họp
rất hạn chế của nó. Và sự hiện đại mang đến cho Khâu Vai những tốp
khách du lịch là dân thành thị. Đối với thế giới hiện có của những cộng
đồng dân tộc, thì khách du lịch là người ngoài, và họ đông vượt những
người thiểu số vốn đã sinh sống ở Khâu Vai từ bao thập kỷ nay.
Giờ đây,
một con đường rải nhựa đã trải dài suốt mấy cây số trong chợ; đoạn còn
lại sẽ sớm được hoàn thiện. 5 năm về trước, khi Ruou gặp vợ anh lần đầu
tiên ở chợ, họ phải đi bộ tới đây mất một ngày trời. Năm nay, hai vợ
chồng (cả hai mới 20 tuổi) mang theo đứa con gái nhỏ về chợ, và chuyến
đi của họ chỉ mất một tiếng đồng hồ xe máy.
“Chợ tình
đã chết”, Jay Her, một người Mỹ gốc H’mông đến từ Minnesota, tuyên bố.
Anh đặt chân tới Khâu Vai lần đầu vào năm 1994 để tìm lại nguồn gốc văn
hóa của mình. Mùa xuân này anh trở lại cùng đứa em trai và bà mẹ vợ; cả
ba đều tỏ ra thất vọng vô cùng. “Trước kia, người ta tán nhau là tán
thật. Người già kể lể về cuộc sống, người trẻ gặp nhau và làm quen với
nhau”, Her nói.
Ngoài màn
hát đêm, đối đáp với bạn tình về cuộc sống vợ chồng tương lai, chợ tình
theo truyền thống còn có các trò chơi đặc biệt. Có trò chơi trong đó
gái trai đứng thành hàng và ném bóng vải vào người nào làm họ để ý. Trò
chơi này thường bắt đầu từ chiều tối và tiếp tục suốt đêm sang tận ngày
hôm sau.
|
Đêm Khâu Vai. (Ảnh: GVT) |
Theo
truyền thuyết, chợ tình Khâu Vai được tổ chức lần đầu năm 1919 để tưởng
nhớ mối tình tuyệt vọng giữa một đôi trai gái bị gia đình cấm cản.
Chuyện này có hai dị bản, một kết thúc có hậu, một không hậu lắm. Trong
dị bản ít có hậu, một chàng trai và một cô gái yêu nhau. Để hai bên gia
đình được hòa bình yên ấm, họ không lấy nhau. Tuy nhiên mỗi năm một
lần, họ gặp nhau ở Khâu Vai vào đúng ngày họ chia tay: 26/3 âm lịch.
Trong dị bản có hậu, đôi trai gái chống lại gia đình, trốn đến Khâu
Vai, khi ấy là một vùng đất hẻo lánh nhưng màu mỡ giữa những núi đá cao
bao quanh; và họ sống bên nhau hạnh phúc mãi mãi.
Cho dù
nguồn gốc như thế nào thì chợ tình Khâu Vai cũng là một sự kiện sinh
hoạt văn hóa lớn trong suốt thế kỷ 20 ở những cộng đồng dân tộc thiểu
số ở Khâu Vai và huyện Đồng Văn liền kề. “Đó là một truyền thống rất có
ý nghĩa, cần được bảo tồn”, ông Nguyễn Trọng Báu, một người chuyên viết
về các dân tộc thiểu số ở VN, nói. Theo ông, chợ tình Khâu Vai như một
hình thức hóa giải những ẩn ức, bế tắc cho cả cộng đồng, bằng cách tạo
cho người ta một lối thoát về tình cảm. Những đôi không lấy được nhau
còn có cơ hội gặp nhau lần nữa, những cặp nam nữ trẻ tuổi có thể đến
đây để tìm hiểu nhau.
Người
H’mông di cư từ vùng đất phía nam Trung Quốc đến VN đã từ hai thế kỷ
qua và cho tới nay, họ vẫn chưa hoàn toàn bị đồng hóa với nền văn hóa
chính thống của VN. Nhiều người sinh sống ở Hà Giang và làm giàu bằng
việc trồng thuốc phiện. Nhưng việc này sau đó bị Chính phủ VN cấm, nên
người H’mông trong các làng bây giờ lại trồng ngô và lúa. Độc lập một
cách bướng bỉnh, họ chiếm không đầy 1% dân số VN và bị tách khỏi đà
phát triển kinh tế vốn tập trung vào các đô thị, mãi cho đến một thập
kỷ trước, khi những chương trình xóa đói giảm nghèo bắt đầu xây dựng cơ
sở hạ tầng cho các vùng sâu vùng xa.
Việc
Chính phủ VN phát triển cơ hội giáo dục cho người dân tộc – những người
mà gần đây vẫn bị tách khỏi giáo dục chính thống bởi những rào cản địa
lý hay ngôn ngữ - cũng cho phép thanh thiếu niên có thể vươn ra ngoài
cộng đồng, giảm đi vai trò xã hội của những phiên chợ như Khâu Vai.
Ly Nhinh
Oanh, một cô bé dân tộc Giáy, 14 tuổi, đang học ở trường nội trú dành
cho các học sinh dân tộc ít người. Cô đến chợ chơi cho vui, không phải
để kiếm chồng: “Cháu không muốn lấy chồng sớm. Cháu muốn học hết lớp 12
và tìm việc làm. Cháu sẽ lấy chồng sau, ở đâu đó”. Oanh hy vọng sẽ gặp
được một chàng trai thành thị, có lẽ là khi đang học trường cấp ba ở
một thị trấn gần đó hay là tại thị xã Hà Giang, trung tâm của tỉnh Hà
Giang, cách chợ Khâu Vai khoảng 160 km về phía tây nam.
Theo
Bussarawan Teerawichitchainan, một nhà nghiên cứu trước làm việc ở Ủy
ban Dân tộc, đồng tác giả một nghiên cứu của Ủy ban về tuổi dậy thì của
người VN ở các vùng miền núi phía Bắc, thì những người như em Oanh “ít
bị bố mẹ kiểm soát hơn và độc lập hơn trong việc khám phá những mối
quan hệ lãng mạn” so với thế hệ bố mẹ chúng.
Thế rồi
đến các khách du lịch. Họ tới đây bằng xe ôtô, đa số từ Hà Nội. Những
chiếc đèn pha với cường độ lớn rọi sáng những bóng tối của núi đồi về
đêm, khi cỗ máy bốn bánh rú ga lăn vào con đường rải sỏi dẫn tới Khâu
Vai. Trong chợ, dưới ánh đèn neon, khách du lịch, chủ yếu là đàn ông,
giơ máy ảnh chụp và trêu ghẹo các cô gái dân tộc trẻ. Một số người bóng
gió về bà vợ ở nhà và đùa cợt chuyện sex. Các cô gái, có vẻ không ấn
tượng gì, quay đi. Trong khi tỷ lệ kết hôn giữa người thuộc các nhóm
dân tộc thiểu số với nhau đang tăng lên, thì hôn nhân giữa người Kinh
và người thiểu số - vốn khác biệt rất lớn về văn hóa – vẫn tiếp tục
hiếm như ngày xưa, theo nghiên cứu của Ủy ban Dân tộc.
Các quầy
hàng ngày trước bán đồ trang sức và trang phục của người dân tộc thiểu
số, giờ bán đồ chơi chạy pin và những món đồ sứ hay hàng thủy tinh rẻ
tiền của Trung Quốc. Trong khi đó thì khách du lịch đàn ông “giao lưu”
với đàn ông H’mông ở chợ, rủ họ uống rượu và trả tiền để họ múa khèn.
Đó là một điệu múa truyền thống, người đàn ông vừa múa vừa thổi khèn mà
không để khèn rời khỏi môi lúc nào. Ngày xưa, điệu múa này được coi như
một cách để thu hút phụ nữ, vì phụ nữ coi nó như dấu hiệu để đo sức
khỏe của người đàn ông. Nhưng ngày nay, chẳng phụ nữ nào xem múa khèn
nữa. Bây giờ khán giả cũng như người biểu diễn đều là đàn ông say rượu.
Bất chấp
những tiến bộ có được nhờ đầu tư của Chính phủ VN vào các khu vực thiểu
số, cũng như những chương trình xóa đói giảm nghèo có định hướng vào
các lĩnh vực y tế và giáo dục, nghèo đói vẫn ám ảnh những cộng đồng dân
tộc thiểu số này. Vẫn còn quá ít trường học cho trẻ em thiểu số - những
người cần trường học nhất - và mặc dù việc phát triển cơ sở hạ tầng đã
mang lại điện, nước, đường xá cho một số lượng đáng kể những cộng đồng
vốn bị cô lập, nhưng những người khó tiếp cận nhất vẫn tiếp tục nghèo
một cách tuyệt vọng. Năm 2004, 61% người dân tộc thiểu số thuộc diện
nghèo, trong khi chỉ 14% người Kinh (dân tộc chiếm đa số ở VN) là còn
nghèo đói – theo một nghiên cứu năm 2006 của WB.
Tuy nhiên
trong khi nhiều người ngoài than thở về sự biến đổi của chợ tình, gần
như rất ít người dân địa phương để ý tới chuyện đó. Màn đêm buông
xuống, đèn neon – thứ ánh sáng mà chỉ gần đây mới thay nến làm nguồn
sáng chủ lực ở đây – chiếu sáng một mảnh vải may tay, những trang phục
thêu và những chiếc răng mạ vàng. Món đồ sứ hình một người mẹ Dao và
đứa con nhỏ có vẻ chẳng được ai để ý. Các cô gái người Kinh đang bận
chen lấn xung quanh đó, mặc cả với người chủ hàng (cũng là người Kinh)
về giá cả những chiếc vòng giả ngọc bích.
|
Chợ tình đang tan. (Ảnh: Lovea7cva) |
Trong đám
đông người dân tộc, Pang Su Thi ngồi im lặng. Đó là một người Lôlô, dân
tộc thiểu số ở huyện Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang. Năm nào bà cũng đến đây
để hy vọng gặp lại mối tình cũ, người mà bà gặp lần đầu tiên ở chợ cách
đây gần 30 năm. Bà Thi kể, vì người này là dân huyện khác, bố bà không
cho họ cưới nhau. Thay vì thế, bà bị bố ép lấy một người đàn ông cùng
làng, giờ họ đã có với nhau hai mặt con.
Bà đưa
mắt nhìn đám đông, tìm kiếm trong vô vọng. “Đời tôi thế là hết rồi”, bà
khóc. “Chúng tôi đã luôn luôn gặp nhau ở nơi này, và giờ đây anh ấy
không đến”.
|