Chùa Đậu, một di sản
quý
Với
những báu vật, những điều bí ẩn
Thích Thanh
Nhung
Chùa Đậu vốn là Thành Đạo Tự nằm ở cuối
làng Gia-Phúc xã Nguyễn Trãi huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây, cách
Hà-Nội 21 km về phía Nam. Chùa có 5 tên gọi :
1.
THÀNH ĐẠO TỰ
2.
PHÁP VŨ TỰ
3.
CHÙA VUA
4.
CHÙA BÀ
5.
CHÙA ĐẬU
Chùa là một trong bốn ngôi chùa
thờ Tứ Pháp (Vân,Vũ, Lôi, Điện tức là Mây, Mưa, Sấm, Chớp),
trung tâm phát sinh Tứ Pháp là thành Luy lâu nay thuộc hai huyện Gia
Lương và Thuận-Thành tỉnh Hà Bắc. Hệ thống Tứ Pháp gắn liền
với sự tích Chùa Đậu. Trong cuốn sách bằng đồng có từ thời
Sĩ Nhiếp đầu thế kỷ thứ III (200 - 210) hiện còn cất giữ tại
Chùa có ghi rõ sự tích nàng Man Nương và Phật giáo Ấn độ du
nhập vào Việt Nam.
mặt tiền Chùa Đậu
Cách đây gần 2000 năm Chùa Đậu đã nổi tiếng
là nơi linh thiêng ứng nghiệm, mọi người cho rằng về tới nơi
đây là đến nơi đất Phật. Gần đây hơn 300 năm, có hai Thiền Sư
thành đạo tại Chùa.
Phật Giáo du nhập vào Việt-Nam bằng đường
thủy và đường bộ, nói tới lịch sử Phật giáo Việt-Nam người
ta không thể quên câu chuyện được thần thánh
hóa về nguồn gốc phát sinh Tứ Pháp.
Đất nước Việt-Nam nằm ở vùng nhiệt đới,
Tứ Pháp ra đời là phù hợp với nguyện vọng của người dân
Việt-Nam.
Cuốn sách đồng ở Chùa cho biết, ngay từ buổi
đầu nền Phật Giáo Việt Nam đã tiếp thu và hấp thụ được tinh hoa
của nền Phật Giáo Ấn độ.
Tứ Pháp ra đời mang chủng tử của một Thiền
tăng đã đắc đạo người Thiên Trúc, người mẹ là nàng Man
Nương Việt-Nam. Thành công của tín, hạnh, nguyện đã làm cho
Man-Nương trở thành Đức Thánh Mẫu sinh Thánh Tử, đúng như câu
kệ của Thiền Tăng đã đọc:
Hình hài như đạo
thứ
Tâm không cảnh cũng
không
Lần nữa chưa giác ngộ
Ứng vật vạn duyên
cùng
(Trích sách đồng)
Người Việt Nam đã kế thừa và phát huy được tinh hoa của nền Phật Giáo Ấn độ, nhưng
vẫn mang bản sắc riêng của dân tộc. Sĩ Nhiếp làbậc hiền tài
được nhân dân tôn trọng như Vua nên được gọi là Sĩ Vương đã
thừa nha? điều nầy:
Nước Nam sông
núi dáng thần linh
Văn hiến mở khai dạng
Phật kinh
Thánh Mẫu quả nhiên sanh
Thánh tử
Mưa lành nhuần tưới
giúp dân sinh
(Trích sách đồng)
Qua bốn danh hiệu, bốn ngôi chùa thờ bốn vị Bồ
Tát về Tứ Pháp, đã toát lên tính tiểu thừa và đại thừa : Chùa Thiền định, Chùa Thành
Đạo, Chùa Phi Tướng, Chùa Trí Qua?/font>. Trong
Tứ Pháp, Đức Pháp Vân là chị cả, phần quyết định là Đức
Pháp vũ. Tục ngữ Việt Nam có câu: "Quý vật tầm quý
nhân".
Lúc đó ở phía Nam kinh thành như có luồng linh khí. Quách Thông theo lệnh Vua, về tới đất
Gia-Phúc thấy thế đất trông tựa dáng hình một đôi hoa sen đang
nở tỏa sáng, Quách Thông trình Sĩ Nhiếp, Sĩ Nhiếp cho rằng hoa sen
là nơi đất Phật bèn cho lập chùa đặt tên là Thành Đạo
Tự, rước Đại Thánh Pháp Vũ Đại Bồ Tát về thờ nên gọi là
Pháp Vũ Tự. Do Nhà Vua chọn đất làm Chùa và chỉ dành cho bậc Vua
Chúa đến lễ, người dân chỉ được vào lễ trong ba ngày hội nên
gọi là Chùa Vua. Bồ Tát hiện thân Nữ nên gọi là Chùa Bà. Bậc
trí sĩ cầu nghiệp lớn được đậu đạt, người
dân trồng cây ra hoa đậu hoa, ra quả đậu quả từ đó trong dân gian
gọi là Chùa Đậu (Chữ Đậu cũng là chữ rút gọn từ chữ
Thành Đạo).
Tả cảnh đẹp nơi chùa và công đức vô
lượng đó, Sĩ Nhiếp đề thơ rằng :
Đồng bằng bát
ngát nẩy Tòa Sen
Phật ngự trang nghiêm
tựa Thiên Tiên
Đất phúc xây lên cung
nguyệt điện
Trời Nam riêng hẳn cảnh
thiên nhiên
Nén hương khói tỏa tan
niềm tục
Hồ ngọc trăng soi rõ
cửa Thiền
Công đức từ bi bao
xiết kể
Công lao vô lượng, lại
vô biên
(Trích sách đồng)
Trải qua nhiều thời đại, bút tích lưu lại còn
in đậm nét trên bia đá tại chùa, công nhận là nơi linh thiêng,
ứng nghiệm, nước cầu dân khẩn đều được, đúng như lời thơ
tả : Phật ngự trang nghiêm trên toà sen, nơi đất phúc của đạo
tâm, trời Nam dành riêng cho cảnh đẹp nơi đây, nén hương khói
toả làm tan hết những gì mệt nhọc, ô trọc của trần tục, chỉ
thấy một niềm an lạc giải thoát. Cửa thiền là
nơi thanh tịnh, như hồ nước vắng lặng, trong suốt chẳng khác gì
ngọc, ánh trăng dịu hiền tỏa sáng soi thấu cửa thiền ?
Nên ngày xưa người Việt-Nam tự hào đã hấp
thụ được tinh hoa của nền Phật Giáo Ấn-Độ thì hơn 300 năm
trước có hai Thiền Sư Việt-Nam đã đắc đạo tại chùa - nơi đất
Phật các Ngài đã để toàn thân xá lợi. Để lại xá lợi là
khi viên tịch, các Thiền sư sẵn có lửa tam muội và đã dùng lửa
tam muội để thiêu thân, tính chất của lửa tam muội là đốt cháy
được những lửa khác, làm cho các lửa khác không đốt cháy
được, xá lợi đốt không cháy, ngâm trong nước không tan, không
bị thời gian bào mòn. Quy luật của vũ trụ là : Vật chất chỉ có
biến đổi từ dạng nầy sang dạng khác mà theo Phật Giáo gọi là
thành, trụ, hoại, không. Xá lợi không bị chi phối bởi quy luật vũ
trụ, chính vì vậy là một vật báu, là Quốc bảo thiêng liêng,
được cung kính như đức Phật sống. Theo quy luật của đạo Phật, xá
lợi chỉ để lại trên trái đất 5% đến 10% của toàn thân xá lợi
nên gọi la?toát thân xá lợi. Toàn thân
xá lợi là để lại toàn thân thể không thiếu thứ gì, song với
thời gian nào đó 10 năm, 200 năm hay 2000 năm v.v. là do Thiền Sư ấy
quyết định, toàn thân xá lợi sẽ chuyển về toát thân xá
lợi.
Phật Giáo ở các nước trên thế giới như Ấn
Độ, Tây-Tạng, Trung-Hoa, Tích-Lan (Srilanca), Nhật-Bản v.v. đều có
những pho toàn thân xá lợi.
Tương truyền ở Ấn-Độ còn pho toàn thân của
Sư Tổ Ma-Ha-Ca- Diếp Tôn-Giả ; ở Tây Tạng có tháp thờ toàn thân
xá lợi của Tổ Sư Liên Hoa Sinh Thương Nhân Tố Đạt-Lai-Đạt-Ma; ở
Trung-Hoa có toàn thân xá lợi của Đức Lục-Tổ Huệ Năng hiện
thờ tại chùa Nam-Hoa, Huyện Khúc Giang, tỉnh Quảng Đông, tại chùa
Vân môn, tỉnh Thiên-Chân thờ toàn thân của Tổ Vân-Môn-Văn-Yến
Thiền Sư và toàn thân của Ngài Từ-Hàng-Pháp-Sư ; ở Nhật-Bản
có toàn thân của Tổ Nhật Liên Bồ Tát (Nichiren) và toàn thân của
Tổ Truyển Giáo Đại Sư (Dengo Dainhi).
Ở Việt-Nam có Tổ Từ-Đạo-Hạnh, Tổ Không-Lộ
Thiền-Sư (Nguyễn-Minh-Không), Tổ Giác-Hải Sư, Tổ Đơn-Điền Thiền-Sư
và hiện hai pho toàn thân xá-lợi đặc biệt
giá-trị hy-hữu nhất của nước Việt-Nam còn tồn tại thờ tại
Chùa, đó là Thiền sư Đạo Chân Vũ Khắc Minh và Thiền sư Đạo
Tâm Vũ Khắc Trường. Thật là một biểu tượng cho hàng Thánh
tăng Việt-Nam có những bậc vĩ nhân siêu thoát đã tiếp thu chứng
đạt một cách thấu triệt viên mãn giáo-lý Phật-đà.
Một dân-tộc tự-hào có nền
văn-minh sớm và cao cả vì dân tộc ấy còn tồn tại những chứng
tích báu vật tư-liệu văn-hóa cổ hiện được bảo tồn. Tuy nhiên,
sự khẳng định về giá-trị chứng-tích tư-liệu cổ-đại tùy theo
những quan điểm của mỗi quốc gia, của mỗi thời đại, nhưng những
chứng-tích ấy thể-hiện bằng trí-tuệ siêu việt, đưa con người
vượt không gian, thời gian lên tột đỉnh thượng-tầng triết-học
của loài người thì dù Đông học hay Tây học vẫn được tôn
thờ và đỉnh cao của sự thành-tựu ngự tại nhân-sinh.
Toát thân trên thế-giới có
rất nhiều, ở Việt-Nam có Vua Trần-Nhân-Tông bỏ ngai vàng đi tu núi
Yên-Tử, sau Ngài để lại toát thân là những viên ngọc,
Hòa-Thượng Thích-Quảng-Đức thiêu thân, phát nguyện để nguyên
trái tim kho?g cháy, hiện nay vẫn còn lưu giữ.
Theo lời di-chúc của Thiền-Sư : "Ta vào nhập
thất 100 ngày tụng kinh niệm Phật, sau đó xác thân sẽ được giữ
nguyên". Hết 100 ngày các thiện-tín Phật-tử mở cửa am, thấy
Thiền-Sư vẫn ngồi theo thế nhập Thiền và có mùi thơm, qua vài chục
năm áo vải bị ẩm, rơi rụng, khi đó Thiền-Sư chỉ còn da bọc xương
các thiện-tín đã mặc cho Thiền-Sư một lớp áo bằng sơn ta, cho
đến nay áo đó vẫn còn nguyên nên Thiền-Sư cũng khen là bền và
đẹp.
Ta có thể hiểu : Thiền-Sư nhập thất là
Thiền-quán, tụng kinh niệm Phật là Tịnh Độ, như vậy Thiền-Sư đã
hiển mật song tu, tín đồ hiểu điều căn bản là phải có tự lực,
song điều thiêng liêng là phải được thừa hưởng tha lực của
chư Phật chư Bồ Tát. Những thiện-tín nào muốn hiểu rõ về toàn
thân xá lợi xin hãy lui tới chiêm bái hai Thiền-Sư, sở nguyện
của các Ngài rất muốn lân mẫn với những người sau. Danh hiệu
của hai Thiền Sư là Đạo Chân và Đạo Tâm,
nếu ghép hai chữ vào ta hiểu là Chân Tâm. Khối óc và tấm lòng
của các Thiền Sư như muốn nói với chúng ta những điều khẩn
thiết đức hạnh của các bậc Bồ Tát như ánh trăng soi chung, nước
ở đâu là ánh trăng in hình ở đó. Những ai phát tâm thời tự
thấu hiểu điều nầy.
Khoa học thế
giới ngày nay đã khẳng định : Muốn ướp xác phải thoả mãn đồng
thời 3 điều kiện :
1. Phải có thuốc
2. Phải hút ruột, hút óc
3. Phải để thể xác trong hòm kín,
không có không khí.
Năm 1983 khoa học đã chứng minh
bằng X quang (Thiền-Sư tự Đạo -Chân Vũ Khắc Minh) và kết luận
rằng:
* Không có vết đục
đẽo
* Không có hiện tượng hút ruột,
hút óc và các khớp xương dính chặn với nhau như thể tự
nhiên
* Cân nặng 7 kg.
Nhục thân của Thiền-Sư tự Đạo-Chân
Vũ Khắc Minh
Hai Thiền-Sư đã không cần 3 điều
kiện nói trên mà vẫn để lại toàn thân xá lợi, các nhà khoa
học trong và ngoài nước rất mong muốn tìm ra "Phương-pháp ướp
xác tinh-xảo" của các Thiền-Sư. Đề tài nghiên cứu này đối
với các nhà khoa học cho đến nay vẫn còn là một điều bí
ẩn.
Nhục thân của Thiền-Sư tự Đạo-Tâm
Vũ Khắc Trường
Về kiến trúc, Chùa được xây dựng theo một
quy mô lớn, khu chính diện được kiến thiết theo kiểu nội công,
ngoại quốc, khu nội công rất nguy nga lộng lẫy, cột trạm rồng nổi
hoa văn bay bướm? Nhưng rất tiếc đến nay khu này đã bị cháy hỏng,
khu ngoại quốc vẫn còn song đã xuống cấp rất nghiêm trọng.
Chùa Đậu là niềm tự hào của dân tộc
Việt-Nam, là một trong những di-sản quý và lâu đời của nước ta và thế giới. Chùa là nơi danh lam thắng
cảnh được thiên nhiên ưu đãi có kiến trúc cổ kính là nơi siêu
thoát và thờ hai Đức Phật sống - quốc bảo thiêng liêng của Đất
nước. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận di tích "Lịch-sử
- Văn-hóa".
Trước đây chùa đã được nhiều
niên đại, nhiều bậc hiền nhân mang tâm công đức trùng tu lại.
Ngày nay Bộ Văn hóa và nhà Chùa cùng nhân dân địa-phương đang
lập dự án với một quy mô lớn : Tôn tạo lại di tích lịch-sử
văn-hóa của dân tộc .
Mong sự phát tâm công đức của Phật tử thập
phương, du khách khắp trong và ngoài nước để một ngày không xa
Chùa Đậu sẽ được khang trang như cũ.
Computer typesetting: Sa di
Nguyên Chí
___________________
Chân thành cảm ơn đạo
hữu Thiện Vân Nguyễn Tấn Hải đã gởi tặng cho Quang Duc Homepage tài
liệu này (30/5/2000)