Hoa Long là ngôi chùa cổ, ở xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa mang đậm dấu ấn kiến trúc, điêu khắc và văn hóa Phật giáo thời Trần. Ngôi chùa tuy nhỏ nhưng với nghệ thuật tạo hình tinh xảo bằng chất liệu gỗ và đá độc đáo so với các công trình mỹ thuật điêu khắc trong hệ thống chùa trong tỉnh. Chùa Hoa Long mang hình một bông sen làm đẹp thêm cho chốn linh thiêng cõi Phật.
Lịch sử đã từng in dấu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng giữa Đại Việt và Chăm pa trên đất xứ Thanh này. Lần giở cổ sử cho thấy, trong quá trình “Nam tiến” Lê Đại Hành, Lê Thánh Tông, Nguyễn Hoàng… những người con Thanh Hóa đã từng hành binh bảo vệ miền biên viễn của quốc gia Đại Việt và đưa lưu dân Thanh Nghệ vào Chăm pa, Lâm Ấp để khai khẩn đất đai, lập nghiệp trên vùng đất mới. Trong quá trình tiếp xúc ấy văn hóa, tôn giáo Đại Việt đã có ảnh hưởng ít nhiều đến văn hóa, tín ngưỡng Chăm pa và ngược lại.
Người Chăm có một nền âm nhạc dân gian truyền thống rất phong phú, được hình thành và phát triển rất sớm trong lịch sử dân tộc. Đối với người Chăm âm nhạc là một thứ ngôn ngữ rất thiêng liêng, cao cả và trong sáng, làm phương tiện giao lưu giữa con người với thần thánh. Bởi vậy trong lễ hội, đón rước, nghi lễ của người Chăm bao giờ cũng có âm nhạc và múa. Âm nhạc gắn liền với lễ hội dân gian và tôn giáo của người Chăm thờ các vị thần Bàlamôn giáo và thờ Đức Phật.
Khảo sát các bức chạm khắc ở Hoa Long tự, bắt gặp nhiều đồ án trang trí và chạm khắc mang hơi thở của văn hóa, tôn giáo Chăm pa hoà quyện và gặp gỡ trong tâm thức của người Việt trong việc phụng thờ Phật.
Chùa Hoa Long cấu trúc theo hình chữ công (J) chuôi vồ, đó là thức kiến trúc cổ còn lại rất hiếm gặp ở tỉnh Thanh. Bước vào tòa Thiêu hương, bắt gặp nhiều mảng chạm khắc với chủ đề tứ linh, tứ quý chạm chìm và chạm lộng, cảnh sinh hoạt dân gian, mục đồng thổi sáo... Đặc biệt, gần chính giữa toà Thiêu hương có bức chạm gỗ hình một nhạc công gẩy đàn, ngồi trên mình bò, tà áo dài buông chùng phủ xuống thân bò. Nhạc công gương mặt hồng hào, mắt lim dim như thả hồn hướng về cõi Niết Bàn, cổ có ngấn, tai dài như tai Phật. Nhạc công tay trái đưa ra phía trước ôm lấy cây đàn với bầu đàn hình chữ nhật, cần đàn vươn cao và cuộn lại phía chót đỉnh cần, tay phải nhạc công hơi khuỳnh, tấu lên khúc nhạc lúc bổng lúc trầm làm tăng thêm vẻ linh thiêng của cõi Phật.
Hình tượng nhạc công chơi đàn này rất giống với các bức phù điêu tạc trên đá trong các ngôi chùa thời Lý như chùa Thái Lạc, chùa Phật Tích, chùa Long Đọi..., do ảnh hưởng Ấn Ðộ giáo của người Chăm. Hình ảnh nhạc công cưỡi bò tấu nhạc chùa Hoa Long thời Trần, xã Vĩnh Thịnh rõ ràng có sự giao thoa văn hóa, tôn giáo giữa Chăm pa và đại Việt. Bức chạm nhạc công gẩy đàn ở chùa Hoa Long chính là hình ảnh của Nữ thần đầu người mình chim - Kinnari, nhạc công được điêu khắc trong các đền tháp Bàlamôn giáo Chăm pa đã được các nghệ nhân tái hiện lại ở ngôi chùa Việt xa xôi và khuất nẻo này. Nhạc công cưỡi bò, tấu nhạc phải chăng hình tượng đó muốn mô tả bò thần Bò Nandi, vật thiêng của Bàlamôn giáo, khi vào Chămpa được người Chăm gọi bằng tên khác. Bò thần Nandi biến thành bò thần Kapin và trở thành vị thần có nhiều quyền năng trong tâm thức dân gian Chăm?
Sau khi chiêm ngưỡng bức chạm nhạc công tấu nhạc, bước vào Thượng điện của chùa, hiện ra trước mắt là nhang án thờ Phật. Bệ thờ hình chữ nhật. Kích thước dài 3,1m; rộng 1,1m; cao 1,1m ghép lại từ nhiều phiến đá được chia thành hai tầng. Phần chân bệ thờ tiếp giáp với mặt đất trang trí hình sóng nước chồng xếp thành 3 lớp dâng cao, tiếp trên các ngọn sóng lao xao dâng trào là đồ án những dây cúc leo cách điệu. Thân bệ thờ chia làm 9 ô hình gần vuông, các ô không đều nhau. Về chạm khắc chính giữa là hình khóm sen cách điệu, các bông hoa và lá sen vươn ra tựa như đang tỏa hương, khoe sắc làm ngát thơm nơi Phật điện. Bốn ô ở hai cạnh của bệ thờ chạm hình 8 thiếu nữ duyên dáng, uyển chuyển, hai tay giơ cao ngang đầu, lòng bàn tay để ngửa. Hình ảnh các thiếu nữ được tạc trên bệ thờ sôi động tràn đầy sức sống với bộ ngực căng tròn, bụng nở, bắp đùi thon thả, trang phục mỏng, mềm mại thả dài xuống gót chân lượn lờ theo bước nhảy. Năm ngón tay búp măng nõn nà mềm mại thể hiện năm hoạt động của vũ trụ: Sáng tạo, Bảo toàn, Phá hủy, Hóa thân, Giải thoát với khuôn mặt trái xoan thanh tú, thánh thiện hướng lên Tam bảo Phật, mái tóc tựa như tóc bụt; cổ dài ba ngấn, thân hình tròn lẳn, thắt dáng lưng ong. Hai tay đưa lên ngang mặt với những ngón tay hình búp măng mở ra hoà theo điệu múa thiêng… các trinh nữ dường như đang từ bệ đá bước ra nhập vào cuộc sống trần tục… Những hình ảnh sống động và kỳ bí ấy đã thể hiện tư duy thẩm mỹ, sự lý tưởng hóa cao độ trước cõi Niết bàn về vẻ đẹp của những người trinh nữ qua mỗi nét chạm của nghệ sĩ dân gian Chăm - Việt. Hình tượng đó rất gần gũi với bệ thờ của người Chăm Trà Kiệu, có niên đại từ giữa đến cuối thế kỷ X. Cách thể hiện các thiếu nữ này tương tự như các Apsara trên đài thờ vũ nữ Trà Kiệu.
Điêu khắc tiên nữ, nhạc công ở chùa Hoa Long.
Nghệ thuật điêu khắc Chăm thấm đậm ảnh hưởng Ấn Độ giáo với hệ thống Tam vị nhất thể (Brama, Visnu, Siva), thần linh, vũ nữ... Song những hình tượng vũ nữ đó đều đã được người Việt bản địa hóa phù hợp với tâm thức của mình khiến cho điêu khắc mang dấu ấn Chăm có sức hấp dẫn, độc đáo lạ thường. Với ngoại hình Champa phảng phất nhưng dễ nhận biết nội tâm của các thiếu nữ kia biểu hiện lúc bay bổng sảng khoái, lúc trầm tĩnh ưu tư, lúc trăn trở day dứt nhưng mang đậm tâm hồn Việt. Với nét chạm tài hoa, điêu luyện của các nghệ nhân dân gian, không chỉ là người mà cả đến cỏ cây, hoa lá cũng rung rinh, sống động. Một niềm khao khát cuộc sống đến cuồng say được gửi gắm qua hình tượng các vũ nữ múa các động tác hướng lên Phật pháp. Bức chạm vũ nữ hát múa dâng Phật chùa Hoa Long cũng có nét tương đồng với bức phù điêu mô tả thiếu nữ hát múa trước Phật đài ở chùa Thái Lạc, tỉnh Hưng Yên.
Âm nhạc có vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm linh và sinh hoạt cộng đồng của người Chăm và người Việt. Với những nhạc cụ hiện tồn tại và còn được mô tả trên các mảng điêu khắc của người Chăm và người Việt tỉnh Thanh còn lại đến hôm nay cho thấy có những nhạc cụ rất gần gũi nhau.
Về nhạc cụ gõ: Người Chăm có trống Ginang, hình dáng giống với trống của người Việt nhưng lớn hơn. Mặt nhỏ trống là chang dùng ngón tay để vỗ, mặt lớn gọi là bam được đánh bằng dùi. Một bộ trống Ginang gồm hai chiếc do hai nghệ nhân cùng biểu diễn, họ ngồi đối diện nhau, hai chiếc trống đặt cheo hình chữ X để thực hiện các động tác, trống được đặt nghiêng trong lúc gõ. Loại trống này được ngư dân làng Bạch Câu, Nga Bạch, huyện Nga Sơn gọi là Trống Vả (dùng tay để vỗ trống) nhạc cụ này thường sử dụng trong hát chúc hay hát kể nhật trình trên biển. Ở Thanh Hóa còn có Trống cơm, tương truyền là do người Chăm, binh lính của nghĩa quân Tây Sơn truyền cho và được người dân xứ Thanh sử dụng trong sinh hoạt và hát múa trong những dịp hội hè, đình đám.
Về nhạc cụ gõ bằng đồng thì có chiêng, đồng bào Mường và Thái tỉnh Thanh sử dụng phổ biến, người Kinh sử dụng trong việc tế lễ.
Về bộ hơi, người Chăm có kèn Saranai: kèn Saranai tham gia hầu hết các nhạc lễ trong các lễ hội dân gian của người Chăm. Cấu tạo gồm ba phần chính: dăm kèn, thân kèn, loa kèn, kèn này cũng giống với kèn của người Việt và Mường tỉnh Thanh sử dụng trong phường bát âm và nhạc tang lễ.
Taliak (sáo ngang): Sáo ngang Chăm ngày nay không còn phổ biến, nhưng thường thấy sáo ngang ở các công trình điêu khắc Chăm. Ở Thanh Hóa, sáo ngang là nhạc cụ không thể thiếu trong dàn nhạc lễ, rước sách, đệm cùng với nhạc cụ khác hoặc độc tấu.
Về nhạc cụ dây bật và kéo thành tiếng: Tiêu biểu là đàn Kanhi, tương tự đàn nhị của người Việt. Đàn Kanhi có âm điệu thánh thót, tiếng đàn gần gũi với tiếng người, tiếng chim... dùng để đệm cho hát lễ, lễ tang...
Cũng là loại nhạc cụ thuộc bộ dây, người Chăm có Rabap Kadauh (đàn bầu), đàn Champi (đàn tranh) nhưng hiện nay hầu như đã thất truyền. Nhưng hai loại nhạc cụ này rất phổ biến trong sinh hoạt hiện nay ở tỉnh Thanh.
Với một số nhạc cụ nêu trên cho thấy giữa các loại nhạc cụ truyền thống của hai dân tộc Chăm và Việt có nhiều loại rất giống nhau và chắc chắn đã vay mượn lẫn nhau. Và đó cũng chính là kết quả của sự giao lưu, tiếp biến văn hoá một cách tự nguyện.
Người Chăm sở hữu một kho tàng dân ca với những làn điệu, cung bậc có quan hệ mật thiết với dân ca người Việt và các làn điệu dân ca của các dân tộc khác. Người Chăm còn có các làn điệu Ariya, là hình thức hát trường ca theo dạng kể chuyện, hát lối bằng thơ và có kho tàng các làn điệu hát ru, hát thờ thần, tế lễ vốn có nguồn gốc tôn giáo Balamôn, Ấn Độ xa xưa.
Dân ca Chăm có nhiều thể loại: Dauh Mưyut (hát ân tình), Dauh dam dara (hát đối đáp), Dauh rathung chhai (hò xay lúa, giã gạo), Dauh pađau (hát đố), Pwơch jal (hát vãi chài)... với nhiều nét tương đồng với dân ca hát dân gian của người Việt tỉnh Thanh.
Tình ca của người Chăm là những bài dân ca giao duyên của đôi lứa yêu nhau. Thể thơ gieo vần giống thơ lục bát cổ của người Việt.
Về âm thanh, giai điệu, nhịp điệu dân ca của người Chăm, nhất là các thể loại dân ca giao duyên (Dauh dam dara, Dauh mưyut) đều có cấu trúc chặt chẽ, giai điệu mềm mại, thiết tha. Đặc biệt là những bài dân ca hát Vãi chài của người Chăm rất gần gũi với điệu hát trống vả, điệu hò sông biển... của người Việt tỉnh Thanh ở Bạch Câu (Nga Sơn), Hải Bình, Hải Thanh (Tĩnh Gia)…
Xứ Thanh là vùng đất gắn liền với lịch sử dân tộc và in dấu văn hóa, tôn giáo các thời đại đã qua. Nói về sự giao thoa âm nhạc giữa Chăm pa và đại Việt trên đất này có thể mượn lời Giáo sư Trần Văn Khê nhận định: “Nhờ ở địa thế lân bang và sự tiếp xúc trường cửu với Chiêm Thành, một quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn minh tối cổ của Ấn Độ, mà giá trị âm nhạc Việt Nam được tài bồi phong phú”. “...Trong cuộc Nam Tiến của dân tộc ta đã cảm nhiễm sâu xa bởi âm nhạc người Chiêm Thành. Đồng thời ta chinh phục đất Chiêm, và ta càng đi xa vào trong đất nước người, tâm hồn ta càng thâm nhiễm cái văn hoá đó. Về âm nhạc ta thấy rằng từ nhà Lý đến nhà Nguyễn, âm nhạc Chiêm Thành cứ ngấm ngầm tiêm nhiễm vào âm nhạc ta, tiếng vọng của nó một ngày một thêm vang động…”.
{{item.Body}}
{{item.Title}} - {{item.CreatedDate}} |
{{sitem.Title}} - {{sitem.CreatedDate}}
Viết bình luận
Bạn đọc vui lòng gõ chữ có dấu, góp ý có tính văn hóa, xây dựng và chịu trách nhiệm về ý kiến của mình. Nội dung góp ý của bạn đọc được đăng tải là do Ban Biên tập tôn trọng dư luận xã hội, nhưng đó không phải là quan điểm của Tạp chí điện tử Văn hiến Việt Nam.