Đình Thổ Tang
Đình Thổ Tang tọa lạc tại khu bắc của thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Đình được xây dựng vào thế kỷ 17, là nơi thờ cúng Lân Hổ Hầu tức Phùng Lộc Hộ đô thống Đại Vương, một vị tướng có công giúp vua Trần Nhân Tông đánh tan giặc Nguyên Mông vào thế kỷ 12. Vào năm 1964 đình đã được Bộ Văn hoá - Thông tin Việt Nam xếp hạng A trong danh mục Di tích Lịch sử Văn hóa tiêu biểu của đất nước, đến năm 1990 được cấp bằng Di tích Lịch sử Văn hoá.
Kiến trúc[sửa]
Đình có bố cục kiểu chữ "Đinh" gồm hai tòa Đại đình và Hậu cung. Năm 1964 hậu cung bị dỡ, mới được nhân dân và chính quyền phục hồi lại vào năm 1995. Đại đình gồm năm gian, hai dĩ với 60 chiếc cột làm bằng gỗ tốt, đại khoa. Cột cái có đường kính 0,8 m cao 5 m, cột con có đường kính 0,61 m. Cửa hướng tây nam. Từ nền tới nóc cao 7 m. Đình dài 25,8 m, rộng 14,2 m. Nền đình được bó vỉa bằng đá xanh, có sáu hàng cột.
Ngoài kiến trúc cổ độ sộ, gia cố bền chắc, đình Thổ Tang còn được trang trí bằng nghệ thuật chạm khắc cực tinh tế sinh động với nội dung phong phú sâu sắc. Đình hiện còn 21 bức chạm bằng gỗ và nhiều cổ vật quý khác. Một số bức chạm trổ điêu khắc nổi tiếng như: cảnh đi cày, chăn trâu, đánh ghen, vũ nữ cưỡi rồng, vợ chồng lười, cảnh con mọn, cảnh nghỉ ngơi sau giờ lao động, cảnh đá cầu, đấu vật, múa, bắn hổ, đánh cờ uống rượu… thể hiện nghệ thuật chạm trổ tinh vi qua bàn tay khéo léo đạt đến trình độ điêu luyện, tài ba của các nghệ nhân xưa. Những hình ảnh đó đã mô tả sinh động, sâu sắc cuộc sống làm ăn và sinh hoạt của người dân trong xã hội phong kiến. Toàn bộ kiến trúc và các bức chạm trổ điêu khắc của đình Thổ Tang đã được đưa vào lịch sử văn hóa nước nhà như là những điển hình của nghệ thuật kiến trúc chạm trổ của dân tộc Việt Nam thế kỷ 17[cần dẫn nguồn]. Nhiều bức chạm tiêu biểu đã được đông đảo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước biết đến.
Một điều rất đặc biệt nữa ở đình Thổ Tang đó là bức hoành phi với ba chữ "Hòa Vi Quý" thể hiện một triết lý nhân sinh sâu sắc chỉ thấy có ở đây. Bức hoành phi có xuất xứ khá thú vị: "Hồi ngôi đình mới làm xong lúc này dân trong làng rất hay đánh lộn, anh em mất đoàn kết, hàng xóm ghen ghét nhau, vào đúng lúc đó có viên Tổng đốc Sơn Tây kinh lý qua. Biết vị tổng đốc là người hay chữ, dân làng thỉnh cầu ông cho chữ hoành phi. Sau khi nghe kỳ mục bẩm báo tình hình mọi mặt của làng, vị Tổng đốc nhíu mày suy nghĩ rồi viết luôn 3 chữ: "Hòa Vi Quý". Thấy nghĩa chữ hay quá, dân làng phẩn khởi lập tức khắc ngay vào bức hoành phi treo lên và mở luôn hội khánh thành đình. Và thật lạ, tự nhiên sau đó trong làng yên ắng hẳn không còn chuyện đánh lộn thường xuyên như trước. Tình hình đó được duy trì cho mãi tới nay".
Lễ hội[sửa]
Hội đình thường được tổ chức vào mùa xuân từ ngày 10 đến ngày 15 tháng Giêng hàng năm (ngày hội chính thường vào ngày 14 tháng Giêng). Lễ Hội: Có lễ rước kiệu từ miếu trúc về đình làng và các trò chơi thi lợn, dưa hấu, trò vui diễn xướng dân gian, chọi gà, đấu vật,..