Võ Tánh
Võ Tánh hay Võ Tính (chữ Hán: 武性, ? - 1801) là một danh tướng nhà Nguyễn. Ông có công giúp Nguyễn Ánh chống nhà Tây Sơn và mất trước khi nhà Nguyễn chính thức thành lập. Đương thời, ông được xếp cùng với Đỗ Thanh Nhơn và Châu Văn Tiếp là "Gia Định tam hùng".
Mục lục
Thân thế và sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Võ Tánh sinh tại huyện Phước An, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc tỉnh Đồng Nai), sau dời về huyện Bình Dương, Gia Định.
Vì không chịu thần phục nhà Tây Sơn, từ năm 1783 đến năm 1788, ông cùng với người anh là Võ Nhàn tập hợp lực lượng nổi dậy tại thôn Vườn Trầu (Hóc Môn), tự xưng là Nghĩa quân Kiến Hòa (sử gọi là Kiến Hòa Đạo), giương ngọn cờ Khổng Tước Nguyên Võ (Khổng Tước Nguyên là tên chữ của Gò Công), rồi kéo quân chiếm giữ cả vùng Gò Công.
Theo chúa Nguyễn[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1788, nhận lời mời của chúa Nguyễn Phúc Ánh, ông đến Nước Xoáy (Sa Đéc) hội binh, được phong là Tiên phong dinh Khâm sai chưởng cơ, và được chúa gả cho em gái là Ngọc Du.
Năm 1790, Võ Tánh tiến đánh thành Diên Khánh chiếm được phủ thành, đánh bại tướng Tây Sơn là Đào Văn Hồ.
Năm 1793, Võ Tánh được thăng chức Khâm Sai Quán Suất Hậu Quân Dinh Bình Tây Tham Thắng Tướng Quân Hộ Giá. Khi trấn thủ thành Diên Khánh, Võ Tánh dùng mưu đuổi quân Tây Sơn đến vây thành vào năm 1794. Sau đó ông được phong tước Quận Công kiêm lãnh chức Đại Tướng Quân.
Năm 1797, ông theo Nguyễn Phúc Ánh ra đánh Quảng Nam. Thừa thắng, ông vượt qua sông Mỹ Khê (Quảng Ngãi) đánh bại Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Giáp.
Năm 1799, ông lại theo chúa Nguyễn tiến đánh Quy Nhơn. Vào cửa biển Thị Nại, Võ Tánh và Chưởng Hữu Quân Nguyễn Huỳnh Đức đánh thắng quân Tây Sơn tại Thị Giả, rồi giết được Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Thiệt tại cầu Tân An. Đô Đốc Lê Chất xin hàng, xin làm thuộc tướng của Võ Tánh. Ông chặn đánh quân của Thái Phó Tây Sơn là Lê Văn Đang tại làng Kha Đạo, bắt được 6.000 quân Tây Sơn và 50 thớt voi. Các tướng Tây Sơn là Lê Văn Thanh và Nguyễn Đại Phát phải mở cửa thành Qui Nhơn xin hàng. Thành Quy Nhơn được đổi tên là thành Bình Định (kinh đô Chà Bàn cũ của người Chăm).
Tuẫn tiết[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1801, khi đại quân chúa Nguyễn rút về Gia Định, thành Bình Định được giao cho Võ Tánh và Lễ bộ tham tri Ngô Tùng Châu trấn giữ. Thành Bình Định ngay sau đó bị đại quân Tây Sơn, dưới quyền chỉ huy huy của Thái Phó Trần Quang Diệu và tướng Võ Văn Dũng đến bao vây. Trần Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành và chia quân vây bốn mặt, Võ Văn Dũng thì đôn đốc thủy quân phòng giữ cửa Thị Nại. Cuộc bao vây kéo dài đến 14 tháng.
Cũng trong năm này, Nguyễn Ánh cùng Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy đem đại binh ra tìm cách giải vây cho Bình Định, đại thắng thủy quân Tây Sơn tại Thị Nại. Đây là trận thủy chiến lớn nhất của cuộc chiến tranh Nguyễn-Tây Sơn. Tuy quân Nguyễn thắng trận, tiêu diệt thủy quân Tây Sơn, nhưng không giải vây được trên bộ, thành Bình Định vẫn bị quân Tây Sơn vây chặt.
Võ Tánh và Ngô Tùng Châu sai người lén đem mật thư ra cho Nguyễn Phúc Ánh khuyên ông kéo quân ra đánh Phú Xuân, để ông cùng Ngô Tùng Châu cố giữ thành cầm chân quân Tây Sơn. Chúa Nguyễn nghe theo, và tháng 5 năm Tân Dậu (1801) đánh lấy được Phú Xuân.
Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng nghe tin Phú Xuân thất thủ, liền sai tướng đem quân ra cứu. Quân ra tới Quảng Nam thì bị chặn đường phải trở lui. Trần Quang Diệu nổi giận đốc quân đánh thành luôn ngày đêm. Trong thành binh sĩ lâu ngày thiếu lương thực, có người khuyên Võ Tánh nên vượt vòng vây trốn thoát, nhưng ông cương quyết ở lại "Không thể được. Ta phụng mạng giữ thành này, nên thề với thành cùng sống chết. Nếu bỏ thành mà hèn nhát trốn lấy một mình, thì sau này còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng?". Ông sau đó cho người trao cho Trần Quang Diệu một bức thư, xin tha chết cho quân sĩ trong thành. Ông sai thuộc hạ lấy rơm củi chất dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào, rồi châm ngòi tự vẫn. Tiếp theo, Ngô Tùng Châu cũng dùng thuốc độc tự vẫn. Đó là ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu, tức vào ngày 7 tháng 7 năm 1801.
Khi chiếm được thành, Trần Quang Diệu tỏ ra xúc động trước sự trung dũng của Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, sai người tẩm liệm thi hài hai ông tử tế, rồi theo lời yêu cầu của Võ Tánh, không giết hại hàng binh nhà Nguyễn.
Năm 1802, khi chúa Nguyễn đã chiếm được Phú Xuân, Tây Sơn lại mất Trấn Ninh, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng phải bỏ thành đi theo đường thượng đạo qua Lào về cứu vua Cảnh Thịnh...[1]
Thương tiếc[sửa | sửa mã nguồn]
Vua Gia Long truy tặng Võ Tánh là Dực vận công thần Thái úy Quốc công. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), truy phong ông là Hoài Quốc công.
Trước cái chết anh dũng của Võ Tánh, người dân Bình Định đã lưu truyền câu hát dưới đây:
- Ngó lên ngọn tháp Cánh Tiên:Cảm thương quan Hậu thủ thiềng (thành) ba năm!
Vợ Võ Tánh là công chúa Ngọc Du, khóc ông bằng bài thơ:
- Những tưởng ra tay giúp nước nhà:Ai dè bình địa nổi phong ba.
- Xót người vị quốc liều thân ngọc,
- Khiến thiếp cô phòng ủ mặt hoa.
- Gối mộng mơ màng duyên nợ cũ,
- Đài mây xiêu lạc phách hồn xa.
- Lửa trung đốt đỏ gương hào kiệt,
- Nóng ruột thuyền quyên giọt lệ sa![2]
Lăng mộ[sửa | sửa mã nguồn]
Mộ Võ Tánh nằm trong nội cung thành Hoàng Đế của Nguyễn Nhạc, cũng là thành Đồ Bàn của vua Chăm. Mộ hình tròn trên có đắp biểu tượng một con dơi, nằm kề bên mộ Ngô Tùng Châu hình chữ nhật (đã được cải táng về Phù Cát). Theo Vương Hồng Sển, thì thi hài Võ Tánh đã bị cháy hết. Sau, vua Gia Long sai lập một mộ nữa cho ông ở Phú Nhuận (nay tọa lạc tại hẻm số 19 đường Hồ Văn Huê) và chôn hình nhân bằng sáp [3]
Tại đầu ấp Gò Tre, xã Long Thuận, thị xã Gò Công, hiện có ngôi đền thờ Võ Tánh mang tên là Võ Quốc Công Miếu.
Đường phố[sửa | sửa mã nguồn]
Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 (lúc đó gọi là Sài Gòn và Gia Định) có tới 2 con đường mang tên Võ Tánh. Đường Võ Tánh của Đô thành Sài Gòn cũ hiện nay là một đoạn của đường Nguyễn Trãi (đoạn đi qua quận 1 từ Ngã 6 Phù Đổng đến đường Nguyễn Văn Cừ hiện nay (đường Cộng Hòa cũ), còn đoạn đi qua quận 5 trước năm 1975 vẫn mang tên đường Nguyễn Trãi), còn đường Võ Tánh của tỉnh Gia Định cũ nay là đường Hoàng Văn Thụ ở quận Phú Nhuận và quận Tân Bình.
Thông tin thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Võ Đông Sơ, người đã gợi cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật dựa trên mối tình Võ Đông Sơ-Bạch Thu Hà nổi tiếng, là con của ông và công chúa Ngọc Du[4].
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (quyển 2), Trung tâm Học liệu, Sài Gòn, 1971, tr. 163.
- ^ Chép theo Huỳnh Minh, Gò Công xưa. Nxb Thanh niên, 2001, tr. 14.
- ^ Sài Gòn năm xưa. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1991, tr. 189).
- ^ Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà: Thiên tình sử nước Nam bị tưởng là của Trung Quốc
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
|
|