Để khẳng
định chủ nhân lăng Ba Vành là Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại một số nhà
nghiên cứu ở Huế dựa vào cứ liệu duy nhất là hương phổ làng Đồng
Di và gia phả họ Lê Quang thuộc làng Đồng Di,
huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Thực tế họ Lê Quang làng Đồng Di không
có gia phả chép các vị tổ trước 1930 và các thư tịch như hương
phổ và tư văn nghi tiết tế lễ của làng, soạn trước năm
1966, không hề có ngài Hộ bộ kiêm Binh Bộ Ý Đức Hầu Lê quí công.
Có người làng Đồng Di đọc báo Bách Khoa Sài Gòn năm 1961, thấy bài viết
của cụ Bửu Kế nói về ngài Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Ý Đức Hầu họ Lê là người
làng, có mộ là lăng Ba Vành nên làng đã ghi thêm vào hương phổ vị nhân
thần này từ 1966. Còn quan Hồng lô tự khanh Vũ Bá Khương từng
đưa hài cốt thân phụ Vũ Bá Bình của ông vào chôn ở nấm lăng Ba
Vành vào năm 1917. Bị ông Án Chất tố giác việc cải táng mộ cha,
ông Vũ Bá Khương phải nhờ con trưởng là Hàn lâm biên tu Vũ Bá Đạm chạy
án, nhờ tòa khâm sứ Pháp can thiệp với Nam triều, mới khỏi trọng tội.
Ông Vũ Bá Khương phải đưa hài cốt của cha khỏi lăng Ba Vành ngay trong
năm 1917. Bộ Lễ Nam triều khi trả lời ông R.Orband thì cho rằng ông Vũ
Bá Khương đã đưa Hộ Bộ kiêm Binh Bộ vào chôn ở lăng Ba Vành. Chẳng có tờ
khai với bút tích của Đinh Như Nghi, Vũ Bá Khương! Cụ Bửu Kế chẳng chụp
ảnh và công bố các tư liệu. Trong vụ việc này có phần mờ ám!!!. Trong
khi đó ngài Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại là nhân vật lịch sử duy
nhất, thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, có mộ táng tại làng Xuân Hòa, bia
đá có khắc chức vụ và nơi ngài từng làm quan. Chúng tôi đã công bố đầy
đủ tư liệu cho phép khẳng định chủ nhân đầu tiên của lăng Ba Vành không
phải Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại. Như vậy cho đến nay [2009],
lăng Ba Vành vẫn chưa có chủ nhân.
Thế
thì chủ nhân đầu tiên của lăng Ba Vành là ai?
Để trả
lời câu hỏi hóc búa này, chúng tôi sẽ lần lượt công bố các bài viết sau
đây:
- Lăng Ba Vành hội đủ các
tiêu chí của lăng vua.
- Lăng Ba Vành là lăng vua
bị quật phá để trị tội và bị yểm.
- Lăng Ba Vành bị người đời
sau tìm cách che giấu khi giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu dựa vào gợi ý của
linh mục Cadiere, đã công bố chủ nhân của lăng là vua Quang Trung
vào năm 1961.
- Lăng Ba Vành là công trình
kiến trúc thời Tây Sơn.
Bài viết
này gồm có 8 mục:
- Cảnh quan phong thủy lăng Ba
Vành hội đủ yếu tố địa cuộc đế vương.
- Tân nguyệt trì chỉ có ở lăng
vua hay lăng mẹ của vua.
- Chỉ lăng vua mới có cổng tam
quan trước bửu thành.
- Nấm mộ hình mai rùa dành cho
bậc tôn quí: đại quan, vua.
- Nhà bia ở lăng vua có nền
chữ thập và mái che.
- Lăng vua chúa có toại đạo.
- Lăng vua có nhà hà hộ lăng,
vườn lăng, giếng nước sinh hoạt.
- Motip rồng được trang trí ở
lăng Ba Vành thuộc về thời Tây Sơn.
PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU:
Chúng tôi
dựa vào những tư liệu thành văn, quan sát những lăng vua, chúa, đại quan
qua các thời, nhất là thời cuối Lê đầu Nguyễn, so sánh đối chiếu để tìm
qui luật bất thành văn. Sau đó vận dụng cho lăng Ba Vành.
Mục A
chúng tôi đã công bố trên diễn đàn “Chim Việt cành Nam”
qua
bài “Lăng Ba Vành dưới góc nhìn địa lý phong thủy”.
Còn mục H khá tỉ mỉ và dài, xin công bố thành một bài riêng sau
bài [1].
-
TÂN NGUYỆT TRÌ CHỈ CÓ
Ở LĂNG VUA VÀ LĂNG MẸ VUA
Nghiên cứu
những tiêu chí lăng vua, cha mẹ vua trong kiến trúc lăng mộ cổ sẽ giúp
ngành khảo cổ học phát triển phương pháp giám định chủ nhân những lăng
mộ cổ bị tàn phá. Một trong những tiêu chí sẽ được xét trong bài này là
cấu kiện tân nguyệt trì.
Một lăng
vua trên bình đồ có thể chia làm hai phần :
- Bửu thành và tân nguyệt
trì ;
- Vườn lăng.
Bửu
thành và Tân nguyệt trì là cấu kiện có trục đối xứng hình
học. Bửu thành tượng nhật, tân nguyệt trì tượng nguyệt, nhật 日
hợp nguyệt 月
là minh [明];
hàm ý chủ nhân ngôi mộ là bậc minh quân. Bao quanh Bửu thành và Tân
nguyệt trì là Vườn lăng. Vườn lăng bao gồm các cấu kiện khác của lăng
như nhà bia, điện thờ, hồ, nhà thủy tạ… và tùy theo địa hình địa thế mà
xây dựng, trang trí; không cần đối xứng hình học giữa các cấu kiện trong
vườn lăng.
Tân
nguyệt trì? Tân nguyệt trì có khi gọi là hồ tân nguyệt, là
ao trăng non, nó không phải là hồ bán nguyệt, tức hồ
nửa hình tròn mà là hồ hình hạt đậu quyên.Tân nguyệt trì
trước Bửu thành, cùng trục đối xứng với Bửu thành và Bửu thành thì bao
bọc che chở nấm mộ.
Các chúa
Nguyễn của Đàng Trong chưa bao giờ được triều Thanh phong vương, chỉ một
số vua Đinh, Lê, Lý, Trần, Tây Sơn, các vua đầu triều Nguyễn mới được
Thanh triều phong An Nam quốc vương, Việt Nam quốc vương. Vì thế
các lăng của các chúa Nguyễn không bao giờ có tân nguyệt trì. Tẩm mộ
của các bà vợ của chúa Nguyễn cũng không có tân nguyệt trì, nhưng nếu có
hồ thì đó chỉ là hồ bán nguyệt.
Quan sát
các lăng vua như lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Tự
Đức, lăng Dục Đức, lăng Đồng Khánh, lăng Khải Định hoặc lăng mẹ vua, tức
người sinh ra vua, như lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên, lăng Hiếu
Đông của bà Hồ Thị Hoa, lăng Xương Thọ của bà Từ Dũ… thì thấy trước bửu
thành đều có tân nguyệt trì. Tuy nhiên lăng mộ thân phụ của vua mà
không từng làm vua thì trước bửu thành cũng không có Tân nguyệt trì
như lăng Cơ Thánh (lăng Cao Hoàng), lăng Thoại Thái Vương, lăng Kiên
Thái Vương, dẫu Nguyễn Phúc Luân là cha của vua Gia Long, Thoại Thái
vương Nguyễn Phúc Hồng Y là cha của vua Dục Đức, Kiên Thái Vương Nguyễn
Phúc Hồng Cai là cha của vua Đồng Khánh. Để minh họa xin được trích một
số ảnh chụp các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức,
Đồng Khánh, Khải Định, phía trước lăng có tân nguyệt trì:
Hình1: Lăng Gia Long
phía trước có tân nguyệt trì
Hình 2: Tân nguyệt
trì của lăng Minh Mạng
Hình 3: Tân nguyệt
trì khá rõ của lăng Thiệu Trị.
Hình 4: Toàn cảnh
bình đồ lăng Tự Đức, có Hồ Tân Nguyệt trước Bửu Thành
Hình 5: Tân nguyệt
trì trước bửu thành lăng vua Tự Đức.
Hình 6: Một bờ của
tân nguyệt trì trước An Lăng của vua Dục Đức
Hình
7: Một đoạn bờ tân nguyệt trì trước cửa lăng vua Đồng Khánh
(ảnh của
Ph. Eberhardt)
Hình 8: Lăng Khải
Định đang xây dựng dở dang, trước lăng có khe
(sẽ tạo tân nguyệt
trì cho lăng).
Hình 9: Tân nguyệt
trì trước lăng Thiên Thọ hữu, lăng mẹ vua Minh Mạng
Hình 10 : Tân
nguyệt trì trước lăng Hiếu Đông (lăng mẹ vua Thiệu Trị),đã cạn, nhưng
phần kè đá vẫn còn.
Hình 11 : Tân
nguyệt trì trước Xương Thọ Lăng của đức Từ Dũ (mẹ vua Tự Đức)
Nhưng
lăng thân phụ các vua như lăng Cơ Thánh (lăng cha vua Gia Long), lăng
Thoại Thái vương (cha vua Dục Đức)… không có tân nguyệt trì vì các vị
này không làm vua.
Hình 12 :
Lăng Cơ Thánh ( lăng cha vua Gia Long) không có tân nguyệt trì.
Hình 13: Lăng Thoại
Thái vương không có tân nguyệt trì
(ảnh tư liệu gia
đình TTV)
Triều
Nguyễn không có văn bản luật lệ cụ thể về tân nguyệt trì, nhưng lệ bất
thành văn về xây dựng hồ trước lăng mộ cũng có sức mạnh ghê gớm! Cựu
tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành từng làm bồn hoa trước lăng Đông
Quân, lăng mẹ của ông, thoạt nhìn bồn hoa có hình bán nguyệt. Chỉ tỉ mỉ
đo đạc mới thấy bồn hoa của lăng Đông Quân không phải là hình bán nguyệt
mà là hình bán nguyệt hơi khuyết một chút, nghĩa là bồn hoa thuộc loại
tân nguyệt trì. Việc này góp thêm tội “sửa mộ mẹ quá phép” của Nguyễn
Văn Thành, một trong những trọng tội dẫn đến cái chết của đại công thần
này.
Vậy: “Chỉ
có lăng vua và mẹ sinh ra vua mới có tân nguyệt trì trước bửu thành hay
tẩm. Còn thân phụ của vua mà chưa từng làm vua thì trước tẩm mộ không có
xây tân nguyệt trì”
Thế
thì lăng Ba Vành có tân nguyệt trì trước bửu thành là một điều không thể
bỏ qua.
Các cụ
già như cụ Châu Mậu, Nguyễn Phương ở Ngũ Tây đều nhớ hồ trước bửu thành
lăng Ba Vành được kè đá, có nước bốn mùa. Lăng các chúa Nguyễn không có
tân nguyệt trì, lăng ông quan Hộ bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại, thời các
chúa Nguyễn Phúc Chu, chúa Nguyễn Phúc Khoát, dám xây tân nguyệt trì
trước lăng ư? Vua chúa triều Nguyễn có chấp nhận việc làm này không? Khi
lăng Ba Vành đã thành phế tích, năm 1917 quan Hồng Lô Tự Khanh Vũ Bá
Khương, người làng La Ỷ, cải táng hài cốt thân phụ Vũ Bá Bình vào chôn
dưới nấm của lăng, bị ông án Chất tố cáo, suýt bị trọng tội. May có con
trai là Hàn lâm biên tu Vũ Bá Đạm chạy án, nhờ tòa Khâm sứ Pháp can
thiệp với triều đình vua Khải Định thì quan Vũ Bá Khương mới khỏi bị
tội. Một điều dễ hiểu là ông Vũ Bá Bình khi vào lăng Ba Vành nằm, ông
này có tân nguyệt trì trước mộ, hóa ra ông là vua ư? Vũ Bá Khương dời
ngay hài cốt của ông Vũ Bá Bình ra khỏi lăng Ba Vành trong năm 1917.
HọVũ Bá sau năm 1917 không ai dám trở lại lăng Ba Vành!!!
Hình
14 : Tân nguyệt trì trước bửu thành lăng Ba Vành
(nhìn từ cổng lăng)
Hình 15 :Tân Nguyệt
Trì của lăng Ba Vành ( nhìn bên hông).
Hình 16: Tân nguyệt
trì có nước (chụp phía hông ).
Lăng Ba Vành có tân
nguyệt trì chứng tỏ lăng này là lăng vua!
- CHỈ LĂNG VUA MỚI CÓ
CỔNG TAM QUAN TRƯỚC BỬU THÀNH
Lăng, tẩm,
mộ có uynh thành tất có cửa lăng, cửa tẩm, cửa mộ. Một vấn đề chúng tôi
quan tâm là cổng lăng của hoàng đế và cổng lăng của các vương có gì khác
nhau?
Xem xét
cổng lăng của các vua Lý, các vua Lê của Đại Việt, thường được các vua
Tống, vua Minh phong “An nam quốc vương” thì cổng lăng là “cổng tam
quan”. Không rõ khi mới xây dựng thì cổng một cửa hay cổng ba cửa? Nhưng
thời Nguyễn, dân sở tại cùng với sự hỗ trợ của các quan trấn nhậm của
triều Nguyễn, đóng góp công của để tôn tạo lăng vua Lý, lăng các vua Lê…
thì cổng lăng phải là cổng tam quan.
Hình 17 : Cổng tam
quan vào lăng vua Lý Thái Tổ.
Hình 18 : Cổng tam
quan vào lăng vua Lê Thái Tổ.
Khảo sát
các lăng vua triều Nguyễn thì thấy rằng cổng vào lăng là cổng tam quan.
Nhưng khảo sát lăng của các thân vương, hoàng tử, công chúa, các phi tần
thì cổng lăng chỉ có một cửa. Đây là một lệ thời phong kiến, dẫu bất
thành văn nhưng có thể kiểm chứng ở hằng trăm lăng mộ cổ ở Thừa Thiên
Huế. Các lăng vua Nguyễn dù to hay nhỏ bao giờ cũng có cổng tam quan.
Hình19: Cổng tam
quan trước Điện Minh Thành của lăng Thiên Thọ ( lăng Gia Long)
(chụp năm 1950, tư
liệu của P.T.A)
Hình 20:
Cổng tam quan ở Hiếu Lăng ( lăng vua Minh Mạng)
Hình 21: Cổng tam
quan ở Xương Lăng ( lăng vua Thiệu Trị )
Hình 22: Cổng tam
quan trước bửu thành Khiêm Lăng ( lăng vua Tự Đức)
Hình 23: Cổng tam
quan trước bửu thành An Lăng ( lăng vua Dục Đức)
Hình 24: Cổng tam
quan ở trước Tư Lăng (lăng vua Đồng Khánh)
Hình 25: Cổng tam
quan trước lăng Khải Định.
Triều Lê
gần triều Nguyễn. Một số lệ luật triều Nguyễn vẫn kế thừa triều Lê. Một
vị đại quan họ Phan có lăng mộ ở Bắc Giang, có khu lăng mộ với tên gọi
Lăng Bầu Đá, được xây dựng vào thời Lê, có cổng lăng chỉ có một cửa.
Hình 26: Cổng một
cửa trước lăng Bầu Đá ( mộ ông tổ họ Phan)
Hay khu
lăng đá Dinh Hương, có mộ của quận công tước hầu họ La, quan thái giám
triều Lê khá bề thế với tượng người hầu, voi chầu, ngựa chầu… cũng có
cổng lăng với một cửa.
Hình 27: Cổng một
cửa của lăng Dinh Hương
(có mộ của quận công
họ La, thái giám triều Lê)
Một vị
thái vương như Thoại Thái vương, thân phụ của vua Dục Đức, ông nội của
vua Thành Thái, ông cố của vua Duy Tân, có lăng ở gần sông Bồ với cổng
lăng chỉ có một cửa. Một vị thái vương khác là Kiên Thái Vương, thân phụ
vua Đồng Khánh có lăng với cổng một cửa.
Các chúa
Nguyễn Đàng Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, các vị chúa như Nguyễn
Phúc Khoát, Nguyễn Phúc Thuần dẫu xưng vương nhưng do triều Thanh không
chấp thuận nên lăng mộ của các ngài có cổng lăng với một cửa mà thôi.
Hình 28: Cổng một
cửa thuộc lăng Trường Cơ của chúa Nguyễn Hoàng
Hình 29: Cổng một
cửa thuộc lăng Trường Thanh của chúa Nguyễn Phúc Chu.
Hình 30: Cổng một
cửa thuộc lăng Trường Thiệu của chúa Nguyễn Phúc Thuần
Hình 31: Cổng một
cửa của lăng Kiên Thái Vương
(Ảnh tư liệu của P.T.A)
Hình 32: Cổng một
cửa của lăng Thoại Thái Vương (Ảnh tư liệu của gia đình TTV)
Hình 33: Cổng một
cửa của lăng Tuy Lý Vương.
Vậy: “Lăng
vua Đại Việt, hay vua Việt Nam, được thiên triều Trung Quốc phong An nam
quốc vương hay Việt Nam quốc vương thì mới có cổng tam quan. Còn lăng
các quốc chúa, thân vương với cổng lăng chỉ có một cửa”
Từ những
nhận định trên, chúng tôi rất đỗi ngạc nhiên khi đến khảo sát lăng Ba
Vành. Bửu thành lăng Ba Vành to hơn lăng các chúa Nguyễn và uynh thành
ngoài cùng có hai trụ cổng rất lớn, dù đã bị phá. Má trong hai trụ cổng
cách nhau 6 mét. Một cổng lăng như thế thật là hiếm. Khi phát hiện những
tảng đá dài vài mét, có dấu vết vôi đắp phù điêu, dấu vết chữ Hán khắc
trên đá bị đục đế xóa… chúng tôi đã ngờ cổng lăng này thuộc loại cổng
tam quan (?).
Hình 34: Hai trụ cổng còn lại của lăng
Ba Vành với hai má trong cách nhau 6 mét.
Nếu cổng
lăng chỉ có một cửa rộng 6 mét thì rất khó tạo tác và không mỹ thuật,
chưa kể vi phạm điều tối kỵ trong thuật phong thủy cổ. Vậy cổng này phải
có 3 cửa, dĩ nhiên cửa giữa to và hai cửa hai bên nhỏ. Chúng tôi đã cho
phát quan, làm cỏ và dọn lớp đất đá ở cổng lăng Ba Vành và sơ bộ phát
hiện:
- Rất nhiều mảnh vỡ của gạch
bìa 23x14x3 (cm) để xây vòm, khung.
- Một số gạch vuông màu xám
23x23x5 (cm), được ép chứ không nung, dùng để chèn, kê đá có khắc chữ,
đá đắp phù điêu, chống nứt, rạn… Một số gạch múi bưởi, tiết diện hình
rẽ quạt, bán kính 20 cm, góc ở tâm 300 để chèn những phần
uốn cong.
- Một số mảnh ngói liệt.
- Đặc biệt chúng tôi đã
phát lộ dấu vết khá rõ ràng của hai móng trụ 80x130 (cm) rất đối xứng
qua đường thần đạo của lăng Ba Vành. Hai móng này chứng tỏ ở cổng lăng
từng có hai trụ giữa, cùng với hai trụ lớn ở hai bên chống đỡ vòm
cổng, tạo nên cổng tam quan.
Hình 35 : Dấu vết
hai trụ giữa của cổng tam quan thuộc lăng Ba Vành
Hình 36: Bậc thềm
trước cổng tam quan phủ đầy gạch vỡ của cổng bị phá.
- Tảng đá lớn hình thoi,
dài1,5m, để chế tác biển có hiệu lăng. Tảng đá này vẫn còn một mặt khá
phẳng có khắc chữ đã bị đục nát.
- Tảng đá to bảng, dài
khoảng1,8 mét, còn dấu vôi vữa đắp phù điêu.
- Tảng đá dài gần 2 mét để làm
lăng tô phía trên vòm cửa giữa của cổng tam quan.
Hình 37: Một tảng
đá dài để tạo tác biển khắc hiệu lăng ( còn dấu vết đục xóa tỉ mỉ ) và
một tảng đá dài còn dấu vết của vôi vữa đắp nổi phù điêu.
Hình 39: Tảng đá dài
gần 2 mét dùng làm lăng tô cho cửa giữa của cổng tam quan.
Lăng Ba Vành có
cổng tam quan chứng tỏ lăng Ba Vành là lăng vua!
- NẤM MỘ HÌNH MAI RÙA
DÀNH CHO NHỮNG BẬC TÔN QUÍ.
Con qui là
một trong 4 con vật linh, khi nó có mặt ở lăng mộ với cái mai bao bọc
nấm mộ thì nó có vai trò che chở chủ nhân ngôi mộ, vị chủ nhân này là
bậc tôn quí như các đại quan có tước công, hầu hoặc các vương, đế.
Linh mục
Cadiere, trong bài Các mô típ mỹ thuật An Nam có viết về con rùa.
Cadiere cho rằng con rùa là biểu tượng sự vững bền, cái mai chắc chắn
biểu tượng cho sự chở che và con rùa có trong truyền thuyết mang màu sắc
dịch lý… Vì vậy nấm mộ mai rùa không phổ biến trong dân gian. Loại lăng
mộ cổ có nấm mai rùa rất khó kiếm ở Phú Xuân Thuận Hóa. Trong công trình
nghiên cứu LĂNG MỘ CỦA NGƯỜI AN NAM TRONG PHỤ CẬN HUẾ (B.A.V.H,
tập XV, 1928) linh mục Cadiere từng viết:
“Trong
số những ngôi mộ xây, ngược lại, chúng tôi tìm thấy nhiều hình dạng.
Trước
hết chúng ta có những nấm hình bán cầu đã miêu tả ở trên, hiển
nhiên có qui tắc hơn, và cũng vậy, nấm này không bao giờ có kích thước
lớn (xem mộ cổ 150). Nhưng mẫu này lại hiếm hơn: trong tập sưu tầm những
phụ bản in theo đây, người ta chỉ gặp một nấm theo kiểu đó. Trong trường
hợp này nấm nằm trên một cái nền cũng hình tròn.
Một
hình dạng khá phổ biến nhiều hơn là hình dạng nửa hình trứng hoặc theo
một thành ngữ An nam, đó là nấm hình trứng ngỗng…
Có vài
dạng đặc biệt cũng liên kết với hai dạng trên. Ở mộ số 138,
cái nấm biểu thị hình mai rùa;…”
(sdd, các trang
9,10).
Và trong
phần LIỆT KÊ VÀ MIÊU TẢ NHỮNG LĂNG MỘ, có ngôi mộ được Cadiere đánh số
138 và miêu tả :
“Làng
Phú Xuân, thôn Trường Cưỡi. Đồ bản B.
Phụ
bản XXXIV-XXXV: A – Nấm liếp hình con qui…” (sdd, tr83) và ảnh vẽ:
Hình 40: Hình vẽ
ngôi mộ số 138 có nấm hình mai rùa.
Hình 41: Hình vẽ
bình đồ của ngôi mộ số 138
Con qui
thuộc tứ linh, chủ nhân ngôi mộ có nấm hình con qui là bậc tôn quí. Hơn
nữa mai của con qui còn có ý nghĩa chở che, bảo vệ. Loại này chỉ có một
trong 317 ngôi mộ mà Cadiere đã sưu tầm, đủ thấy thời phong kiến, ở kinh
đô Phú Xuân người ta dựng mộ kiểu này rất ít.
Năm 2001
cán bộ Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật tại Huế đã phát
hiện và công bố nhóm lăng mộ cổ thời chúa Nguyễn ở Văn Quí, Hải Tân,
Quảng Trị. Trong năm ngôi mộ cổ này có một ngôi mộ với nấm hình mai rùa.
Dựa vào bài nghiên cứu đăng ở Thông tin khoa học công nghệ… nhóm nghiên
cứu Trần Đức Sáng -Hoàng Thị Ái Hoa - Hoàng Minh Tuấn viết:
“Nấm mộ ở
khu lăng này đều là những tác phẩm điêu khắc tượng tròn hoàn chỉnh.
Ngôi mộ số I có hình ảnh linh quy rất sinh động với mai, đầu nhìn thẳng,
cũng như khoảng phân định giữa mai và chân đều được tạo hình một cách
sắc sảo. Nấm hình rùa được đặt trên bệ chữ nhật khá đăng đối. (4)….”
Hình 42: Ảnh chụp
toàn cảnh ngôi mộ có nấm mai rùa ở Văn Quý, Hải Tân, Quảng Trị.
Hình 43: Nấm mai
rùa có hai con cù bao quanh của ngôi mộ ở Văn Quý, Hải Tân,QuảngTrị.
Ngôi mộ
có nấm hình mai rùa ở Văn Quí, Hải Tân, Quảng Trị với chủ nhân là một
viên quan họ Trần, từng giữ chức Cai Hợp thuộc Ty Tướng Thần Lại ở Quảng
Nam, được một con trai và bốn người con gái dựng bia vào năm Kỷ Hợi[?].
Các tác giả chú thích văn bia:
“Văn
bia được chạm theo lối chữ chân, góc trên tả, hữu của mặt bia khắc hai
chữ Việt Cố khá lớn (5cm x 5cm), ở giữa khắc dòng chữ nhỏ hơn (4cm x
4cm): "Đầu khảo Quảng Nam Tướng Thần Lại ty Cai hợp Trần Quí công chi
mộ". Dòng chữ bên trái (3,5cm x 3,5cm): "Hiếu tử nam nhị, nữ tứ đồng lập
thạch". Dòng bên phải (3,5 cm x 3,5 cm): "Long phi Kỷ Hợi lương (?) (bị
vỡ không đọc được) cát đán (?) (bị vỡ không đọc được)".
Và các
nhà nghiên cứu trên cũng phát hiện một ngôi mộ có nấm mai rùa nữa ở làng
Hà Trung, các nhà nghiên cứu giới thiệu:
“Ngoài
ra, chúng tôi còn phát hiện tại làng Hà Trung (Gio Châu, Gio Linh, Quảng
Trị) một ngôi mộ bằng hợp chất vôi hàu giã thô, còn khá nguyên vẹn, với
nấm rùa có kích thước tương đối lớn (dài 1,89m, rộng 1,50m, đầu cao
0,53m), mai rùa hoa văn hình lục giác, mắt hướng
thẳng về trước, trông rất uy nghi, bề thế….”
Tất nhiên
các tác giả cũng chưa khẳng định được các ngôi mộ có nấm mai rùa được
xây dựng vào thời chúa Nguyễn khi viết:
“Phải chăng
những ngôi mộ vô chủ nằm rải rác trên dải đất miền Trung, mà dân gian
thường gọi "mả vôi", "mả rùa", "mả Tàu", "mả Mọi", "mả Hời", "mả trứng",
được xây dựng dưới thời chúa Nguyễn.”
Thật vậy
một ngôi mộ cổ không phải được xây dựng và lập bia một lần. Có khi ban
đầu chỉ là mộ đất, về sau con cháu thành đạt, ăn ra làm có mới đủ điều
kiện để xây lăng đắp mộ cho cha ông. Có thể con cái dựng bia sớm cho cha
mẹ, sau đó các cháu tôn tạo ngôi mộ, vẫn bảo lưu bia cũ mà không cần
khắc lại… Hơn nữa những ngôi mộ của những vị tôn quí, con cháu đã xây
lớn mà bỏ hoang thì có khả năng những vị ấy thuộc dòng họ thế gia vọng
tộc của triều trước, bị triều sau bắt bớ, giết chóc… con cháu phải bỏ
trốn không dám viếng mộ của cha ông! Vì lẽ đó khi giám định niên đại
ở một ngôi mộ cổ mà chỉ căn cứ vào năm dựng bia, rồi vội kết luận kiểu
thức xây dựng, môtíp trang trí thuộc thời chủ nhân ngôi mộ đang sống là
có thể phạm sai lầm. Chẳng hạn chúng tôi thử dựng một kịch bản, như
một giả thuyết công tác để xác định chủ nhân ngôi mộ có nấm mai rùa ở
Văn Quý, Hải Tân, Quảng Trị:
Trần
Văn Kỷ là con trai của quan Cai hợp thuộc ty Tướng Thần Lại ở Quảng Nam,
từng sống ở Vân Trình thuộc miền hạ lưu sông Ô Lâu. Cha mất trước năm
1775. Vì con quan, có điều kiện ăn học, từng dự những buổi bình văn ở
văn miếu Long Hồ, có sự hướng dẫn của quan hiệp trấn Lê Quí Đôn vào giai
đoạn từ 1775 đến 1779. Trần Văn Kỷ đã ra Thăng Long ứng thí và đã đổ
cao. Về lại Phú Xuân, gia đình ông phấn khởi, nhờ phúc ấm của tổ phụ nên
đã xây mộ (chưa bề thế) và ông cùng các em dựng bia cho thân phụ vào năm
Kỷ Hợi[1779], nhân dịp Trần Văn Kỷ được “rồng mây gặp hội”(long phi). Vì
ân sâu nghĩa nặng với chúa Nguyễn, nên Trần Văn Kỷ không làm quan với
Lê-Trịnh, ẩn dật chưa có điều kiện tôn tạo mộ phần tổ tiên. Mùa hè năm
1786 Nguyễn Huệ ra Phú Xuân với danh nghĩa phò hoàng tôn Dương, mời Trần
Văn Kỷ và ông đã tham gia phong trào Tây Sơn đắc lực… Khi làm đến chức
Trung Thư phụng chính, Trần Văn Kỷ có điều kiện tôn tạo mộ cha và các
thân nhân khác ở vùng thượng nguồn sông Bồ, tức ở Văn Quí, Hải Tân,
Quảng Trị. Khi vua Gia Long thanh toán triều Tây Sơn, Trần Văn Kỷ bị
giết và con cháu cũng phiêu tán… nên mộ phần gia tộc Trần Văn Kỷ
cũng bị quên lãng.
Giả
thuyết công tác vừa nêu gọi là góp ý kiến với các nhà nghiên cứu nhằm
giám định lịch sử kiến trúc, lịch sử mỹ thuật về nhóm mộ ở Văn Quý, Hải
Tân, Quảng Trị. Không vội khẳng định nhóm mộ này được xây thời chúa
Nguyễn vì còn có khả năng nhóm mộ được xây dựng vào thời Tây Sơn.
Chủ nhân sống và chết thời chúa Nguyễn, con lập bia thời quân Lê Trịnh
chiếm Phú Xuân và tôn tạo lớn khi có điều kiện làm quan lớn ở triều Tây
Sơn. Để có cơ sở khoa học hơn chúng ta phải dùng kỹ thuật định tuổi
của khảo cổ học mới có kết luận.
Tuy
nhiên có thể nhất trí rằng đối với những ngội mộ có nấm hình mai rùa,
tức có con qui, thuộc bộ tứ linh thì chủ nhân ngội mộ phải là những bậc
tôn quí như đại quan, vương hầu và hoàng đế.
Ở lăng Ba
Vành, nấm hình con qui gấp nấm ngôi mộ 138 nói trên, hoặc nấm hình rùa ở
hai ngôi mộ ở Quảng Trị đến 5 lần! Mai rùa ở lăng Ba Vành to hơn mai rùa
ở các mộ ở Trường Cỡi (Huế), Hải Tân (Quảng Trị), Hà Trung (Quảng Trị).
Như vậy chủ nhân lăng Ba Vành phải là một vị đại tôn quí, không ai hơn
nữa đó là vua.
Hình 44: Nấm mộ hình
mai rùa to lớn của lăng Ba Vành
Hình 45: Bia trước
nấm mai rùa là bia ghi năm xây dựng lăng chứ không phải bia thờ.
- NHÀ BIA CÓ NỀN CHỮ
THẬP Ở LĂNG VUA.
Khuôn
tĩnh ở lăng vua là phần quan trọng nhất của lăng mộ về mặt phong thủy,
đặt ở nơi có long mạch đế vương. Nhưng phần này ở dưới mặt đất, khó xác
định vì được giữ bí mật. Phần công khai là bi đình hay nhà bia,
nơi tôn trí bia “thánh đức thần công”, có minh văn ca ngợi công
đức của vị vua táng ở trong lăng. Bia có nhà bia với cột gỗ được sơn son
thếp vàng hoặc cột bê tông có chạm nổi hình rồng uốn lượn. Mái của nhà
bia lợp ngói, với tầu đao, diềm mái có trang trí rồng…
Điều
chúng tôi quan tâm là nền nhà bia. Thường nền nhà bia của lăng
vua có hình chữ THẬP, với ý nghĩa “BÁT PHƯƠNG THIÊN ĐỊA”. Bốn
phía nhà bia người ta trỗ 4 cửa, mỗi cửa đều có bậc cấp. Hai bên bậc cấp
có cặp rồng hoặc cù. Mộ cổ của các thân vương của triều Nguyễn cũng có
nhà bia nhưng nền không có bình đồ là chữ thập, thay vào đó có bình đồ
là hình vuông hoặc chữ nhật. Để minh họa qui luật bất thành văn này, đối
với việc dựng bi đình ở lăng vua, chúng tôi giới thiệu hình ảnh một số
bi đình lăng vua tiêu biểu ở nước ta như sau:
Hình 46: Nhà bia tưởng niệm vua Lý
Thái Tổ
Hình 47: Nhà bia Vĩnh Lăng của Lê
TháiTổ
Hình 48: Nhà bia đổ
nát của Lăng vua Gia Long
Hình 49: Nhà bia của
lăng vua Minh Mạng
Hình 50: Nhà bia
lăng vua Thiệu Trị.
Hình 51: Nhà bia của
lăng vua Tự Đức
Hình 52: Nhà bia của
lăng vua Dục Đức
Hình 53: Nhà bia của
lăng vua Đồng Khánh
Hình 54: Nhà bia của lăng vua Khải
Định
Vậy:
Ở lăng vua Đại Việt hay Việt Nam thời phong kiến thì nhà bia có nền chữ
thập, có mái che, bốn phía đều mở cửa và có bậc cấp.
Chúng tôi
từng chứng minh ở lăng Ba Vành có hai bia, bia ghi năm phụng lập vẫn còn
nhưng có dấu yểm. Còn bia thờ tất nhiên to hơn bia phụng lập và có bài
minh ghi công nghiệp của chủ nhân ngôi mộ. Bia này đã bị hủy và có khả
năng đã được tận dụng để tạo ra bia thờ thổ thần cho ngôi mộ giả ở sân
chầu. Nền nhà bia có hình chữ thập, biểu trưng bát phương thiên địa. Dấu
vết bẻ góc nền nhà bia thành chữ thập vẫn còn ở 2 góc trong 4 góc. Dưới
những viên đá hộc mới chất về sau, chúng tôi phát hiện nhiều gạch bìa và
ngói mỏng. Điều này chứng tỏ ban đầu có nhà bia với bốn cột gỗ, có mái
lợp ngói liệt để che bia thờ. Điều này chứng tỏ nền móng chữ thập phát
hiện ở lăng Ba Vành không phải là bàn thờ thổ thần. Nhà bia ở trên trục
vuông góc với đường thần đạo của ngôi lăng. Như thế bia thờ đặt trên
trục này, hướng về đông-bắc, nghiêng bắc 300.
Hình 55 : Nền móng
nhà bia của lăng Ba Vành
Hình 56: Một góc còn
rõ góc cạnh của một phần tư nền
nhà bia ở lăng Ba
Vành
Hình 57: nền nhà bia
có nền chữ thập.
Hình 58: Một góc
khác của nền bia chữ thập.
Hình 59: Gạch, ngói,
đá để dựng nhà bia tìm thấy ở lăng Ba Vành
Ở làng Cư
Chánh, có cụ Nguyễn Ngọc Tiên, 70 tuổi, hậu duệ của ngài An Ninh bá
Nguyễn Ngọc Huyên, cho biết ở Cư Chánh từng có cái miếu nhỏ thờ một khối
đá thần hoặc khối đá trạng. Khối đá thuộc loại đá Thanh hình hộp nhưng
mặt đá còn thô.
Hình 60: Ảnh chụp cụ
Nguyễn Ngọc Tiên, trước từ đường phái nhất
họ Nguyễn Ngọc ở Cư
Chánh
Cụ Nguyễn
Ngọc Tiên kể nguồn gốc khối đá như sau:
Ngày
xưa khi chưa có lăng Hiếu Đông, lăng vua Thiệu Trị, lăng Bà Nhất, lăng
bà Từ Dũ đã có khối đá ở dưới gốc nhãn. Dân làng Cư Chánh phải đặt bát
hương trước khối đá để thờ. Tại sao? Theo truyền khẩu khi voi kéo một
cái bia to nặng, từ dưới Huế lên Bến Than, đến làng Cư Hóa để vào dựng ở
lăng Ba Thành, voi ré không kéo bia nữa, quan quân quyết định hớt một
khúc khoảng 4 tấc phía chân bia để làm phép, khi ấy voi mới kéo tiếp
theo đường núi để vào lăng Ba Vành, còn khối đá để bên vệ đường… Về sau,
có sở đá gần nơi làng thờ khối đá, các thợ đá xây dựng lăng Thiệu Trị,
nghe dân làng Cư Hóa [Cư Chánh] thuật chuyện về khối đá ấy, đã xây am
nhỏ bằng gạch để thờ “khối đá thần”. Về sau làng vẫn tiếp tục thờ khối
đá ở am. Hiện nay am bị triệt giải và đưa đến vị trí mới cách gốc nhãn
khoảng 5 mét. Dân sở tại vẫn bảo lưu những viên gạch vồ của am, còn khối
đá vẫn lưu giữ. Người ta dùng vữa để đắp sát khối đá một bệ nhỏ để đặt 3
bát hương. Tư liệu này góp phần khẳng định lăng Ba Vành từng có bia
thờ khá lớn và tất nhiên có nhà bia. Còn bia có dấu trãm là bia ghi năm
phụng lập. Chúng tôi sẽ làm rõ hai cái bia ở lăng Ba Vành trong bài viết
[2],[3].
Hình 61: Tảng đá
thần được làng Cư Chánh thờ trên 200 năm.
- ĐƯỜNG TOẠI ĐẠO Ở LĂNG
VUA CHÚA
Đường toại
đạo ở một lăng vua là con đường hầm được đào sâu dưới đất, có hai chức
năng:
- dùng để đưa quan tài của vua
vào huyệt mộ;
- thoát nước để làm ráo khô
huyệt mộ.
Lăng Minh
Mạng có đường toại đạo. Lăng Thiệu Trị có đường toại đạo giống lăng Minh
Mạng. Và tất nhiên lăng Tự Đức cũng có đường toại đạo. Đỗ Phước Tiến
viết bài “ Miếng ăn để đời”có đoạn:
“Và
chuyện này do người thuyết minh di tích Hiếu lăng kể: ngày 20-8-1841,
quan tài của vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu thành bằng đường toại
đạo (đường hầm đưa quan tài vào huyệt mộ). Đường hầm kéo dài từ Đại Hồng
môn đến điểm tận cùng của La thành cách nhau đến 700 mét…Theo lời dặn
của vua cha Thiệu Trị, khi xây Xương lăng vua Tự Đức căn dặn Đổng lý Vũ
Văn Giai phải bắt chước cách làm toại đạo của Hiếu lăng. Nghĩa là truyền
thống vẫn tiếp tục.”
Vua Thiệu
Trị lâm bệnh mất ngày 4 tháng 11 năm 1847, lúc mới 41 tuổi. Khi hấp hối,
nhà vua còn dặn Hồng Nhậm: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao
chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Còn đường ngầm đưa quan
tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ
liệu lượng mà xây cho kiêm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến
tài lực của binh dân”. Vua Tự Đức dặn Vũ Văn Giai phải bắt chước
cách làm “toại đạo” giống như Hiếu lăng. Toại đạo, tức là đường hầm đưa
quan tài nhà vua vào huyệt mộ, được xây vào ngày 24 tháng 3 năm 1848.
Khi xây dựng các công trình như điện, đình, các, viện thì bắt chước quy
chế của lăng Gia Long, và tùy theo địa hình để châm chước định liệu mà
làm.
Những vụ
đào trộm mộ cổ, trong đó có một số mộ chúa Nguyễn, kẻ đào trộm thường
đào bên trái của mộ (khi đứng nhìn từ nấm ra cửa mộ) thì gặp đường toại
đạo. Đường toại đạo không thẳng, uốn cong theo bình đồ và có đoạn sâu
hơn nơi xây khuôn tĩnh. Một vị thuộc Nguyễn Phước Tộc (yêu cầu giấu tên)
sau vụ đào trộm lăng Trường Thanh của chúa Nguyễn Phúc Chu, được tin đã
lên hiện trường và đã từng theo đường toại đạo để tiếp cận khuôn tĩnh.
Vị ấy đã thấy cốt dâu bện rơm chứ không có hài cốt.
Vậy lăng vua
chúa thời cuối Lê đầu Nguyễn có xu hướng dựng đường toại đạo để đưa quan
tài vào huyệt và có chức năng như một cái họng để chứa nước, nhằm làm
ráo nước huyệt mộ.
Cách đây
21 năm chúng tôi có gửi bảo tàng Huế một bộ sưu tập gạch qua các thời,
tìm thấy ở Thừa Thiên Huế, trong đó có một viên gach tìm thấy ở hầm chứa
đồ tùy táng của lăng Ba Vành, được nung rất kỹ, hình hộp ( trông như cái
bánh chưng), kích thước 15cmx15cmx4cm. Trên một mặt vuông của viên gạch,
người xưa đã vẽ phác thảo ngọn đồi, ở đỉnh đồi có mộ, và một đường
toại đạo từ dưới chân đồi lên mộ.
Hình
62: Mặt viên gạch có khắc chìm đường Toại Đạo
(tìm thấy ở hầm chứa
đồ tùy táng)
Như vậy
lăng Ba Vành từng bị lấy quan tài ra do đường toại đạo. Chắc chắn quan
quân Tây Sơn về hàng Nguyễn Vương có người biết và đã chỉ con đường toại
đạo này.Vậy nấm mộ mai rùa bị đục một góc, không vì mục đích lấy quan
tài hay lấy hài cốt.
Bằng
phương pháp âm học, chúng tôi biết được bên dưới mai rùa tạo bằng lớp bê
tông dày lại có một lớp vữa bê tông khá dày. Mai rùa và lớp bê tông này
cách nhau chưa tới 1mét, không thể đặt quan tài trên lớp bêtông. Vậy
khuôn tĩnh phải ở dưới lớp bêtông và chắc chắn có cửa để vào đường toại
đạo. Đây cũng là bằng chứng không có sự kiện “người cháu Lê Xuân của
họ Lê Quang Đồng Di đã quật nấm mai rùa để dời hài cốt Lê Quang
Đại sang Ngự Bình, rồi bỏ trốn vào Đà Nẵng…”
- LĂNG VUA CÓ NHÀ HỘ
LĂNG, CÓ GIẾNG ĐỂ SINH HOẠT,VƯỜN LĂNG
Lăng vua có
nhà hộ lăng hoặc tả, hữu tùng viện để quan hộ lăng, quân lính giữ lăng
hoặc người thân của nhà vua thường trú để giữ lăng, lo hương khói và tổ
chức bái tảo… Ngay thời Pháp thuộc, những lăng vua xây muộn như Tư Lăng,
An Lăng, Ứng Lăng cũng có nhà hộ lăng hoặc tả hữu tùng viện.
Ở An
Lăng, sau điện Long An có Tả Hữu tùng viện. Bên ngoài tường thành có nhà
trực, điếm canh và nhà ở của quan quân hộ lăng. Ứng Lăng của vua Khải
Định, với cung Thiên Định ở vị trí cao nhất gồm 5 công trình liền nhau
mà hai bên có tả hữu trực phòng để lính hộ lăng ở…
Đan Dương
lăng của vua Quang Trung chắc chắn có nhà hộ lăng. Thật vậy, trong phần
nguyên chú của bài thơ Xuân đề kỷ sự, Phan Huy Ích có nhắc đến “bọn
tiểu giám hộ lăng” tức chức quan trông coi hai lăng ở kinh đô Phú
Xuân. Giới nghiên cứu ở Huế nhất trí: Đan Dương lăng và lăng bà Tả Cung
họ Phạm có nhà hộ lăng để tiểu giám hộ lăng làm việc và binh phu
bảo vệ lăng thường trú. Đã ở thì phải có giếng nước để lấy nước sinh
hoạt. Vấn đề nhà hộ lăng của Đan Dương lăng từng được các nhà nghiên
cứu ở Huế đặt ra như một tiêu chí trong bước đường tìm kiếm lăng mộ vua
Quang Trung. Hơn nữa đã là lăng vua như Đan Dương lăng thì phải có
vườn lăng. Thật vậy trong bài Cảm Hoài, viết khi đi sứ Trung Quốc
để báo tang, Ngô Thì Nhậm từng nguyên chú có câu:“…trông vời viên
lăng [
], không ngăn được tấm lòng một ngày bằng ba thu…”
Thế thì
lăng Ba Vành có nhà hộ lăng và vườn lăng hay không và nếu có thì dấu
tích ở đâu ?
Hình 63: Ảnh chụp vệ
tinh toàn cảnh quần thể lăng Ba Vành.
Trong hai
mươi ba năm nghiên cứu lăng Ba Vành, do tôn trọng vườn cam của Đan Viện
Thiên An, chúng tôi rất ngại tiếp cận các thầy đang làm việc và tất
nhiên không dám vào khu vực vườn cam của tu viện.
Hình 64: Công trình
kiến trúc Đan Viện Thiên An.
Năm 2007,
khi đi vào làng Kim Sơn tìm bác Liễng, nhờ bác kiếm người giúp chúng tôi
phát quang lăng Ba Vành để tiện nghiên cứu thì chúng tôi phát hiện trên
đường sát bờ rào phía đông của vườn cam có những mảnh gạch bìa giống
gạch bìa của lăng Ba Vành, ở Gò Viên Khâu Tây Sơn (Núi bân), ở
Đàn Phương Trạch Tây Sơn (sau chùa Thiên Mụ), ở Học Cung Long Hồ
(do Tây Sơn mở rộng Văn Miếu Long hồ)…. Tín hiệu này, thôi thúc
chúng tôi phải tìm gặp các thầy đang tu học và đang lao động ở vườn cam
để hỏi. Nhóm chúng tôi gồm có Trần Viết Điền, Trần Viết Hòa đã gặp thầy
Phan Quang Hoành của Đan viện Thiên An đang đi dạo bên hồ Thủy Tiên, gần
Đan viện. Chúng tôi được thầy Phan Quang Hoành tiếp chuyện và thầy đã
nhiệt tình cho phép chúng tôi vào nhà quản vụ để nói chuyện khi biết
chúng tôi từng lên lăng Ba Vành nghiên cứu trong 21 năm. Trong câu
chuyện, biết chúng tôi đến đây với mục đích nghiên cứu, không liên quan
những việc thương thảo về đất đai giữa xã Thủy Bằng với Đan Viện Thiên
An, nên quản vụ vườn cam Đoàn Tiến An và thầy Phan Quang Hoành vui vẻ
trả lời những thắc mắc của chúng tôi quanh lịch sử Đan Viện Thiên An nói
chung và vườn cam Thiên An nói riêng.
Hình 65: Nhà ban
quản vụ vườn cam thuộc Đan viện Thiên An.
Hình 66: Thầy Phan
Quang Hoành và Trần Viết Điền
đang trao đổi về
lịch sử vườn cam.
Ngồi ở
bàn đá trong sân nhà ban quản vụ vườn cam, chúng tôi rất ngạc nhiên khi
thấy nhiều đá táng, đá kê cột, đá lát bằng đá Thanh… trong sân. Và những
chậu cảnh cũng tạc đá Thanh, trông rất cổ. Được biết Đan viện Thiên An
được thành lập khoảng năm 1940, kiến trúc thuộc phong cách phương Tây,
không có xây dựng kiểu nhà rường cho nhà ban quản vụ vườn cam, nơi các
thầy vừa lao động sản xuất vừa tu học. Thế thì những vật liệu đá cổ nói
trên vì sao có mặt ở đây? Có viên đá làm bàn, có viên làm ghế ngồi, lại
có viên bó nền, có viên lát lối đi với vữa kết dính là vôi Long Thọ và
xi măng. Nền nhà ban quản vụ vườn cam được tạo tác bằng bờ lô của nhà
máy vôi Long Thọ, từng sản xuất thời Pháp thuộc, và xen lẫn các thứ đá
cổ nói trên… Gần đây trên mạng có bài “Lược sử Đan viện Thiên An”(NVHBT,
22-03-08) có đoạn:
“Tháng
3 năm 1939, cha Romain Guillauma, một đan sĩ người Pháp, quyết định lập
dòng tại Huế, và vẫn duy trì sở Miévelle làm nơi nghỉ chân (sở đất này
sẽ bán lại cho các nữ tu Phan sinh vào năm 1954). Ngày 10-6-1940, thánh
lễ đầu tiên được cha Romain cử hành trong ngôi nhà tranh vừa dựng xong
gần chân đồi Ðức Mẹ, đánh dấu ngày thành lập Ðan viện Thiên An, trước sự
hiện diện của cha Corentin. Cha Romain chọn Thánh Tâm Chúa Giêsu làm
quan thầy Ðan viện Thiên An. Nhờ cha Romain được mời đi giảng nhiều nơi,
và cha Corentin đi học tiếng Việt ở Loan Lý, nên chẳng những nhiều anh
em ở Huế, ở Loan Lý, mà còn ở trong Nam, ngoài Bắc đã tìm đến xin tu.
Trong 3 năm đầu mọi người đều sống ở ngôi nhà tranh. Và vào những lúc
trời mưa, cóc, nhái, rắn rết thích di tản vào nhà sống chung với người,
lắm lúc chui vào tạm trú trong giày dép làm các thân chủ lắm khi phải
nhảy đựng lên khi buổi đêm dậy đọc kinh đêm, hay buổi sáng thức dậy xỏ
chân ngay vào giày hoặc dép. Ngày 23-10-1943, làm phép và khánh thành
nhà nguyện và ngôi nhà ở 3 tầng, có 28 phòng. Ða số vật
liệu xây cất 2 ngôi nhà này được khai thác tại chỗ: đá, gỗ thông và gạch.
Hai tầng lầu để ở, còn tầng trệt làm phòng cơm. Ngày 17-10-1945, cha
Benoit Nguyễn Văn Thái được thụ phong linh mục sớm hơn dự định, phòng hờ
các cha Tây bị quân Nhật bắt.”
Hình 67: Bậc cấp ở
sân nhà ban quản vụ vườn cam được xây bằng đá Thanh
Qua đoạn
lược sử trên cho thấy Đan viện Thiên An ba năm đầu rất khó khăn. Đan
viện đã lao động cật lực để xây được hai ngôi nhà, vật liệu khai thác
tại chỗ. Các thầy Phan Quang Hoành, Đoàn Tiến An không biết nguồn gốc
những vật tạo tác bằng đá Thanh, thường có ở những ngôi nhà cổ, lại có
mặt ở nhà ban quản vụ. Như vậy Đan viện Thiên An không từng mua sắm
những khối đá kê cột, đá lát, đá bó nền, chậu cảnh bằng đá Thanh để xây
dựng nhà quản lý vườn cam. Đan Viện đã dựa trên nền móng của một công
trình kiến trúc cổ, theo cách “khai thác tại chỗ” để dựng nhà
quản vụ vườn cam.. Chúng tôi đã xin phép các thầy Đoàn Tiến An, Phan
Quang Hoành, chụp ảnh những vật liệu cổ ấy. Các thầy đồng ý. Những bức
ảnh tư liệu ấy như sau:
Hình 68: Một chậu
cây cảnh đặt trên hai tảng đá kê cột đều tạo tác từ đá Thanh.
Hình 69: Bàn khách,
ghế ngồi đều bằng đá Thanh ở nhà ban quản vụ.
Hình 70: Đã kê cột
làm bằng đá Thanh ở nhà ban quản vụ.
Hình 71: Một viên đá
lát làm bằng đá Thanh ở nhà ban quản vụ.
Các thầy
rất ngạc nhiên khi chúng tôi quan tâm những viên đá Thanh rất cổ có mặt
ở nhà quản vụ. Các thầy nhiệt tình đưa chúng tôi vào nhà bếp chỉ cho
chúng tôi cái cối đá bị vỡ… từng thu được ở công trình cổ, tiền thân của
nhà quản vụ.
Hình 72: Cái cối đá
bị vỡ trong nhà ban quản vụ vườn cam.
Chúng tôi
lại hỏi về các giếng nước của vườn cam. Thầy Phan Quang Hoành cho biết ở
vườn cam có hai giếng cổ. Cả hai giếng đều thuộc vườn cam Thiên An quản
lý và sử dụng. Trước đây, vườn cam chỉ quản lý và sử dụng một giếng từ
1940. Khi vào lập vườn cam, được phép của chính quyền lúc ấy, thì Đan
Viện Thiên An đã gặp một phế tích đã đổ nát, có gạch bìa (như lăng Ba
Vành), có đá táng, đá kê cột, đá lát, có cối đá… và có giếng cổ xây bằng
đá. Về sau để bảo đảm vệ sinh, ban quản vụ vườn cam đã thay đá bằng bi
xi măng, có đoang tròn dày làm nắp đậy giếng.
Hình 73: Giếng cổ và
cạnh giếng có bể nước, và gần giếng cũng có nhiều
đá kê cột làm bằng
đá Thanh.
Vậy
tiền thân của nhà quản vụ vườn cam thuộc dòng tu Thiên An là nhà hộ lăng
của lăng Ba Vành.
Hình 74: Vị trí
tương đối của nhà hộ lăng
Hình
75: Hình vẽ phối cảnh lăng Ba Vành
Trên đây
là một số tiêu chí lăng vua mà lăng Ba Vành đã hội đủ. Chưa kể qui mô
bửu thành của lăng gấp 3, 4 lần qui mô lăng các chúa Nguyễn, và lăng
cũng tọa lạc trên đồi được tạo tác thành ba tầng… là những bằng chứng
đầy sức thuyết phục của giả thuyết: Lăng Ba Vành là Đan Dương lăng của
vua Quang Trung. Trong bài tới chúng tôi sẽ công bố tiếp về 9 giao
long hóa rồng rất độc đáo ở lăng Ba Vành, và motip giao long hóa
rồng này triều Tây Sơn thường dùng để trang trí các tạo tác thuộc về
cung đình. Chúng tôi sẽ chứng minh lăng Ba Vành là lăng vua bị quật phá,
có ấn chứng trị tội của vua Nguyễn, bị yểm. Và chúng tôi cũng chứng minh
lăng Ba Vành bị che giấu bằng cách thay đổi chức năng các cấu kiện, làm
hồ sơ giả để đánh lạc hướng các nhà nghiên cứu. Rất mong các nhà nghiên
cứu quan tâm vấn đề lăng Ba Vành. Các nhà nghiên cứu phủ định giả thuyết
lăng Ba Vành là Đan Dương lăng, đã dựa vào những cơ sở không thuyết phục
để vội kết luận lăng Ba Vành là lăng quan, rồi thờ ơ với ngôi lăng cổ có
kiến trúc độc đáo, có giá trị lịch sử mỹ thuật như lăng Ba Vành, khiến
các cơ quan hữu trách không có biện pháp bảo tồn di tích lịch sử quí
hiếm lăng Ba Vành và lăng Ba Vành hoang tàn nhanh chóng.
Huế,
tháng 3, 2009.
Thay
mặt nhóm nghiên cứu
Trần
Viết Điền