Đền Đồng Bằng tọa lạc trên đất An Lễ huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình ngày nay, xưa là hoa đào trang trấn Sơn Nam thời cổ, sau gọi là trang đồng đào, từ đời Lý về sau gọi là trang Đào Đồng. Đền Đồng Bằng là nơi thờ đức vua cha Bát Hải Động Đình người có công lớn trong việc bình thục giữ nước và chiêu dân lập ấp xây dựng giang sơn xã tắc từ buổi sơ khai. Đền có sắc phong Tam Kỳ Linh Ứng Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần. Từ cuối thế kỷ 13 còn là nơi tưởng nhớ hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn cùng các danh tướng hoàng thân cúc thích nhà trần có công lớn trong ba lần đại phá quân nguyên mông và lập nên 8 trang Đào Đồng xưa. Tục truyền vào đời vua Hùng Vương thứ 18 nước nhà bị giặc ngoại bang xâm lấn, triều đình đẫ điều động binh hùng tướng giỏi để chống giặc xong thế giặc mạnh quân triều đình không chống đỡ nổi,triều đình đã phải lập đàn Triệu Linh Sơn Tú Khí về giúp sức dẹp giặc. Thủy thần làng Đào Động đã phò Vua dẹp tan giặc giữ và có công đầu trong việc trấn giữ 8 cửa bể phía tây. Đất nước thái bình ngài được sắc phong " Trấn Tây An Nam Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần" và từ đó nơi đây là địa linh được cả nước hướng vọng.
Ban đầu đền Đồng Bằng chỉ là một ngôi miếu nhỏ nằm trong cảnh quan sông nước hữu tình của đất Đa Dực xưa, tới thời tiền Lê đền đã được xây dựng mở rộng thành 5 cung và 4 ban thờ công đồng khang trang hoàng tráng và được liệt vào tứ cố cảnh là Đào Đồng, Lộng Khê, Tô đê, A Sào.
Đầu thế kỷ XIII khi giặc nguyên mông tràn vào bờ cõi nước nam, Đào Động lại là nơi đóng quân và luyện tập thủy chiến binh nhung nhà Trần. Trước khi xung trận, Hưng Đạo Đại Vương cùng các tướng về dâng hương cửa đền cầu nguyện âm phù. Sau ba lần đại thắng quân nguyên nhà Trần đã đầu tư công sức, tiền của về tôn tạo cửa đền. Phò mã Nguyễn chí Nghĩa và thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão đã ngưỡng mộ trước cảnh đền người đã vịnh bài thơ hiện còn lưu lại trên bức cuốn thư hiện còn lưu lại trên cung đệ nhị.
Nói về kiến trúc đền Đồng Bằng là ngôi đền lớn nhất giữ vị trí trung tâm trong cả quần thể di tích tại An Lễ. Đến trước năm 1945 các cụ ghi lại trên đất An Lễ bây giờ có hàng chục di tích có từ thời Hùng Vương và thời Hai Bà Trưng nhưng nổi bật là đền thờ vĩnh công và đền thờ các quan lớn của ngài. Nói riêng về đền Đồng Bằng thờ Vĩnh Công đại vương tức đức vua Bát Hải, đây là một công trình kiến trúc đồ sộ, toàn bộ khu đền rộng với tầng tầng lớp lớp, các cung cửa 13 tòa, 66 gian liên hoàn khép kín rất nguy nga bề thế. Các mảng kiến trúc của công trình rất mềm mại hài hòa với các nét trạm trổ tinh vi, hàng trăm câu đối, đại tự, cuốn thư sơn son thiếp với các chủ đền về tứ quý, quý linh, hiện thực thiên nhiên vừa thần thoại vừa huyền ảo nhưng cũng rất sống động và đời thường.
Đối với những người tín ngưỡng đền Đồng Bằng là ngôi đền linh thiêng bậc nhất để họ đi trình về tạ, còn đối với du khách nam thanh nữ tú thì đền Đồng Bằng như một viên ngọc quý đặt giữa vũng quê Thái Bình dạt dào sóng lúa. Cổng đền là một công trình kiến trúc hoàng tráng theo kiểu vọng lâu tam tòa đời Nguyễn. Bước qua cổng tam quan, du khách đã đi vào sân chính nội tự, là nơi tổ chức đại lễ tế công đồng trong những ngày lễ trọng, cũng như là nơi tổ chức các chiếu chèo trong lễ hội xưa.
Đền Đồng Bằng có kiến trúc theo kiểu tiền công hậu đinh bao gồm 5 cung thờ chính. Điểm ấn tượng đầu tiên khi bước vào đền là những chạm khắc ở cung đệ tứ, các cụ ngày xưa kể lại rằng có được những cái đẹp hoàn mỹ đó vì hiệp thợ không phải làm khoán công, cứ việc trổ hết tài mà hoàn thành tác phẩm. Tiếp sau là cung đệ tam, nếu cung đệ tứ đồ sộ, đầy ắp những bài trí thiết tự phong phú thì cung đệ tam lại như sự thanh hư thoát tục. Và nếu cung đệ tam giảndị thanh u hướng nội tâm,thì cung đệ nhị như mở ra những cảnh sắc mới.Tiếp sau cung đệ nhị là cung đệ nhất thờ vọng đức vua Bát Hải,theo các cụ xưa ghi lại thì cung này được xây vào thời Lý,thới kỳ mà Đào Động được cho là đứng đầu trong tứ cố danh thắng.Cấm cung đền đồng bằng là nơi thờ thiêng liêng nhất của đền, gọi là cung cấmvì lệ xưa không phải ai cũng vào đuợc.Cung cấm đền Đồng Bằng được coi là linh thiêng vì hội đủ ngũ hành" Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ".Chính giữa trung tâm cung cấm là miệng giếng cổ,tương truyền đây chính là giếng nước mà Vĩnh Công ẩn thân ngàysinh.Đối với những người tín ngưỡng thì một chút nước giếng này rất quý,có tác dụng trừ tai ách và đem lại may mắn.
Mỗi người đến lễ cầu,mỗi người đều mang tâm trạng riêng,nỗi niềm riêng nhưng có lẽ tất cả đều gặp nhau ở chung một điểm đó là lòng thành kính khi hưóng về đức vua cha.Huyền thoại về Hồ Vĩnh Công hay đó chính là vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người Việt.Vẻ đẹp của ngôi đền ngoài vẻ đẹp của kiến trúc những nét xưa dáng cũ còn vương lại trên những nét trạm khắc tinh xảo củacố nhân ta còn cảm nhận được vẻ đẹp đã được thần thánh hoá, lung linh hoá lên rấ nhiều lần qua lăng kính của kháchviếng hương.Đó cũng chính là vẻ đẹp của văn hoá Việt Nam đã làm nên cho chiều sâu của lịch sử là những khát vọng, những ước nguyện của muôn đời.