Chùa Hoa Long và đền Trần Khát Chân thuộc địa phận thôn Trung, xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng với địa thế được 5 dãy núi là: Mông Cù, Hùng Lĩnh, Cô Sơn, Kim Sơn và Kim Âu bao quanh tạo thế tựa vững chắc. Đây là quần thể lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật độc đáo được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích cấp quốc gia.
1. Chùa Hoa Long: Tên chữ là Hoa Long Tự hay còn được gọi là chùa Bản Thuỷ. Chùa được xây dựng từ thời Trần. Khi khởi dựng, chùa quay mặt hướng Bắc, nằm bên cạnh hồ sen, bố cục theo hình chữ nhị (=) gồm hai toà nhà Tiền đường và Hậu cung liên kết với nhau tạo thành một khối thống nhất. Bên trái phía trước chùa là một dãy nhà ngang dùng làm nơi cho sư trụ trì và khách thập phương nghỉ chân. Hiện nay, chùa Hoa Long còn lưu giữ được đôi câu đối ghi lại sự kiện khởi dựng chùa thuở trước:
“Bắc khởi Hoa Long tam Phật tự
Hương lưu Bản Thủy tứ thôn dân”
Nghĩa là:
“Phía Bắc khởi tạo chùa Hoa Long thờ Tam Bảo Phật Hương thơm lưu ở đất Bản Thủy bốn thôn đều thờ”.
Chùa Hoa Long đã được trùng tu nhiều lần. Dòng chữ chạm nổi ở trụ gian giữa nhà tiền đường cho biết thời gian tôn tạo chùa vào năm Nhâm Tuất đời vua Lê Hy Tông: “Hoàng Thượng Chính Hoà tam niên, Nhâm tuất tạo Thử thiên cổ tích danh lam Hoa Long tự”. Nghĩa là: “Năm Chính Hoà thứ 3 (1683) đời vua Lê Hy Tông, tức năm Nhâm Tuất tạo lập kiến trúc chùa Hoa Long thuở xưa”.
Dòng chữ trên thượng lương nhà tiền đường cũng cho biết thời gian di chuyển chùa đến địa điểm trên khu đất ngày nay là năm Thành Thái thứ 4 (1892).
Hiện nay nhà Tiền đường gồm 3 gian 4 mái uốn cong, lợp ngói mũi hài, có kích thước: dài 9,3m; rộng 6,3m; kiến trúc gỗ gồm 4 cột cái, 2 cột quân ở hai vì kèo giữa. Ở hai trụ chính gian giữa chạm hình 2 tiên nữ có cánh như đang bay lên. Giữa hai trụ là bức chạm vân hóa long chầu mặt nguyệt; hình ảnh long, ly, quy, phượng và còn rất nhiều mảng hoa văn đẹp khác trong chùa, đáng chú ý là bức cửa võng được chạm khắc chủ đạo trong nhà Tiền đường làm nền cho phật điện với lối chạm bong đôi rồng được uốn thành 3 khúc đầu ngẩng lên chầu đỡ viên ngọc quí, những tia sáng tỏa ra xung quanh. Hai bên tả và hữu của nhà tiền đường còn có các bức chạm khắc độc đáo khắc nổi 5 chữ Hán “Xuân thời lạc Cảnh Thịnh” nghĩa là “Mùa xuân cảnh vui đẹp” cũng có thể người xưa muốn ghi khắc niên hiệu tạo nên tác phẩm nghệ thuật “Vui mùa xuân năm Cảnh Thịnh” từ năm (1793- 1802).
Phần hậu cung gồm 3 gian nhà xây cuốn vòm với chiều dài 6m, rộng 4,3m. Hậu cung thông với tiền đường bằng 3 cửa, phía trong xây bệ thờ Tam Bảo Phật bằng đá gọi là “Bệ tam thế” đặt 3 pho tượng quá khứ, hiện tại, vị lai được chạm bằng gỗ giống nhau, tóc xoắn ốc, mặt trái xoan, tai phật chảy, mũi dọc dừa, mắt hơi nhìn xuống, miệng hé nở nụ cười.
Chân bệ Tam thế được trang trí hoa văn hình sóng nước, phía trên là 2 hàng cúc dây mềm mại uốn lượn nhịp nhàng.
Thân bệ được trang trí theo kiểu bổ ô dọc, kích thước không đều nhau mặt trước là 7 ô, ô chính giữ chạm một bình hoa đang tỏa ngát hương thơm, 6 ô còn lại chạm hình 6 cô tiên nữ trong điệu múa dâng hoa. Phần trên của thân bệ chạm những cánh sen nổi gồm 4 lớp tạo thành một bông sen lớn rất độc đáo. Có thể nói những bức chạm khắc trên đá và trên gỗ ở chùa Hoa Long khẳng định tính độc đáo của di tích được kết tinh từ một bộ óc sáng tạo, khiếu thẩm mỹ tinh tế và những đôi bàn tay tài hoa của cha ông chúng ta thuở trước. Nhân dân trong vùng lưu truyền sự linh ứng của ngôi chùa khi đến đây cầu tự.
2. Đền Trần Khát Chân: Được xây dựng ở phía Đông Bắc của chùa Hoa Long là nơi thờ nhân vật lịch sử Trần Khát Chân một vị tướng văn võ toàn tài ở cuối thế kỷ XIV có công giết vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga trừ hậu họa cho Đại Việt, bảo vệ vương triều nhà Trần. Cái chết của ông được nhân dân thương cảm thờ phụng. Ông được tôn là Thánh Lưỡng được thờ ở nhiều nơi. Đây là ngôi đền có giá trị rất đặc biệt về kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc trang trí, một di sản hiếm gặp trong kho tàng kiến trúc dân gian truyền thống của người Việt.
Theo sử liệu cho biết, Trần Khát Chân là người Hà Lãng huyện Vĩnh Ninh (làng Hà Lương xã Vĩnh Thành ngày nay). Năm 1390, do lập công vang dội được Triều đình ban thưởng chức Thượng tướng quân, quản lĩnh vệ quân long tiệp, ban tước vũ tiết quan nội hầu. Năm 1397, Trần Khát Chân được giao việc dẫn quân vừa hỗ trợ, bảo vệ và đốc thúc xây thành Tây Đô với chức Lưỡng vệ kim ngô, Long hổ điện tiền Thượng tướng quân, hành doanh ở Đốn Sơn. Lúc này trong vương triều Trần quyền hành của Hồ Quý Ly quá lớn, khiến cho các đại thần nhà Trần bất mãn. Ngày 4/4/1399, vua Trần ban chiếu làm lễ Minh Thệ ở Đốn Sơn, các tướng lĩnh nhà Trần chủ mưu bàn kế giết Hồ Quý Ly nhưng không thành, Trần Khát Chân và hơn 370 người đã bị giết trong lễ Minh Thệ cuối cùng của lịch sử phong kiến Việt Nam.
Đền thờ Trần Khát Chân được xây dựng từ khá sớm với cấu trúc gồm: Tiền đường, trung đường và hậu cung; diện tích xây dựng gồm 240m2 nhà, 260m2 sân, 500m2 vườn cây cảnh và sân ngoài. Đền thờ Trần Khát Chân là công trình kiến trúc nghệ thuật gỗ thời Lê (thế kỷ XVII-XVIII), tại tiền đường còn ghi niên đại tu sửa đền vào năm 1820 niên hiệu Minh Mạng.
Nhà Tiền đường gồm 5 gian 2 chái có chiều dài 15,5m, chiều rộng 8,32m, diện tích xây dựng 129m2, nhìn theo hàng dọc có 6 hàng cột gồm 4 cột cái, 2 cột quân, có 4 vì nóc chạm mặt hổ phù; ở hai vì kèo 3 và 4 thể hiện rõ nét nhất về nghệ thuật điêu khắc gỗ đó là: Kết cấu trước sau chồng rường trên, các vì kèo ở đây không có trụ mà bằng ván lá dày (một khối ván tam giác), chạm mặt hổ phù, bên dưới khối tam giác chạm hổ phù là bức xuân hoa có khung bảng, đố, ván ở trước, còn phía sau là bức xuân hoa hoành phi viết chữ đại tự:
Bên hữu: Quan tại phụ
Bên tả: Miếu hữu nguyên
Thượng lương có ghi dòng chữ: “Hoàng triều Minh Mệnh nguyên niên Canh Thìn khởi tạo, Thành Thái nhị niên Canh Dần trùng tu, Bảo Đại ngũ niên Canh Ngọ tuế, thập nhị nguyệt, sơ cửu nhật Nhâm Ngọ đại tu thụ trụ thượng lương đại cát”.
Công trình nhà tiền đường đã được trùng tu nhiều lần: Lần khởi tạo Minh Mạng nguyên niên Canh Thìn tức năm 1820, đến trùng tu Thành Thái nhị niên Canh Dần tức năm 1890 và đến năm 2011, sở VHTT&DL Thanh Hóa làm chủ đầu tư tiến hành trùng tu. Chạm trổ trong đền chủ yếu là tứ linh chen tứ quý, đường nét chạm trổ tinh xảo, kỹ thuật chạm thủng, chạm bong.
Trung đường, cùng hướng với tiền đường, giữa tiền đường và trung đường có một sân hẹp (rộng 0,64m) như rãnh nước, ngôi nhà trung đường có diện tích 70m2 có kết cấu mái tương tự như tiền đường. Đặc biệt ở gian 3 (gian giữa) phía sau là nơi tiếp giáp với nhà chính tẩm.
Nhà chính tẩm được xây dựng theo kiểu chữ đinh với chiều dài 6,05m; rộng gần 5m, diện tích 30m2, nhà gắn liền với trung đường gồm 3 gian 4 vì, cấu trúc 4 vì khác nhau. Trong chính tẩm có 1 thánh vị thời Lê về Trần Khát Chân trên thánh vị có mũ, hài, đai, đôi kiếm thờ, áo, trông thật uy nghi. Có 2 thánh vị được phối thờ là Thành hoàng bản thổ và trung đẳng thần đặt trên long ngai cổ. Hiện vật cổ trong đền bao gồm các lư hương bằng đồng, bằng đá, bằng gốm thời Lê với đường nét chạm trổ chi tiết, nét chạm trên đồng mà tinh như chạm bạc. Hệ thống các con vật thờ: Ngựa bạch, ngựa hồng, hạc, vẹt gỗ chạm trỗ, tượng gỗ, 2 tượng phỗng phục chầu bằng đá.
Ngôi trung đường và chính tẩm không ghi niên đại xây dựng, căn cứ nét đao mác trên các bức chạm thì đây là một công trình kiến trúc thời Lê Trung Hưng (cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII), các bức chạm đường nét chau chuốt, một số hoạ tiết chim, sóc và những con vật dân gian của văn hoá thời Lê Trung Hưng thế kỷ 18. Trong di tích hiện còn lưu 20 đạo sắc gốc các triều Lê, Nguyễn (Triều Lê có 8 đạo, triều Nguyễn có 12 đạo) và các tập bản sao sắc phong bằng chữ Hán qua các triều đại.