Chuyện kể ..... BÀ CHÚA TẦM TANG
Cuộc đời của cô gái trồng dâu nuôi tằm dệt lụa ở làng Chiêm Sơn, huyện Diên Phước thuộc dinh Quảng Nam bên bờ sông Thu Bồn có một giai thoại đẹp đẽ đi vào sử sách và truyền thuyết dân gian địa phương. “Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên” đã viết rằng: “Năm mười lăm tuổi (Bà) hái dâu bên bãi trông trăng mà hát. Bấy giờ Hy Tông Hoàng Đế ta (tức Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên) đi chơi Quảng Nam, Thần Tông Hoàng Đế ta (tức Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan) theo đi hộ giá. Đêm đáp thuyền trăng đi chơi. Đỗ thuyền ở Điện Châu (bây giờ là An Phú Tây) câu cá, nghe tiếng hát lấy làm lạ, sai người đến hỏi biết là con gái họ Đoàn, cho tiến vào hầu Chúa ở tiềm để, được yêu chiều lắm”. Theo truyền thuyết dân gian, vào một đêm trăng đẹp (1615), Thụy Quốc Công Nguyễn Phúc Nguyên lúc đó đang trấn giữ Quảng Nam dinh và con trai là Công Tử Nguyễn Phúc Lan dạo thuyền trên sông Thu Bồn. Khi thuyền rồng ngược dòng sông từ Thanh Chiêm đến địa phận làng Chiêm Sơn, thuộc huyện Diên Phước, nổi tiếng trồng dâu nuôi tằm dệt lụa thì một giọng hát trong ngần và quyến rũ của một thôn nữ từ một nương dâu bên bờ sông vọng tới theo làn gió mát. Cô gái hát rằng:
Thiếp nghe chúa ngự thuyền rồng Thiếp thương phận thiếp má hồng nắng mưa...
Một lát sau cũng giọng hát đó lại cất lên uyển chuyển, mượt mà nghe da diết làm sao:
Thuyền rồng Chúa ngự nơi đâu Thiếp thương phận thiếp hái dâu một mình...!
Giọng hát và lời ca của cô thôn nữ trong đêm trăng thanh vắng đã làm rung động tâm hồn và xao xuyến trái tim của chàng công tử đa cảm Nguyễn Phúc Lan. Được phép thân phụ, công tử cho thuyền rồng men theo triền sông đi tìm tiếng hát. Khi lên bờ, bên bóng dâu xanh thắm nhuộm ánh trăng vàng, chàng trai vương bá đem lòng say mê vẻ đẹp yêu kiều của một thục nữ vừa độ trăng tròn rất mực đôn hậu là Đoàn Thị Ngọc Phi, con gái út của một hào trưởng nổi tiếng, chuyên làm nghề tầm tang, quê ở làng Chiêm Sơn, huyện Diên Phước là Đoàn Công Nhạn. Hình như cuộc kỳ ngộ này đã được sắp xếp từ trước bởi bàn tay của Ông Tơ Bà Nguyệt se duyên. (l) "Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên" đã viết về người thục nữ đó rằng “Bà là con gái thứ ba của Thạch Quận Công Đoàn Nhạn. Mẹ là phu nhân Võ Thị. Bà là người minh mẫn thông sáng… sáng thơm, tý mỵ, phép tốt trinh thuần”. Công Tử Nguyễn Phúc Lan và cô thôn nữ Đoàn Thị Ngọc Phi đã bén duyên vào tuổi mười lăm (1615) và sau đó hai năm, họ cùng nhau kết duyên trăm năm vào tuổi mười bảy (1617) và đã sống với nhau ở dinh trấn Thanh Chiêm cùng với thân phụ là Thụy Quốc Công Nguyễn Phúc Nguyên và thân mẫu là phu nhân Nguyễn Thị Giai (tức là Mạc Thị Giai được mang họ Chúa Nguyễn). Sau khi Nhân Lộc Hầu Nguyễn Phúc Lan trở thành Quận Công trấn giữ Quảng Nam Dinh, Bà Đoàn Thị Ngọc Phi đã hết lòng ủng hộ, khuyến khích nhân dân các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, nhờ vậy mà nghề tầm tang ở Đàng Trong được mở mang, đã mở mang vào thời kỳ đó và đã sản xuất được nhiều mặt hàng tơ lụa nổi tiếng như đoạn, lãnh, gấm, vóc, trườu, sa để bán trong nội địa và xuất khẩu ra nước ngoài qua thương cảng Hội An. Bởi vậy, Lê Quý Đôn đã viết trong "Phủ Biên Tạp Lục" rằng “Người Phủ Thăng, Phủ Điện dệt được các loại the, đoạn, lụa, là hoa hòe chẳng kém gì Quảng Đông”. Cũng từ đó, cảng thị Hội An dưới thời Chúa Nguyễn đã trở thành một trung tâm trung chuyển của con đường tơ lụa quốc tế xuyên đại dương trong thế kỷ XVI - XVII nối liền Tây Âu và Viễn Đông. Và Bà Đoàn Thị Ngọc Phi trở thành "Bà Chúa Tầm Tang" ở Đàng Trong. Các cô gái trồng dâu nuôi tằm dệt lụa ở quê hương Bà đã từng hát:
Chiêm Sơn là, lụa mỹ miều Mai vang tiếng cửi, chiều chiều tơ giăng...
và
Nương dâu xanh thắm quê mình Nắng lên Gò Nổi đượm tình thiết tha Con tằm kéo kén cho ta Tháng ngày cần mẫn làm ra lụa đời...
Đến năm 1635, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên qua đời, Nhân Lộc Hầu Nguyễn Phúc Lan trở thành Chúa Thượng và sống ở Thuận Hóa. Chúa thượng đã dời Phủ Chúa từ làng Phước Yên ở huyện Quảng Điền về làng Kim Long thuộc Phú Xuân. Bà Đoàn Thị Ngọc Phi được Chúa Thượng phong tước là Đoàn Quý Phi và thân phụ Đoàn Công Nhạn của bà được phong tước là Thạch Quận Công. Đoàn Quý Phi trong thời kỳ này cũng khuyến khích nghề tầm tang ở Phú Xuân phát triển. Đoàn Quý Phi sinh hạ được ba hoàng tử, trong đó các hoàng tử Nguyễn Phúc Võ và Nguyễn Phúc Quỳnh đều mất sớm, hoàng tử Nguyễn Phúc Tần là con trai thứ hai, trở thành thế tử. Công chúa út là Nguyễn Phúc Ngọc Dung. Thế tử Nguyễn Phúc Tần ngay thời còn là Lễ Dũng Hầu, quan quản lảnh Quảng Nam dinh, đã tỏ ra là một con người am hiểu binh pháp, vũ dũng và giỏi chiến trận, đã có công lớn trong việc đánh tan hạm đội Hà Lan dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Peter Back âm mưu đánh phá cảng thị Hội An vào năm 1644. Về sau Thế Tử Nguyễn Phúc Tần trở thành Chúa Hiền năm... Đoàn Quý Phi mất ngày 17 tháng 5 năm Tân Sửu, tức ngày 12 tháng 7 năm 1661, hưởng thọ 60 tuổi (3,4). Sau khi Bà qua đời, Chúa Hiền đã đưa mẫu hậu về an táng tại quê hương Bà. Lăng mộ của Bà đặt bên cạnh lăng mộ của nhạc mẫu là Hoàng hậu Nguyễn Thị Giai. Theo "Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên" Đoàn Quý Phi mất năm Tân Sửu (1661 Lê Vĩnh Thọ thứ tư) mùa hạ tháng 5, táng Vĩnh Diện (ở Thượng Cốc, Hùng Cương thuộc xã Chiêm Sơn, tỉnh Quảng Nam). Trong "Đại Nam Nhất Thống Chí" quyển 5 viết về Quảng Nam, đã ghi lại vị trí tọa lạc của các Lăng mộ của hai Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai và Đoàn Thị Ngọc Phi như sau: “Lăng Vĩnh Diễn phía Nam núi Hàm Long, xã Chiêm Sơn, huyện Duy Xuyên. Đây là Lăng của Hiếu Văn Hoàng Hậu Nguyễn Thị. Lăng Vĩnh Diện ở phía Tây Gò Hùng, thôn Thượng Cốc, xã Chiêm Sơn. Đây là Lăng của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc Phi”. Ngược dòng lịch sử, chúng tôi đi tìm dấu tích cổ xưa của nơi an nghỉ cuối cùng của hai Hoàng Hậu đó. Đến nay, tại làng Chiêm Sơn thuộc xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam vẫn còn di tích của hai lăng mộ đó với mức độ hư hại khác nhau. Lăng Vĩnh Diện, mộ phần của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc Phi (1601-1661) mà nhân dân địa phương quen gọi là Lăng Trên, tọa lạc trên một khu đất cao, gọi là Gò Hùng thuộc làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, tỉnh Quảng Nam ngày nay. Lăng được xây dựng vào năm 1661 và toàn bộ khu vực Lăng rộng 4 sào 2 thước 7 tấc, ứng với lô đất số hiệu 2583 theo địa bộ xã Duy Trinh (2). Lăng này được đặt tên là Vĩnh Diện vào năm Gia Long thứ 5 (1806) và được tu bổ vào năm Gia Long thứ 13 (1814). Trong địa phận Lăng Trên còn có mộ của công chúa út của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu. Theo hồi cố của bà con tộc Đoàn xã Duy Trinh, công chúa này có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng thường được gọi là công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung, có dị tật bẩm sinh. Lúc sinh thời, công chúa đã hạ giá với Chưởng Cơ của triều đình tên là Minh và đã mất sớm(2). Phần mộ của công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung không rộng lắm và ứng với lô đất số hiệu 698 của địa bộ xã Duy Trinh (2). Lăng Vịnh Diện được bao bọc bởi hai lớp thành bảo vệ cao khoảng 1 mét, dày khoảng 0,8 mét: bên ngoài là bảo thành ngoại và bên trong là bảo hành nội, phía sau ở chính giữa các thành này đều có bia tẩm. Trên các bia tẩm này không thấy ghi một chữ Hán nào mà chỉ có phù điêu hình mây cuộn, kỳ lân trông rất ngoạn mục. Các thành bảo vệ đều bị hư hại nặng, chỉ còn vài đoạn ngắn nhưng cái bia tẩm vẫn còn. Ở giữa Lăng là mộ chí của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu mà đến nay vẫn còn nguyên vẹn theo kiểu kiến trúc cổ xưa. Còn Lăng Vĩnh Diễn là mộ phần của Hiếu Văn Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai (1578-1630) được nhân dân địa phương gọi là Lăng Dưới, cũng tọa lạc trên một khu đất cao gọi là Gò Hàm Rồng cũng thuộc làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, cách Lăng Vĩnh Diện, Lăng Trên hơn nửa cây số. Khu vực Lăng này, ngày xưa rộng gấp đôi Lăng Trên, có diện tích 8 mẫu 4 sào 5 tấc, ứng với lô đất số hiệu 1220 theo địa bộ xã Duy Trinh (2). Niên đại xây dựng Lăng này có lẽ vào cuối năm 1630, vì Hoàng Hậu mất vào ngày mồng 9 tháng 11 năm Canh Ngọ, tức ngày 12-12-1630 tại dinh trấn Thanh Chiêm(5). Theo "Đại Nam Nhất Thống Chí" thì Lăng Vĩnh Diễn cũng được đặt tên vào năm 1806 và tu bổ vào năm 1814 cùng một lúc với Lăng Vinh Diện. Trước đây, bên ngoài khu vực của hai Lăng, Chúa Nguyễn còn xây dựng một công trình kiến trúc gọi là Chùa Vua là nơi thờ phụng hai Hoàng Hậu nói trên có vườn cây bao quanh gọi là Vườn Chùa mà nay không còn nữa. Ở đây, trước kia luôn luôn có Đội Cận Vệ Hoàng Gia, gồm khoảng hai mươi người, thường là con cháu họ Đoàn, có nhiệm vụ bảo vệ các khu Lăng và lo việc thờ cúng. Diện tích Vườn Chùa khá rộng, đất bên trong thành bao bọc chùa rộng 3 sào 0 thước 9 tấc, đất bên ngoài thành là vườn trồng hoa cảnh, cây ăn trái rộng 5 sào 4 thước 4 tấc ứng với lô đất số hiệu 2281 theo địa bộ xã Duy Trinh. Ngoài ra, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên và Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan còn cấp thêm tư điền làm hương hỏa cho hai Hoàng Hậu họ Mạc và họ Đoàn ở địa phương để con cháu chăm lo hương khói cho hai bà Tư Điền mà Chúa Nguyễn đã cấp trước đây cho Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai là 4 mẫu 8 sào 12 thước thuộc làng Kiệu Đông và làng Kiệu Tây, huyện Duy Xuyên và 2 mẫu thuộc làng Hương Quế huyện Quế Sơn. Tư Điền mà Chúa Nguyễn đã cấp trước đây cho Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc Phi là 4 mẫu 3 sào 12 thước thuộc làng Phú Trang, huyện Quế Sơn(2). Theo “Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên", đến năm 1744, Thế Tôn Hiên Võ Hoàng Đế, tức Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã truy dâng Bà Đoàn Quý Phi là Trinh Thục Từ Tỉnh Huệ Phi và sau đó thêm hai chữ Mẫu Duệ. Vua Gia Long, sau khi thống nhất đất nước và lên ngôi, năm 1806 lại truy tôn Bà Là Trinh Thục Từ Tỉnh Mẫu Duệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng Hậu và khắc tên lên Kim Sách của Hoàng Tộc và tôn hiệu này được thờ chung với Hiếu Chiêu Hoàng Đế (tức Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan) vào gian thứ nhất bên phải của Thái Miếu ở Huế. Để tỏ lòng tường niệm công đức của bà Chúa Tầm Tang, vua Thành Thái (1888-1907) năm thứ 18 (1905) đã ban cho tộc Đoàn 1.000 lạng bạc để dựng Nhà Thờ Hiếu Chiêu Hoàng Hậu tại thôn Đông Khuông, xã Điện Châu, tức Đông Yên Châu, huyện Điện Bàn. Về sau, sông Thu Bồn chuyển di cắt Đông Yến Châu làm đôi thành Đông Yên Đông thuộc huyện Điện Bàn và Đông Yên Tây thuộc huyện Duy Xuyên. Hiện nay, nhà thờ Hiếu Chiêu Hoàng Hậu nằm trên đất Đông Yên Đông, nay là xã Điện Phương, cách Cầu Mống về phía Bắc bên phải chừng 100 mét. Hàng năm vào ngày 17-5 Âm lịch tộc Đoàn kết hợp với tộc Nguyễn Phước tổ chức kỵ giỗ bà tại đây và tại nhà thờ xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên. Sau tháng 8, 1945, các khu Lăng Mộ Vĩnh Diện và Vinh Diễn vẫn còn nguyên vẹn, nhưng không còn được bảo vệ như trước nữa và bị lãng quên. Trải qua ba mươi năm chiến tranh, nhân dân đã đào mộ tìm vàng, phá thành lăng để lấy gạch đá làm vật liệu xây dựng, biến khu Lăng thành nơi trồng cây lấy gỗ... làm biến dạng môi trường ở đây. Vào tháng 2-3 năm 1992, bà con tộc Đoàn xã Duy Trinh đã kết hợp với bà con Nguyễn Phước tộc Quảng Nam - Đà Nẵng đốn hạ cây cối trồng bừa bãi, thu dọn vệ sinh khu Lăng Vĩnh Diện và Lăng Vĩnh Diện, đồng thời bỏ ra kinh phí trùng tu lại mộ chí của Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc Phi, nhưng do thiếu tài chính, các thành bảo vệ xung quanh cũng chưa phục chế lại được như cũ. Có lẽ công đức đối với nghề trồng dâu dệt lụa trên quê hương cũng như thiên diễm tình một thời vang dội của Bà Chúa Tầm Tang còn lưu lại cho mãi đến tận nay mà các cô gái trên quê hương bà vẫn hát:
Thuyền rồng mái đẩy đi đâu Để cho em đứng hái dâu một mình...! Chuyện kể ...
Nguyễn Phước Tương viết : Hiếu Chiêu Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc mà nhân dân Quảng Nam quen gọi một cách thân kính là Đoàn Quý Phi. Bà là hậu của Chúa thượng Nguyễn Phúc Lan tức Hiếu Chiêu Hoàng Đế (1563 - 1648) và là mẫu hậu của Chúa Nguyễn Phúc Tần tức Hiếu Triết Hoàng Đế (1648 - 1687). Đức bà Đoàn Quý Phi là con gái thứ ba của Thạch Quận Công Đoàn Công Nhạn và bà thứ thất Võ Thị Thành. Đức Bà sinh năm 1600 tại thôn Điện Châu, châu Đông Yên, bên bờ Sài Thị Giang (tức Sông Chợ Củi, nay là sông Thu Bồn), thuộc huyện Duy Xuyên. Ngày xưa làng Đông Yên kéo dài từ Chiêm Sơn (nay là xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên) cho đến Chợ Củi (nay là xã Điện Phương, huyện Điện Bàn). Đức Bà là em gái của Quốc Cựu Sầm Oai Hầu Đoàn Công Quảng, trưởng phái nhất, chi phái nhất của tộc Đoàn ở Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Đức Bà có công lao to lớn trong việc khuyến khích phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa xứ Quảng, nên được nhân dân tôn kính là Bà Chúa tằm tang xứ Quảng. Đức Bà là một phụ nữ xinh đẹp và đôn hậu. Sách “Đại Nam Nhất Thống chí” đã viết: “Bà là người minh mẫn, thông sáng ... sáng thơm, tú mị, phép tốt trinh thuần”. Đức Bà mất ngày 17 tháng 5 năm Tân Sửu, tức ngày 12.7.1661 tại Dinh Trấn Thanh Chiêm (nay thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn), về sau được Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) truy phong là Trinh thục Từ Tĩnh Duệ Mẫn. Chúa Nguyễn Phúc Tần, đã làm lễ an táng trọng thể cho Mẫu hậu tại Gò Cốc Hùng và xây Lăng Vĩnh Diên (nay thuộc xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên) đồng thời lập nhà thờ Đức Bà tại Đông Giáp, châu Đông Yên bên bờ Sài Thị Giang. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần cũng cấp năm mẫu đất tự đường tại làng Phú Trang (nay thuộc xã Quế Xuân, huyện Quế Sơn) lấy hoa lợi dùng vào việc chăm sóc, tu bổ cho Lăng mộ và Nhà thờ và phong cho ông Đoàn Công Quảng là Lễ Nghĩa Hầu Tiền Xung Bát Đội Chánh Đội trưởng đảm đương việc này. Trận lụt lớn của Sài Thị Giang xảy ra vào năm Canh Thìn 1680 thời vua Chánh Hòa Lê Hy Tông (1676 - 1705) tức năm Chúa Nguyễn Phúc Tần thứ 32, gây xoáy lở ngay giữa làng Đông Yên, cắt đôi làng Đông Yên thành hai phần là Đông Yên Tây và Đông Yên Đông và sau trận đại hồng thủy này nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu đã bị hủy hoại. Đến thời Chúa Ninh Vương Nguyễn Phúc Thụ (1725 - 1738) vào khoảng năm 1730, Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu được xây dựng lại lần thứ hai trên đất Đông Yên Đông và lùi xa bờ Sài Thị Giang. Một thời gian sau, do dòng Sài Thị Giang xói lở một lần nữa, nhà thờ Đức bà lại bị hư hại phần tiền sảnh. Sau khi nổi lên ở Bình Định năm 1771, quân Tây Sơn chiếm Quảng Nam vào cuối năm 1774 và đã triệt phá hoàn toàn nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu và chùa Bảo Châu Sơn Tự ở Trà Kiệu do Chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1617. Sau khi đánh thắng quân Tây Sơn thống nhất đất nước và lên ngôi năm 1802, vua Gia Long (1802 - 1820) đã cho xây lại nhà thờ Đức Bà khang trang hơn trước tại Bãi Bắc ở Đông Yên Đông. Đến đời vua Tự Đức (1847 - 1883) ra chỉ dụ chia tách làng Đông Yên thành hai làng, phần thứ nhất nằm ở phía bắc Sài Thị Giang Đông Yên Đông gọi là Đông Giáp sáp nhập vào phủ Điện Bàn (nay gọi là Đông Khương thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn) và phần đất nằm ở phía nam Sài Thị Giang Đông Yên tây gọi là Tây Giáp sáp nhập vào huyện Duy Xuyên (nay là xã Duy trinh, huyện Duy Xuyên). Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu hiện nay nằm trên làng Đông Khương, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn. Đến năm thứ sáu đời vua Thành Thái (1889 - 1907), năm Nhâm Thìn 1894, vua ra chiếu chỉ ban cho phái nhất, chi nhất tộc Đoàn ở làng Đông Khương 1.000 lạng bạc để xây dựng lại hậu tẩm nhà thờ Đức Bà lâu ngày bị xuống cấp. Từ đó đến nay, nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu đã được nhiều lần trùng tu. Dưới thời vua Bảo Đại (1926 - 1945), nhà thờ Đức Bà đã được trùng tu vào năm Bảo Đại thứ năm, năm Canh Ngọ 1930. Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945, bà con tộc Đoàn đã đóng góp tiền để trùng tu nhà thờ Đức bà vào năm Mậu Tuất 1958. Sau khi miền Nam được giải phóng và thống nhất nước nhà năm 1975, đến năm 2000, nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu bị xuống cấp nặng làm tường vôi bị bong lở, cột kèo bị mối mọt khá nhiều, Hội đồng Gia tộc tộc Đoàn đã huy động con cháu trực thuộc hệ Đông Khương đóng góp tiền và tiến hành trùng tu lớn, làm cho nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu được khang trang như hiện nay. Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu nằm ở bên phải Quốc lộ 1 theo hướng bắc-nam khoảng 100m trên một khu đất cao. Bước qua các bậc tam cấp là một sân hình chữ nhật lát gạch vuông. Giữa sân là tấm bình phong mà ở giữa đắp nổi hình lân nạm sành sứ nhiều màu sắc và hai bên là hình hai con phượng đứng chầu cũng nạm sành sứ sặc sỡ. Qua sân, bước lên tam cấp là gian thờ chính Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu. Trên đỉnh mái ngói âm dương đắp hình lưỡng long chầu nguyệt khá lớn với màu sắc lộng lẫy trông rất đẹp mắt. Mặt tiền của nhà thờ là bốn trụ tròn bằng gạch to trên đó tô đắp hình bốn con rồng lớn mình bao quanh lấy cột, thân và đầu lẫn trong mây cuộn trông rất hoành tráng. Hậu tẩm chia thành ba gian, đặt ba bàn thờ. Ở gian giữa là nơi đặt bàn thờ của Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu với bát nhang, chân đèn, lư hương cổ kính. Ở giữa hương án sơn son thếp vàng đặt thần vị của Hoàng Hậu được phủ tấm lụa điều. Trên thần vị ghi các dòng chữ Hán: “Tiền Triều Thánh Mẫu Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng Hậu”. Phía trước thần vị của Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu là Bài vị của người anh ruột của Hoàng Hậu, trên đó ghi các dòng chữ Hán: “Tiền Triều Quốc Cựu Sầm Oai hầu Đoàn Công Quảng”. Ở gian bên phải, trên bàn thờ đặt Bài vị của ông Nghĩa Sơn Hầu là con trai cả của Sầm Oai Hầu. Ở gian bên trái, trên bàn thờ đặt hai Bài vị của hai người cháu ruột của Hoàng Hậu. Trong hậu tẩm có nhiều liễn đối bằng gỗ ghi chữ Hán thiếp vàng. Trên hai cột ở hai bên gian giữa của hậu tẩm treo câu đối chữ Hán của vua Thành Thái năm thứ sáu, 1894, cúng phụng có nội dung ca ngợi công đức của Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu: Tấn cung đức hậu phụ quốc phong công truyền Nam Sử Khai sáng công cao tí dân vĩ tích tráng Đông Châu. Tạm dịch: Vào cung đức hậu giúp nước công to truyền Nam Sử Mở mang công lớn thương dân tích lớn mạnh Đông Châu. Trên một đôi cột ở các góc hậu tẩm treo một câu đối chữ Hán khác, do vua Bảo Đại năm thứ mười một, 1936, cúng phụng, cũng có nội dung ca ngợi công đức của Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu: Thi châu bộ đại dư đồ thánh mẫu mở nền truyền Nam Sử Phục từ đường bắc hạ xứ tôn lăng kế tập tráng Đông Châu Tạm dịch: Bản đồ địa bạ đất Thi Châu thánh mẫu mở đường truyền Nam Sử Dựng lại từ đường nơi Bắc Hạ tôn lăng noi dấu mạnh Đông Châu. Trên một đôi cột còn lại, treo một đôi câu đối chữ Hán cũng có nội dung ca ngợi công đức của Đức Bà Hiếu Chiêu: Hoàng thích công thần trọng ư triều trọng ư quân Khai cơ kiến bộ giáp chi đông giáp chi tây Tạm dịch: Họ ngoại công thần nhà vua trọng trong triều trọng ngoài quận Khai cơ lập họ giáp đến tận Đông giáp đến tận Tây. Đối với nhân dân xứ Quảng, Bà Chúa tằm tang - Đoàn Quý Phi - Hiếu Chiêu Hoàng Hậu là một nhân vật lịch sử được nhân dân địa phương rất kính ngưỡng bởi mối tình tuyệt đẹp của Bà cũng như công lao to lớn của Bà trong nghề trồng dâu nuôi tằm dệt lụa trên quê hương. Bởi vậy, nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu là một di tích - địa danh lịch sử được người dân xứ Quảng hết sức quan tâm.Xót xa... lăng mộ Đoàn Quý Phi TT - Lăng mộ Đoàn Quý Phi tọa lạc tại làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, đã được UBND tỉnh Quảng Nam công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh từ năm 2005. Sau hơn năm năm từ khi trở thành di tích, lăng mộ xuống cấp rất nghiêm trọng. Thành xây vòng trong, vòng ngoài và cả cổng trụ vào lăng mộ đều nứt vỡ, đổ tràn xuống nền đất. Các hoa văn chạm trổ, án thờ tróc lở nham nhở Bà Đoàn Quý Phi (1601-1661) là thân mẫu của Chúa Hiền (Thái Tông Nguyễn Phước Tần). Năm Gia Long thứ 5 (1806) đã truy tôn bà là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫu Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu hoàng hậu. Đây là lăng mộ cổ xưa nhất thời các chúa Nguyễn ở phía Nam, được xây dựng vào khoảng thế kỷ 16, 17. |