CHÙA BÁO THIÊN Ở HÀ NỘI XƯA
Ở Hà Nội, phía Tây hồ Hoàn Kiếm, dọc theo trục Bắc Nam, có một đường phố ngắn (chỉ 300m) phía Bắc tiếp nối với phố Lý Quốc Sư, phía Nam đụng với phố Trường Thi, nằm gọn trong phường Hàng Trống thuộc quận Hoàn Kiếm, mang tên Phố Nhà Chung , thời Pháp thuộc gọi là Rue de la Mission (phố Hội Truyền Giáo hoặc Phố Hội Thừa Sai). Trên đường phố này xúm xít những cơ sở Công giáo như nhà thờ Lớn, Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội, trụ sở của Hội đồng Giám mục Công giáo Việt Nam và mấy cơ sở bên “lương”như Câu lạc bộ Thanh thiếu niên (1) Hoàn Kiếm, Trung tâm Ngoại ngữ Đại học Sư phạm…tiếp giáp với hai ngôi chùa cổ danh tiếng trong sử sách vẫn ghi là chùa Bà Đa (2) và “Đền”Lý Quốc Sư (3).
Thời còn công tác ở Ban Tôn giáo chính phủ, tôi đã nhiều lần đến thăm chùa và nghe vị sư trụ trì (4) chùa Lý Quốc Sư kể chuyện, đưa cho đọc những tư liệu quý giá mà nhà chùa vẫn còn lưu giữ được về khu đất bên cạnh chùa. Thật bất ngờ cho tôi khi đọc thấy những chúng tích rằng toàn bộ khu đất ấy, ngày nay gọi là phố Nhà Chung (Công giáo), ngày xưa la một ngôi chùa (Phật giáo) cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất nước ta.
Chùa đó có tên gọi tắt là Báo Thiên Tự, gọi đầy đủ là Súng Khánh Báo Thiên tự; trong sân chùa có một ngôi bảo tháp cao vòi vọi (12 tầng), cao đến mức bóng tháp soi xuống mặt nước hô (5) Hoàn Kiếm. Tháp này có tên gọi là Đái thắng Tư Thiên tháp, gọi tắt là Báo Thiên tháp (6).
Báo Thiên Tự được khởi công xây dựng từ năm 1056 (7) (đời vua Lý Thánh Tông), đúc một quả đại hồng chung nặng đến 1vạn 2 ngàn cân (7260kg). Báo Thiên tháp có chóp làm bằng đồng, được xây dựng một năm sau khi xây dựng xong chùa. Trong chùa và tháp có rất nhiều vật hạng bằng đồng như tượng Phật, thiền trượng, giới đao hộ pháp nhà Phật….Cho nên năm 1426, khi quân Minh xâm lược bị vây khốn trong thành Đông Quan (tức Hà Nội), chúng cố thủ để chờ quân tiếp viện, đã đến chùa cướp phá tàn bạo: Tốc chóp tháp đồng, nấu chảy đại hồng chung và tất cả những gì bằng đồng, bằng kim loại để làm vũ khí (đúc súng) chống lại quân Việt Nam của Lê Lợi-Nguyễn Trãi mãi cho đến khi biết rõ là các đạo quân tiếp viện (Liễu Thăng, Mộc Thạnh) đều đã bị đánh tan cả, mới chịu đầu hàng. Tuy nhiên, nhà Lê không để chùa bị bỏ hoang, cho trùng tu và đại trùng tu nhiều lần nên ngôi chùa vẫn giữ vị thế bậc nhất nước ta.
Trong chùa Lý Quốc Sư ngày nay vẫn còn lưu giữ bản gấm thêu sắc tứ của đời Cảnh Hưng (tức vua Lê Hiển Tông 1740-1786) về chùa Sùng KHánh Báo Thiên Tự. Trên nền tháp bị phá, đã được tôn cao bằng một đàn tràng cũng gần gần nơi bây giờ là nhà thờ Lớn.
Về lý do diễn biến đổi thay từ chùa và tháp Báo Thiên, một trong “Tứ đại khí” hay “Tứ bảo khí”của Việt Nam cổ (tạm dịch là 4 công trình to lớn và quí báu nhất nước Nam ta) thành ra nhà thờ Lớn, Tòa Tổng Giám mục Hà Nội, Hội đồng Giám mục Công giáo Việt Nam và các tu viện, trường học Công giáo xung quanh đó ngày nay, thì dò theo các quyển sách lịch sử đáng tin cậy như Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hà Thành thất thủ chính khí ca (khuyết danh), bản trường ca về việc Hà Nội bị Pháp đánh chiếm lần thứ 2 (Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu 1829-1882, NXB Đà Nẵng 2001, trang 54-66), Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim; Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam của Nguyễn Văn Tân, NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội 1998; Từ điển đường phố Hà Nội, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội 2000; Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm-Công giáo và Dân tộc, Xuân 1996, Thành phố Hồ Chí Minh; Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long-NXB Văn Hóa Thông Tin-Thời báo Kinh tế Việt Nam, tập I, 2007…tôi suy ra những kết luận chuẩn xác như sau:
Số là, sau khi được triều đình Huế chính thức nhượng 3 tỉnh miền Đông (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) theo Hòa ước 1862 (Nhâm Tuất), đến 1867 (Đinh Mão) quân Pháp lại chiếm một cách dễ dàng 3 tỉnh miền Tây (Vình Long, Châu Đốc, Hà Tiên), soái phủ Sài gòn có ý định chiếm nốt xứ Bắc Kỳ, để thiết lập vững chắc nền đô hộ của Pháp ở Viễn Đông.
Đô đốc Dupré viết thư sang Pháp:
“Xứ Bắc Kỳ rất giàu và nối liền với nước Tàu. Đó là nơi để các tỉnh phì nhiêu Tây Nam xứ Trung Hoa tải sản vật sang cho ta. Việc chiếm cứ xứ này là vấn đề sinh tồn cho tương lai cuộc đô hộ của ta ở Viễn Đông”. (Phan Trần Chúc: Nguyễn Tri Phương. NXB Chính Ký, Sài Gòn 1944, trang 117).
Pháp sử dụng Hòa ước 1862 như một công cụ “tàm thực” (tằm ăn dâu)thần hiệu: “….Đạo Thiên Chúa được tự do truyền giáo”. Người Pháp và người Tây Ban Nha được quyền mở 3 hải cảng Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng yên và tự do đi lại buôn bán trong nước ta…” (Phan Trần Chúc, sđd, trang 87).
Năm 1871, có một thương gia người Pháp tên là Jean Dupuis đi tìm một con đường sông ở Bắc kỳ giao thông với tỉnh Vân Nam của Tàu. J. Dupuis mộ lính Tàu và tập họp một băng đầu trộm đuôi cướp về đóng tại Hà Nội.
Quan ta không có quyền đuổi họ đi, bèn tâu về triều, xin phản kháng với đô đốc thống lĩnh xứ Nam Kỳ. Nhưng Đô đốc Dupré chỉ một mực bênh vực Dupuis.
Tháng 5-1873, quan ta bắt giam đồ đảng người Nam và người Tàu của Dupuis, thì Dupuis bảo sẽ dùng vũ lực phá nhà ngục, đánh tháo cho những kẻ bị bắt giam. Dupuis lại đòi mua muối, củi để tàu của mình dùng, nhưng quan ta không chịu, khiến tình hình càng hết sức căng thẳng.
Thuở ấy, Nguyễn Tri Phương được vua Tự Đức bổ nhiệm chức Bắc Kỳ Khâm mạng tuyền sát đổng sức đại thần (Kinh lược sứ Bắc Kỳ), điều quân từ Sơn Tây về giữ thành Hà Nội.
Đáp lại thư phản kháng của triều đình Huế, soái phủ Sài Gòn còn giúp thêm cho J. Dupuis 3 vạn quan tiền.
Ngày 27-7-1873, Dupré đánh điện tín về Bộ Hải quân:
“Xứ Bắc Kỳ đã mở cửa thông thương nhờ công của Dupuis. Việc này có ảnh hưởng lớn đến thương mại của Anh, Đức, Mỹ. Ta cần phải chiếm xứ này trước, đừng để bọn giặc Tàu hay người Tây phương khác chiếm. Như thế ta sẽ đem lại cho nước Pháp một con đường buôn bán độc quyền. Tôi không xin thêm viện binh. Tôi sẽ đem quân lực sẵn có đi đánh. Sự thành công rất chắc chắn” (Phan Trần Chuc, sđd, trang 119).
Soái phủ Sài Gòn truyền lệnh cho trung tá (8) Francis Garnier mang một tiểu đội chiến thuyền ra Bắc Hà trước để điều tra vụ Dupuis, sau buộc triều đình Huế mở rộng xứ Bắc Kỳ cho người Pháp buôn bán. Ngày 17-9-1873, F.Garnier rời bến Sài gòn; và đến ngày 5-11, đem quân đến Hà Nội.
F. Garnier vừa mới gặp Nguyễn Tri Phương đã khiêu khích rất hách dịch, đòi đóng quân ngay trong hoàn thành, bắt buộc các địa phương phải để cho người Pháp thông thương trên toàn cõi Bắc Kỳ, nhưng Nguyễn Tri Phương cự tuyệt, lý do vì chưa có lệnh triều đình. Thực sự Francis Garnier khiêu khích để châm ngòi cuộc chiến tranh:
“Tôi nhất định đánh. Tôi sẽ đem 180 quân bản bộ hạ thành Hà Nội và bắt Nguyễn Tri Phương giải về Nam, làm tù binh” (Thư của Francis Garnier gởi về Soái phủ Sài Gòn cho Đô đốc Dupré ngày 10-11-1873).
Ngày 20-11-1873, đúng 6h sáng, Francis Garnier truyền lệnh hạ thành Hà Nội. Đại bác ta trên thành bắn ra không có tác dụng gì cả, đạn lướt qua đầu quân Pháp và rớt xuống cả mặt đất phía sau. Quân ta trong lúc hoảng hốt, quăng xuống vô số đá to, đá nhỏ mà chẳng trúng tên quân Pháp nào. Một đại bác của Pháp bắn vỡ cửa Đông, quân Pháp ào tới, ập vào thành. Đến 7h, cớ Pháp bay trên vọng lâu trung ương thành Hà Nội. Phò mã Nguyễn Lâm tử trận. Nguyễn Tri Phương trúng đạn bị thương nặng ở đùi, bị Francis Garnier bắt được. Francis Garnier phái các bác sĩ đến băng bó vết thương, đổ cháo và thuốc vào miệng ông để ông mau phục sức. Nhưng Nguyễn Tri Phương dứt cả băng bó, phun cháo và thuốc ra, nhất quyết tuyệt thực cho đến chết. Francis Garnier đem thông ngôn (9) đến ngồi bên giường ôn tồn an ủi. Nguyễn Tri Phương thản nhiên đáp:
“Làm tướng phải chết và chết ở trận tiền không phải là cái chết nhục nhã” (Phan Trần Chúc, sđd , trang 123).
Ngày 20-12-1873, Nguyễn Tri Phương (10) trút hơi thở cuối cùng, thọ 74 tuổi (1799-1873).
Francis Garnier lúc ấy đóng quân ở Trường Thi (11) đem toàn bộ ngôi chùa Sùng Khánh Báo Thiên Tự ở gần đó giao cho người thông ngôn của mình là Giám mục Puginier làm nhà ở và nơi làm việc tạm thời. Giám mục cho cất thêm mấy gian nhà gỗ trong khuôn viên chùa (12), còn Tòa Giám mục thì vẫn đặt tại Sở Kiện. Trong mấy năm sau đó, tình trạng này vẫn không thay đổi vì chỉ đến ngày 21-12-1873 thì Francis Garnier bị quân cờ Đen phục kích giết chết, quân Pháp rút về Nam, giao Hà Nội lại cho triều đình Huế cai quản theo Hòa ước 1874 (Giáp Tuất).
Mãi cho đến 9 năm sau, Soái phủ Sài Gòn mới cử Henri Rivìere (13) ra đánh chiếm Hà Nội lần thứ 2 (1882-Nhâm Ngọ). Lần này thì Tổng đốc Hà Ninh (14) là Hoàng Diệu (trọng trấn từ 1879) quá phẫn uất trước cảnh vua và triều đình bác nhược chủ hòa (15), không quyết tâm phòng bị, còn các quan chức kế cận mình thì hèn nhát bỏ trốn trước giờ lâm trận, thậm chí phản bội đầu hàng, cho nên sau khi viết xong tờ di biểu, ông đã treo cổ tự tử trên cây ổi ở miếu Công Thần trong Hành Cung Kính Thiên.
Sau khi chiếm được Hà Nội, Henri Rivìere sai phá hủy các cổng thành và nhiều đoạn tường thành, vần hết đại bác trên thành ném xuống hào. Các chùa miếu quanh thành đều bị phá phách, xô sập tất cả, một mặt để lấy gỗ gạch làm công sự (16), mặt khác là để thực hiện chủ trương triệt hạ nền văn hóa cổ truyền bản địa (17) và độc tôn Thiên Chúa giáo mà thực dân Pháp vẫn được Vatican tuyên dương làTrưởng Nữ của Giáo hội. Từ ấy, chùa Báo Thiên biến mất trên bản đồ Hà Nội.
Năm 1884, hàng ước Patenotre được ký kết, triều đình Nguyễn chấp nhận Pháp bảo hộ và chia Việt Nam thành 3 kỳ: Nam Kỳ là xứ thuộc địa (colonie) của Pháp, Bắc Kỳ là xứ bảo hộ (protectorat) của Pháp, Trung Kỳ được gọi là Đế chế An Nam (Empire d’An Nam)-sự thật thì cả ba kỳ đều chung một chế độ lệ thuộc. Ngay trong Đế chế An Nam thì vua mặc dù có những vị vua yêu nước, muốn khôi phục độc lập chủ quyền cho dân tộc, những cuối cùng phải bị bắt bị đày, bởi “vua thì còn đó, nước thì không”…Triều đình quan lại thì mặc dù cũng có những ông quan tận trung báo quốc nhưng bị giết bị tù bởi triều đình quan lại rút cuộc chỉ là con rối trong tay thực dân Pháp mà thôi, Giám mục Puginier mới cho xây dựng lại bằng những vật liệu kiên cố nhà thờ Lớn và các tòa nhà khác của Nhà chung rồi dời Tòa Giám mục (18) về đây.
Năm 1925, Tòa thành Vatican lập Tòa Khâm sứ Tòa thánh ở Việt Nam (Delegúe Apostolique F, Apostolic Delegate E) (19) và trụ sở ban đầu đặt tại Huế, đến năm 1951 mới dời ra Hà Nội và Tòa Khâm sứ Tòa thánh được xây dựng ngay trên khu đất phố Nhà Chung này. Đến năm 1957, sau khi Hiệp đình Genève được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời chia thành 2 miền tập kết quân đội, đợi ngày hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Nhưng chính quyền miền Nam nhất định không chịu hiệp thương tổng tuyển cử, Tòa thánh Vatican thì nhất quyết không thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên chuyển Tòa Khâm sứ tò thánh vào Nam (Sài Gòn) là nơi mà Tòa thánh công nhận là “đại diện duy nhất” (!) cho nước Việt Nam…
Noel (20) 2007, hàng trăm thanh niên Công giáo Hà Nội với danh nghĩa là “theo Giáo hội cầu nguyện hòa bình”đã xông vào địa chỉ 42 phố Nhà Chung đang là trụ sở của Phòng Văn hóa Thông tin, Nhà Văn hóa và Trung tâm Văn hóa Thể thao quận Hoàn Kiếm, phát hàng vạn tờ truyền đơn đòi Nhà nước phải trả lại cho Tòa Tổng Giám Mục khu đất ở địa chỉ này mà họ cho là của Tòa Khâm sứ(cũ). Họ trưng ra một bức thư của người đại diện Tòa thánh Vatican khi rời Hà Nội vào Sài Gòn năm 1959 cám ơn Tòa Giám Mục Hà Nội đã cho mượn đất để xây dựng Tòa Khâm sứ (cũ). Cuối tháng 1-2008, Tòa Tổng Giám mục Hà Nội chính thức gửi đơn lên Thủ tướng Chính phủ xin lai lô đất số 42 phố Nhà Chung đểlàm chỗ họp của HĐGMCGVN. Đến giữa tháng 2-2008, Ban Văn hóa Trung ương (thuộc Hội đồng Trị sự Phật giáo Việt Nam) chính thức gởi đơn lên Thủ tướng Chính phủ khẳng định lô đất gọi là của Tòa Khâm sứ (cũ) và kể luôn cả khu đất của nhà thớ Lớn Hà Nội đều thuộc khuôn viên chùa Báo Thiên, di sản văn hóa lớn của Phật giáo Việt Nam và như thế lẽ ra là nên được giao về cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tình hình tranh chấp càng lúc càng trở nên phức tạp hơn. Chúng tôi không tham gia vào cuộc tranh chấp phức tạp này. Tuy nhiên chúng tôi không thể không ghi lại lịch sử cụ thể của khu đất bao gồm cả địa chỉ 42, 40 phố Nhà Chung và toàn bộ phố Nhà Chung (hiện nay) rộng đến hàng ngàn mét đất đều nằm trong khuôn viên của ngôi chùa có gần cả ngàn năm và đồ sộ nguy nga bậc nhất nước Nam xưa: Chùa Báo Thiên và tháp Báo Thiên đã hình ảnh đau thương của dân tộc ta dưới gót giày xâm lược: Quân xâm lược Tàu và quân xâm lược Pháp. Trước hết cần nói rõ về tháp Báo Thiên Tháp có tên đầy đủ là Đại Thắng Tư Thiên tháp, xây dựng năm 1057 (Quí Dậu). Tháp cao 12 tầng, không biết nó cao bao nhiêu mét bởi trong lịch sử chỉ ghi là vài chục trượng (21), không rõ là 25, 30, 35 trượng (tức 83m, 100m,117m), chỉ biết nhà thơ Phạm Sư Mạnh đời Trần có bài thơ về tháp như sau: Trấn áp Đông Tây, cùng đế kỳ Dịch nghĩa: Trấn áp Đông Tây, giữ vững kinh kỳ/ Ngọn tháp vượt hẳn lên giữa trời cao sừng sững/ Chiếc cột chống trời đứng đó làm cho non sông yên ổn/ Như mũi dùi trên đất xưa nay chẳng hề mòn. Tháp bị hư hỏng như thế nào thì mỗi sách viết mỗi cách khác nhau: - Theo Sổ tay địa danh Việt Nam của Đinh Xuân Vinh (NXB Lao Động, Hà Nội 1996, tr. 42) ghi rằng: “…cao 12 tầng, là một trong An Nam tứ khí, Năm 1258 đời Trần Thánh Tông gió to đổ mất đỉnh tháp, năm 1322 đời Trần Minh Tông sét đánh đổ mất hai tầng nữa, năm 1406, chỏm tháp Báo Thiên bị gảy. Năm 1884 bị bỏ hoang và đổ nát”. - Theo sách Hà Nội nghìn xưa của Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán (NXB Hà Nội 1979) và sách Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX của Nguyễn Văn Uẩn (NXB Hà Nội 1994 tập II, tr. 543) thì ghi rằng “…Thời Minh thuộc, tướng giặc Vương Thông bị nghĩa quân Lam Sơn vây khốn trong thành Đông Quan, chúng đã phá các chùa chiền, vơ vét chuông khánh đồng để đúc binh khí chống lại quân ta. Tháp và chùa Báo Thiên bị phá hủy nặng nề và chuông Báo Thiên bị mất”. - Tr. 544 ghi thêm “Năm Giáp Dần 1434, vua Lê Thái Tông mở mang khu vực Hồ Gươm, sai thợ khéo dựng lại chùa Báo Thiên, còn ngôi tháp đổ không xây lại được nữa. Chỗ nền tháp cũ chỉ còn là một gò đất cao….thành nơi họp chợ của dân phường Báo Thiên, dôi khi dùng làm chỗ hành hình tội nhân”. Như vậy có thể khẳng định tháp Báo Thiên chỉ tồn tại đến trước khi Lê Thái Tổ lên ngôi (1428). Nhưng vì sao mà tháp bị đổ thì vẫn còn là một nghi vấn vì các nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán, Nguyễn Văn Uẩn cho rằng bị Vương Thông phá, còn Đinh Xuân Vịnh lại cho rằng bị gió to, sét đánh… Truy lịch sử trước đời Lê, thì Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên (NXB Văn Hóa Thông Tin 2004, tập II, tr. 41), có ghi chuyện “Vương Thông nước Minh vì thua trận ở Tốt Đông, quân khí gần hết, bàn phá chuông Qui Điền và đỉnh Phổ Minh (trong An Nam tứ khí) để làm súng đạn và ống phun lửa..”. Trận Tốt Động (chữ Tốt cũng đọc là Tụy, Toại) nổ ra ngày 7 và kết thúc ngày 10 tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) và sau đó Vương Thông thua chạy về cố thủ ở Đông Quan (Hà Nội). Nhưng trong phần dịch chú, chuông Qui Điền được cho là của chùa Một Cột và đỉnh Phổ Minh thì lại cho là ở phủ Thiên Trường (Nam Định). Tôi thiết nghĩ là nhà dịch chú đã lầm lẫn, vì tháp Phổ Minh (cao 14 tầng) thờ vua Trần Nhân Tông và chùa Một Cột cách xa nhau hàng mấy trăm km đường bộ, hơn nữa sau trận Tốt Động, Vương Thông bị vây khốn ở Đông Quan, đâu còn cơ hội nào về phủ Thiên Trường ở Nam Định? Do đó, chúng tôi thiết nghĩ có thể nhà dịch chú đã hiểu lầm cái chóp tháp đúc bằng đồng ra cái đỉnh (vạc) và án kháo nội đoạn này kể chuyện Vương Thông đến chùa Báo Thiên nấu chảy đại hồng chung và chóp tháp bằng đồng để đúc súng đây. Vả lại phải là chùa và tháp Báo Thiên mới thuộc Tứ đại khí mà thôi. Từ những án khảo nói trên có thể kết luận tháp Báo Thiên bị đổ là vì Vương Thông phái đi để lây chóp đồng. Đến đời nhà Lê thì tháp Báo Thiên không còn nữa. Bây giờ bàn đến việc chùa Báo Thiên biến mât là vì đâu? Điều này rất quan trọng bởi có ý tưởng xuyên tạc rằng khi xây dựng nhà thờ Lớn thì ngôi chùa đã không còn nữa, hoặc chỉ là một đống hoang tàn đổ nát vô chủ? Trong Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, tr. 41 có ghi việc vua Lê Thái Tông đại trùng tu chùa Báo Thiên năm 1434. Ngày nay trong chùa Lý Quốc Sư vẫn còn lưu giữ bức gấm thêu sắc tứ chùa Báo Thiên đời Cảnh Hưng cuối thế kỷ XVIII. Như vậy là cho đến đầu thế kỷ XIX, chùa Báo Thiên vẫn còn nguyên vẹn là một ngôi chùa sắc tứ (tất nhiên là không còn tháp Báo Thiên). Bởi vấn đề chùa Báo Thiên có liên quan đến Giám mục Puginier, cho nên cần sưu tầm những tư liệu có liên quan đến Puginier. Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim có ghi việc F. Garnier mời Puginier tù Kẻ Sở về Hà Nội làm thông ngôn. Lúc đó (1873) F. Garnier đóng quân ở Trường Thi và đã lấy chùa Báo Thiên (bên cạnh đó) giao cho Giám mục ở và làm việc cho gần. Tổng tập Nghìn năm Văn hiến Thăng Long Hà Nội, tập I, 2007, tr(?), có ghi rằng Giám mục Puginier cho cất tạm thêm mấy gian nhà gỗ bên trong khuôn viên chùa. Nhưng F. Garnier chiếm mà không giữ được Hà Nội bao lâu vì bị quân Cờ Đen giết chết, quân Pháp rút về Nam, giao Hà Nội lại cho triều đình Huế theo Hòa ước 1874. Giám mục lại trở về Kẻ Sở, tuy vậy chùa Báo Thiên lúc đó dù chưa bị phá hủy nhưng với mấy gian nhà gỗ do Giám mục dựng tạm đã trở thành ngôi nhà thờ Công giáo được các thày kẻ giảng người Việt trông coi. Trong sách Hà Nội pendant la période héroique của Masson, Hà Nội 1912, tr (?), có tả lại cảnh nhà thờ này: “Nhà mới dựng giống như một ngôi đền Á Đông, có gian giữa rộng với nhiều cột bằng gỗ lim…”. Mãi cho đến khi H. Rivìere đánhchiếm Hà Nội lần thứ II (1882) thì nhà thờ mới có ba cố Tây về cai quản. Masson (sách đã dẫn trên) có kể lại chuyện ngôi nhà thờ này bị đốt phá. Năm 1883, H. Riviere bị quân Cờ Đen giết chết, các nơi có quân Pháp đóng bị tấn công. Tại khu vực nhà thờ này có một tiểu đội Pháp đóng (cùng với một số giáo dân được cấp súng làm vệ binh). Đêm 19-5-1883, số lính tráng này bị tấn công, nhà thờ bị đốt phá tan tành. Ba cố Tây (Landais có tên Việt là Cố Lan, Rival-Cố Mỹ, Bertrand-Cố Phước) dẫn thủ hạ chạy sang ăn ở chùa Bà Đá bên cạnh (được xây dựng từ khỏang cuối thế kỷ XV tương truyền để thờ một tượng đá hình người đàn bà lượm được ngay dưới chân tháp Báo Thiên xưa), được Sư cụ chùa Bà Đá che chở cho nên không bị bắt giêt (Việc này Chu Thiên có đề cập trong sách Hùng khí Thăng Long). Rồi khi quân Pháp được tăng viện, chiếm lại khu đất này, thì nhà thờ đã bị đốt phá, những gian nhà gỗ bị cháy rụi, những phần khác của chùa xưa còn trơ lại những mảnh đống nham nhở đổ nát. Giám mục Puginier muốn xây dựng mới hoàn toàn, nhưng nhận thấy tính cách pháp lý của vấn đề chưa ổn, bèn bàn với Công sứ Bonnal và được Bonnal bày mưu, giao hết trách nhiệm về tay Tuần phủ Nguyễn Hữu Độ. Tuần Độ lập kế rất kín kẽ chi ly: Trước hết gọi các kỳ hào phường Báo Thiên (mà hầu hết là giáo dân) lên bắt làm đơn xin cào sạch mọi di tích của chùa Báo Thiên cũ với lý do là chùa đổ nát để vậy dễ gây tai nạn nguy hiểm. Sau đó Tuần Độ cho đi tìm chủ nhân của khu đất này. Thì chùa được xây dựng từ đời nhà Lý (thế kỷ XI) “đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” làm sao có ai nhận mình là chủ? Vả lại trước đây F. Garnier lấy chùa còn khang trang giao cho Puginier là chỗ ở và chỗ làm việc rồi, mọi động thái sau này của Tuần phủ Nguyễn Hữu Độ chẳng qua chỉ là pháp lý hóa một việc đã rồi mà thôi. Thế là Tuần Độ đem mảnh đất “vô chủ”ấy giao hết cho Giám mục Puginier để làm nhà thờ Lớn. (Những sự việc kể trên đều được đích thân Bonnal kể lại với tất cả niềm hãnh diện của một công sứ Pháp đã trí tuệ đóng góp cho sự nghiệp của đạo Công giáo trong tập bút ký Bonnal: Souvenirs . Villebonnet đăng lại toàn bộ và dẫn chú tập bút ký này năm 1929, (NXB) Librairie Orientaliste Paul Ganthner 13 rue Jacob, Paris Vie, tr. 125). Những chứng cứ này còn được một nguồn khác xác nhận, đó là sách Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX của Nguyễn Văn Uẩn, NXB Hà Nội 1995, tập II, tr. 547, trong đó còn kể lại việc Giám mục Puginier kiếm tiền xây dựng nhà thờ bằng cách quyên góp và xổ số. Giám mục đã mở nhiều đợt xổ số: cuộc xổ số năm 1884 thu được 10 vạn đồng, cuộc xổ số năm 1886 được 6 vạn đồng. Nhà thờ Lớn được khánh thành ngày 23-12-1887. Nguyễn Văn Uẩn lấy tư liệu từ Masson: Hà nội pendant la période héroique 1873-1888, Madrolle guide Hanoi 1912. Còn về chùa Bà Đá thì do đâu mà ỏ trong khu đất này vẫn được nguyên vẹn? Chùa Bà Đá được dựng lên để thờ một tượng đá hình người đàn bà nhặt được nơi chỗ chân tháp Báo Thiên đã bị phá năm 1426. Đến 1786, chùa bị phá hủy và tượng Bà Đá bị mật. Sau đó chùa được trùng tu và một tượng Phật bằng đá được thế vào. Tuy vậy chùa vẫn mang tên là chùa Bà Đá, tên chữ là Linh Quang Tự. Chùa Bà Đá không phải di dời ra khỏi khu vực phố Nhà Chung vì Nhà Chung nhớ ơn cưu mang của sư cụ đối với 3 giáo sĩ Pháp là Landais, Rival, Bertrand trong đêm 19-5-1883 quân Cờ Đen tấn công Nhà Chung bắn giết giáo sĩ. Điều cuối cùng là Tòa Khâm sứ. Theo đúng nghĩa thì Tòa Khâm sứ không phải là Tòa Đại sứ, lý do là vì Vatican chưa bao giớ lập Đại sứ với Việt Nam. Tòa Khâm sứ là cơ quan đại diện cho tòa thánh làm việc với Giáo hội (22) (với các Giám mục). Tòa Khâm sứ lập ra năm 1925 (23), ban đầu đặt ở Huế, đến năm 1951 dời ra Hà Nội và đến 1959 thì dời vào Sài Gòn. Lý do vì sao Tòa Khâm sứ Tòa thánh Vatican lại không để ở Hà Nội là : Vatican không chịu nhìn nhận Chính phủ VNDCCH mà chỉ nhìn nhận Chính phủ VNCH ở Sài Gòn như là người đại diện duy nhất của nước Việt Nam. (Năm 1954, hiệp định Geneve tạm thời chia đất nước Việt Nam thành hai vùng tập kết quân đội, đợi ngày hiệp thương tổng tuyển cứ hòa bình thống nhất. Nhưng nhà đương cuộc Sài Gòn không chịu hiệp thương, Vatican thì không chịu công nhận Chính phủ VNDCCH ở Hà Nội. Vì vậy Chính phủ ở Hà Nội trục xuất Khâm sứ và tịch thu Tòa Khâm sứ). Tóm lại, chùa Báo Thiên ở Hà Nội xưa quả thật đã là nạn nhân cực kỳ đau khổ của các thế lực xâm lược nước ngoài. Lịch sử của chùa và tháp Báo Thiên có liên quan với thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, với “máu lệ những kẻ tôi trung tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương”(24) của Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu. Tuy chùa và tháp Báo Thiên không còn trên bản đồ thành phố Hà Nội nhưng chứng tích lịch sử thì vẫn rành rành ra đấy, 120 năm (1887-2007) đối với một đời người thì là dài, nhưng đối với lịch sử thì chẳng là bao lăm cả, dù vật đổi sao dời, dù mưu thâm kế độc, thế nào rồi cũng tìm ra được sự thật sáng ngời. Ôi! Một mảnh đất của Tổ quốc thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và máu đào của dân tộc! Chú Thích 1. Nay đã chuyển thành trụ sở Phòng Văn hóa Thông tin, Nhà Văn hóa và Trung tâm Văn hóa Thể thao quận Hoàn Kiếm. 2. Nguyên vào đời Lê sơ (thế kỷ XV) dân sở tại đào được ở chân tháp Báo Thiên, bấy giờ đã bị quân Minh tốc mái đồng xô sập (năm 1426), một tượng đàn bà bằng đá, bèn lập am để thờ. Am được mở rộng thành chùa thờ Phật, gọi là chùa Bà Đá, tên chữ là Linh Quang Tự. Năm 1786 (Bính Ngọ) chùa bị phá hủy, tượng đá bị mất. Sau đó chùa được làm lại và một pho tượng Thích Ca bằng đá đã được thay tượng cũ. Vào thời Tây (H. Rivere) chiếm Hà Nội lần thứ II. Đêm 19-5-1883, quân Cờ Đen đột nhập vào khu vực phố Nhà Chung này, đột phá nhà thờ bấy giờ còn bằng gỗ, giết hại các giáo sĩ và giáo dân, có ba cố đạo (Landais, Rival, Bertrand) và mấy con chiên nữa, đã chạy vào chùa, được Sư trụ trì chùa Bà Đá che chở nên thoát nạn. Nhờ đó, Nhà Chung nhớ ơn, chỉ lấy bớt đi của chùa một ít đất, chứ không bắt phải di dời ra khỏi khu vực. Masson: Hà Nội pendant la période heroique-Madrolle guide Hà Nội 1912. 3. Thờ Lý quốc sư Nguyễn Minh Không (1066-1141), nguyên là tịnh xá triều đình cho dựng lên bên cạnh chùa Sùng Khánh để sư Minh Không (trụ trì chùa Cổ Lễ-Nam Định)ở khi ông về Hà Nội chữa bênh cho vua Lý Thần Tông. 4. Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm 5. Báo Thiên Tháp Ánh: Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam, NXB Văn Hóa-Thông tin, Hà Nội 1998, tr. 92. 6. Phạm Đình Hổ: Tang thương ngẫu lục: “Tháp xây bằng đá và gạch; viên gạch nào cũng có hàng chữ “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo”. Nền tháp cao có 4 cửa; trong tháp có tượng người, tiên chim muông bằng đá đem từ Chiêm Thành về. Cửa tầng ba có khắc “Thiên tử vạn thọ”. Suốt 12 tầng tháp đều có cửa, tầng trên cùng đúc bằng đồng. Đỉnh tháp có hàng chữ “Đạo lệ thiên” (đạo vói tận trời). 7. Nguyên văn: “Bính Thân, năm thứ 3, mùa Hạ, tháng 4, xuống chiếu khuyến nông, làm chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát 1vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông lớn. Vua (Lý Thánh Tông nổi tiêng thương dân như con. LQV chú) thân làm bài mình. Đinh Dậu, năm thứ 4, mùa Xuân, tháng Giêng, xây bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên, cao vài chục trượng, 12 tầng…” (ĐVSKTT, tập I, NXB VHTT 2004, tr. 318). 8. Capitaine de fregate, Trần Trọng kim dịch là Đại úy, nhưng tôi (Lê Quang Vinh) nhận thấy quá thấp, bởi trong Hải quân Pháp có, Capitaine có nghĩa là chiến thuyền trưởng chứ không phải là đại úy như trong lục quân, hơn nữa có 3 cấp Capitaine là Capitaine de corvette = thiếu tá hải quân; capitaine de fregate = trung tá hải quân; Capitaine de vaisseau = đại tá hải quân do đó đề nghị dịch lại là trung tá hải quân (theo Larousse 1992). 9. Chính là Giám mục Puginier (theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim) 10. Tại từ đường họ Nguyễn có hai câu đối ca ngợi gia đình Nguyễn Tri Phương anh dũng hy sinh vì nước: Huynh khốn Bắc, đệ khốn Nam, lưỡng khốn Bắc Nam chi mạng/ Phụ tử trung, tử tứ hiếu, nhất đường trung hiếu chi vinh. 11. Khoảng giữa thư viện KHXH và Trường Kỷ nghệ Hà Nội (theo Hà Thành thất thủ ca, câu 8) 12. Theo Tống tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long, tập I, 2007, trang 13. Capitaine de vaisseau = Đại tá hải quân (xem chú thích số 6) 14. Hà Ninh có hai nghĩa trái ngược nhau: Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược là Hà Nội+Ninh Bình, theo Nguyễn Hoàng Viên trong Hoàng Diệu 1829-1882 là Hà Nội+Ninh Bình+Hà Nam, nhưng theo Hoàng Xuân Hãn trong bản nghiên cứu về Chính khí ca thì lại là Hà Nội+Bắc Ninh. 15. Tự Đức nói: “Bàn hòa là người có công, bàn chiến là kẻ có tội…” (Đặng Duy Thúc: Thăng Long, Đông Kinh, Hà Nội, nơi hội tụ nhân tài. NXB Hà Nội 1996). 16. Trong Hà Thành thất thủ ca có ghi: Kinh thiên ngài ngự thếp vàng/Tây ngồi đánh chén với đoàn thanh lâu/Các chùa miếu đâu đâu đấy tá/Can gì Tây cũng phá tan tành? (câu 115-118). 17. Còn có một yếu tố tinh thần khác dẫn đến quyết định của H. Rivere phá hết các đình chùa ở Hà Nội mà Giáo sư Vũ Khiêu có nhắc tới: “Ngay từ giờ phút đầu tiên”các đình chùa đều đánh trống, gõ mõ, khua chiêng vang dội để khoa trương thanh thế áp đảo địch và hỗ trở cho tinh thần quyết chiến của quan quân trong thành…” (Giáo sư Vũ Khiêu: Lễ tưởng niệm danh nhân yêu nước Hoàng Diệu nhân 170 năm sinh tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội ngày 30-10-1999. Nguyễn Hoàng Viên: Hoàng Diệu, NXB Đà Nẵng 2001, tr. 216). 18. Tên gọi của Tòa Giám mục đã thay đổi rất nhiều lần kể từ khi đạo Thiên Chúa được truyền vào Việt Nam. Năm 1679, tòa thánh chia địa phận Đàng Ngoài ra làm hai: Địa phận Tây và dịa phận Đông Đàng Ngoài. Năm 1846, dịa phận Tây Đàng Ngoài lại được chia làm hai: Địa phận Tây Đàng Ngoài và địa phận Nam Đàng Ngoài. Hà nội nằm về phía Tây nên thuộc về Giáo phận Tây Đàng Ngoài. Tòa Giám mục lúc ấy được gọi là Tòa Giám mục Tây Đàng Ngoài. Mãi đến năm 1924 mới lấy tên nơi đặt Tòa Giám mục làm tên gọi các Giáo phận. tòa Giám mục Hà Nội có tên từ ấy (GHCGVN, niên giám 2004, tr.218) 19. Apostolic Delegate: Khâm sứ Tòa thánh tức vị đại diện của Đức Giáo hoàng, không làm nhiệm vụ ngoại giao như apostolic nuncio mà chỉ lam nhiệm vụ của Giáo hội là liên lạc với các Giám mục ở những quốc gia không có quan hệ ngoại giao chính thức với Vatican (Nguyễn Đình Diễn: Từ điển Công giáo Anh Việt, NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2002, tr. 49). 20. Sự thật những cuộc “biểu tình cầu nguyện “bắt đầu từ đêm 18-12-2007 và chấm dứt ngày 2-2-2008. 21. Trượng = 3,3333m 22. Xem chú thích số 19. 23. Nếu từ gốc gác thì năm 1922, Giáo hoàng Pio XI đã cử Giám mục Dòng Tên Lecroart dịa phận Thiên Tân, Trung Quốc làm Khâm sai Tòa thánh đi quan sát tình hình các giáo phận ở Đông Dương: năm 1925, Giáo hoàng Pio XI lập Tòa Khâm sứ Đông Dương, Thái Lan và ngày 25-5-1925 cứ Giám mục Constantino Ayuti làm KHâm sứ Đông Dương. Ban đầu, Tòa Khâm sứ đặt tại Hà Nội, nhưng lúc đó, Hà Nội không phải là kinh đô của nước, cho nên phải đưa về Huế, kinh đô đế chế An Nam và Tòa khâm sứ đặt gần nhà thờ Chính tòa Phú Cam; năm 1928, Giám mục Constantino Ayuti qua đời. giáo hoàng Pio XI cử Giám mục Columban Dreyer đến thay (vẫn ở Huế); năm 1937, giám mục Antonio Drapier được cử về thay (vẫn ở Huế). Năm 1945, nước Việt Nam tuyên bố độc lập và thủ đô là Hà Nội. Năm 1950, Giáo Hoàng Pio XII cử GM John Jarlath Dooley (người Ireland) làm Khâm sứ Đông Dương; năm 1951, Tòa Khâm sứ Đông Dương được dựng lên tại Hà Nội. Năm 1954, nước Việt Nam bị chia thành 2 miền Nam Bắc, Giám mục J.J Dooley vẫn ở lại miền Bắc nhưng Vatican nhất quyết vẫn coi Nhà nước VNDCCH như là một chính quyền bất hợp pháp vàcương quyết không thừa nhận. Năm 1959, Chính phủ VNDCCH trục xuất chức Khâm sử. Tháng 3/1959, Giám mục j.J Dooley lấy lý do sức khỏe vào Nam; Linh mục Terence O’Driscoll được cử làm Quyền Khâm sứ, nhưng chỉ được mấy tuần thì Chính phủ VNDCCH trục xuất và tịch thu Tòa Khâm sứ. 24. Hồ Chí Minh: Lịch sử nước ta: Nước ta nhiều kẻ tôi trung/Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương/ Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương/Cùng thành còn mất, làm gương để đời.
|